BỘ TƯ PHÁP
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
---o0o---
BÀI THU HOẠCH
KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
HỒ SƠ TÌNH HUỐNG LS.DS – 07
Họ và tên
:
Ngày sinh
:
Số báo danh
:
Lớp Luật sư
:
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2023
MỤC LỤC
1
I. TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP VÀ YÊU CẦU, TRÌNH BÀY CỦA
CÁC ĐƯƠNG SỰ..................................................................................................2
1. Tóm tắt nội dung tranh chấp...............................................................................3
2. Yêu cầu của nguyên đơn và chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn......................................................................................................................5
2.1. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn..................................................................5
2.2. Chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn..............................5
3. Trình bày quan điểm của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.....6
II. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HỎI ( BẢO VỆ CHO NGUYÊN ĐƠN )...............8
1. Hỏi nguyên đơn...................................................................................................8
2. Hỏi bị đơn...........................................................................................................8
3. Hỏi người có quyền và nghĩa vụ liên quan.........................................................9
III. LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN.............................................................9
2
I. TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP VÀ YÊU CẦU, TRÌNH BÀY CỦA
CÁC ĐƯƠNG SỰ
1. Tóm tắt nội dung tranh chấp
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hảo, sinh năm 1978.
ĐKHKTT: Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải
Dương.
Hiện trú tại: Thôn Nam Giàng, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải
Dương.
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Nguyệt, sinh năm 1976.
ĐKHKTT: Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải
Dương.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn
Văn Cang.
Đều trú tại: Khu dân cư số 2, thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, thành phố Hải
Dương, tỉnh Hải Dương.
Ngày 26/03/1999, chị Nguyễn Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt đăng ký kết
hôn tại UBND xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách (nay là thành phố Hải Dương), tỉnh
Hải Dương trên cơ sở tự nguyện.
Sau khoảng 02 năm chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và đã ly thân hơn
01 năm. Mặc dù đã tiến hành các thủ tục hồ giải nhưng vì kết quả hồ giải khơng
thành. Q trình chung sống, anh chị có 02 người con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi (
sinh 04/01/2000) và cháu Nguyễn Đức Anh ( sinh 13/06/2007). Sau khi hai anh chị ly
thân, cháu Nhi sống với mẹ tại nhà mẹ đẻ chị Hảo, cháu Đức Anh sống với bố. Đến
3
ngày 02/01/2016 (Theo như hồ sơ) thì chị Hảo làm đơn gửi đến Toà án nhân dân
Thành phố Hải Dương yêu cầu Toà án giải quyết những vấn đề sau:
- Yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn Nguyệt.
- Về con chung: chị Hảo yêu cầu được quyền nuôi cả 02 người con là cháu
Nguyễn Thị Nhi (Sinh ngày 04/01/2001) và cháu Nguyễn Đức Anh (Sinh
ngày 13/06/2007).
- Về tài sản chung: chị Hảo xác định tài sản chung gồm có:
+ Quyền sử dụng thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, với diện tích 216 m2tại xã
Thượng Đạt, thành phố Hải Dương. Tài sản trên đất gồm: 01 ngôi nhà 18 m 2 lợp ngói,
01 gian bếp bà nhà vệ sinh khoảng 10 m 2 , 01 giếng khơi, 01 bể xây gạch xi măng
khoảng 1,6 m3 . Tại đơn khởi kiện, chị Hảo có u cầu chia đơi nhà đất nhưng sau đó,
tại Biên bản hịa giải ngày 12/07/2016, chị Hảo thay đổi yêu cầu không yêu cầu chia
tài sản mà chỉ yêu cầu chia một nửa diện tích đất trên và xin được lấy phần khơng có
tài sản.
+ 1965 m2 đất ruộng, ao khốn có địa chỉ tại Bài Nam, khu 02 Thượng Triệt, xã
Thượng Đạt, thành phố Hải Dương để chuyển đổi cơ cấu câu trồng theo hợp đồng thuê
với UBND. Trong quá trình khởi kiện chị Hảo u cầu được th khốn 1 nửa diện
tích trên về sau chị Hảo rút yêu cầu này.
- Về khoản nợ chung: Khoản nợ đối với ngân hàng Aribank nợ gốc 20.000.000
đồng và số tiền lãi phát sinh cho đến khi tất tốn hợp đồng. Anh Nguyệt có
trách nhiệm trả khoản nợ này, Nếu anh Nguyệt không trả được thì chia đơi
nghĩa vụ trả nợ.
Anh Nguyệt đồng ý u cầu ly hôn và yêu cầu đối với khoản nợ chung, tuy nhiên,
phản đối với các yêu cầu về quyền nuôi con và chia tài sản. Cụ thể:
4
- Về con chung: Không đồng ý cho chị Hảo nuôi 02 con chung, đề nghị giao
cháu Đức Anh cho anh Nguyệt trực tiếp nuôi dưỡng, chị Hỏa nuôi cháu Nhi
không ai phải cấp dưỡng cho ai.
- Về tài sản chung:
+ Tài sản chung chỉ bao gồm 01 ngôi nhà 18m2 lợp ngói, 01 gian bếp bà nhà vệ
sinh khoảng 10m2 , 01 giếng khơi, 01 bể xây gạch xi măng khoảng 1,6 m3, anh
Nguyệt đồng ý chia đôi, xin được nhận hiện vật và trả tiền cho chị Hảo. Còn đất tại
thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, với diện tích 216 m2tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải
Dương không phải là tài sản chung của vợ chồng mà là tài sản của bà Nguyễn Thị
Thoa, mẹ anh Nguyệt nên anh không đồng ý chia.
+ 1965 m2 đất ruộng, ao khốn có địa chỉ tại Bài Nam, khu 02 Thượng Triệt, xã
Thượng Đạt, thành phố Hải Dương để chuyển đổi cơ cấu câu trồng theo hợp đồng thuê
với UBND không đồng ý chia. Về sau, anh Nguyệt thống nhất với chị Hảo khơng u
cầu Tịa án giải quyết tài sản này.
2. Yêu cầu của nguyên đơn và chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn
2.1. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
- Về quan hệ hôn nhân: yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn Nguyệt.
- Về con chung: nuôi 02 con chung, không yêu cầu anh Nguyệt cấp dưỡng.
- Về tài sản chung: chia đôi tài sản chung là thửa đất 496 bằng hiện vật, không
yêu cầu giải quyết các tài sản khác.
2.2. Chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
- Tài liệu chứng minh tư cách đương sự: chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu gia
đình của chị Nguyễn Thị Hảo.
- Tài liệu chứng minh quan hệ tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn:
+ Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn
5
+ Giấy khai sinh của cháu Nguyễn Thị Nhi và Nguyễn Đức Anh
+ Biên bản xác minh cán bộ tư pháp xã - chứng minh mâu thuẫn trong quan hệ
hôn nhân giữa anh Nguyệt chị Hảo xuất phát từ phía anh Nguyệt chời bời, hay đánh
đập chửi bới vợ con.
- Tài liệu chứng minh yêu cầu khởi kiện của chị Hảo là có căn cứ:
+ Đơn đề nghị của cháu Nhi, cháu Anh muốn được ở với mẹ là chị Hảo - chứng
minh nguyện vọng của 02 con chung muốn được mẹ trực tiếp nuôi dưỡng ( hai cháu
đều trên 07 tuổi theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, cần xét đến nguyện vọng
của con).
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 496 đứng tên anh
Nguyệt, chị Hảo _ chứng minh tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
+ Biên bản xác minh của cán bộ địa chính xã và Biên bản ghi lời khai của anh
Quyết, anh Cương, anh Chuyển - chứng minh chị Hảo có cơng sức đóng góp trong
việc tạo lập tài sản chung vợ chồng.
+ Biên bản lấy lời khai của ông Giới, ông Tơ, ông Tạo - chứng minh tài sản trên
đất là tài sản chung của vợ chồng.
3. Trình bày quan điểm của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Sau khi vợ chồng kết hôn và sinh sống được khoảng 02 năm, quan hệ vợ chồng
bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Lý do, bởi vì cơ Hảo hay ghen, và thường xun bỏ về
nhà mẹ đẻ. Bố mẹ đẻ đã nhiều lần đưa cô ấy về nhà và buộc phải xin lỗi anh Nguyệt,
nhưng về sau cô ấy vẫn tiếp tục tái diễn. Đỉnh điểm của mâu thuẫn là khi gia đình cơ
ấy sang đập phá nhà anh Nguyệt và đe doạ đến sức khoẻ, tính mạng của anh. Nay, khi
biết cơ Hảo đã khởi kiện lên tồ án, địi giải quyết ly hơn, anh Nguyệt xin có một số ý
kiến như sau:
- Về quan hệ hôn nhân, anh Nguyệt đồng ý ly hôn với chị Hảo.
- Về con chung: anh Nguyệt không đồng ý việc chị Hảo nuôi 02 con, anh yêu
cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đức Anh, giao cháu Nhi cho chị Hảo nuôi
6
dưỡng, những lý do sau: Thứ nhất, chị Hảo không đủ điều kiện nuôi con, bằng
chứng là với mức thu nhập không ổn định 5-6tr/ tháng, chị đã cho bé Nhi (là
con gái lớn của 02 vợ chồng) hiện đang ở cùng mẹ phải nghỉ học. Cháu Đức
Anh ở với anh Nguyệt, sau khi nhận ra vấn đề đã làm đơn xin được tiếp tục ở
với bố. Thứ hai, về phần mình, anh Nguyệt đảm bảo có thể lo được cho cháu
Đức Anh bởi lẽ, ngoài mức thu nhập ổn định 6 triệu/ tháng anh Nguyệt cịn có
thu thập thứ 02 từ diện tích đất th khốn của UBND xã Thượng Đạt. Đồng
thời, ngồi anh Nguyệt, cháu Đức Anh cịn nhận được sự chăm sóc từ anh chị
em trong gia đình của anh để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho cháu.
- Về tài sản chung, anh Nguyệt có các ý kiến như sau:
+ Tài sản chung của vợ chồng chỉ có duy nhất 01 ngơi nhà 18 m² lợp ngói, 01
gian bếp và nhà vệ sinh khoảng 10 m² , 01 giếng khơi, 01 bể xây gạch xi măng khoảng
1,6 m³, ngồi ra khơng có gì nữa. Tơi đồng ý tài sản trên chia đôi, anh xin được nhận
hiện vật và trả tiền cho chị Hảo
+ Về diện tích đất ở theo GCN QSD Đất H497 được UBND huyện Nam Sách,
tỉnh Hải Dương cấp cho cả 02 vợ chồng ngày 31/12/2005, đây không phải là tài sản
chung của vợ chồng bởi lẽ Nguồn gốc đất đứng tên mẹ tôi là bà Nguyễn Thị Thoa. Khi
mua thửa đất này với giá 1.550.000 đồng, trong đó có 1.000.000 đồng là của anh
Nguyễn Văn Quyết, 550.000 đồng là của em trai tôi là anh Nguyễn Văn Chuyển, mẹ
tôi đứng ra thực hiện giao dịch. Sau đó, đến năm 1999 bố mẹ tơi cho vợ chồng tơi xây
dựng cơng trình nhà ở trên đất để tách ra ở riêng. Năm 2005, UBND xã Thượng Đạt
và UBND huyện Nam Sách tự làm GCN QSD Đất cho tơi, sau đó tơi có kí và nhận.
Gia đình khơng ai biết nên cũng khơng ai có ý kiến gì. Sau này, do cần vốn làm ăn, bởi
vậy nên tơi có lấy GCN QSD Đất để thế chấp cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn để vay tiền, các khoản vay đến nay vẫn chỉ có mình tơi thực hiện nghĩa
vụ trả nợ. Tính đến thời điểm hiện tại còn nợ Ngân hàng 10.000.000 đồng.
7
+ Về diện tích đất ruộng, ao khốn 1965 m² tơi là người trực tiếp ký hợp đồng
th khốn với UBND xã Thượng Đạt, quá trình sử dụng canh tác và hoàn thành các
nghĩa vụ nộp tiền thuê, thuê má đề do mình tơi thực hiện; chị Hảo chỉ đóng góp cơng
sức khơng đáng kể trên diện tích đất này.
Bởi vậy, u cầu Tồ án xét xử cơng bằng, khách quan để đưa ra quyết định tốt
nhất, đảm bảo tinh thần pháp luật và sự công bằng trong xã hội.
II. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HỎI ( BẢO VỆ CHO NGUYÊN ĐƠN )
1. Hỏi nguyên đơn
Tập trung hỏi làm sáng tỏ sự việc, đồng thời chứng minh các yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn là có căn cứ cụ thể: làm rõ khả năng nuôi con của Nguyên đơn, chứng
minh nguồn gốc tài sản chung và cơng sức đóng góp của chị Hảo vào tài sản trên.
- Việc thường xuyên uống rượu và đánh đập vợ con của anh Nguyệt được thể
hiện như thế nào? Có ai làm chứng hay khơng ?
- Kể từ khi ly thân với anh Nguyệt, chị có được gặp cháu Đức Anh khơng?
- Tài sản chung của vợ chồng là mảnh đất được bố mẹ của anh Nguyệt giao lại
cho 02 vợ chồng như thế nào?
- Q trình tơn tạo thửa đất 496 và tạo lập các tài sản trên đất của anh chị?
- Kể từ khi anh chị được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có ai có ý
kiến gì hay tranh chấp gì khơng?
- Ai là người thực hiện nghĩa vụ đóng thuế đất cho Nhà nước từ năm 1999 cho
đến nay?
2. Hỏi bị đơn
Tập trung vào những điểm yếu của bị đơn trong việc chăm sóc con cái, yêu cầu
chứng minh tài sản không phải tài sản chung:
8
- Trong q trình chung sống, anh có thường xun đánh đập, chửi bới chị Hảo
khơng?
- Anh có tạo điều kiện cho chị Hảo được thăm cháu Đức Anh không? Cụ thể
như thế nào?
- Các khoản thu nhập của anh đều khơng ổn định vậy anh có đảm bảo việc nuôi
dưỡng cháu Đức Anh?
- Tại sao anh không thực hiện thơng báo với gia đình khi nhận được GCN QSĐ
Đất mà UBND cấp cho mình?
- Khi biết việc anh được cấp GNSQSDĐ gia đình anh có phản đối hay tranh
chấp gì khơng?
3. Hỏi người có quyền và nghĩa vụ liên quan
- Hỏi bà Nguyễn Thị Thoa: Yêu cầu làm rõ ý thức của họ khi nào biết anh
Nguyệt được cấp GCN QSD đất? Phản ứng, thái độ như thế nào?
+ Bà có biết việc anh Nguyệt, chị Hảo được cấp GNNQSDĐ khơng? thời điểm
biết? khi biết bà có ý kiến phản đối hay yêu cầu hủy Giấy chứng nhận không?
+ Vợ chồng anh Nguyệt, chị Hảo xây nhà kiên cố trên đất bà có ý kiến gì khơng?
+ Từ năm 1994 đến nay bà có thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đất đối với thửa đất
này không?
- Đới với anh Cương, Quyết và anh Chuyển: Hỏi về sự đóng góp của chị Hảo
trong việc cải tạo mảnh đất chung của 02 vợ chồng, cơng sức khi xây nhà và
đóng góp các tài sản trong nhà.
- Đối với chính quyền UBND, hỏi về quy trình cấp GCN QSDĐcho 02 vợ
chồng anh Nguyệt và chỉ Hảo? hỏi về việc có hay khơng đơn thư khiếu nại khi
anh Nguyệt chị Hảo được cấp Giấy chứng nhận?
9
III. LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN
Kính thưa HĐXX!
Thưa vị đại diện VKS!
Thưa các vị luật sư đồng nghiệp và tồn thể q vị có mặt tại phiên tịa hơm nay!
Tơi tên là abc Cơng ty Luật TNHH ...- Đồn luật sư thành phố Hà Nội. Theo yêu
cầu của bà Nguyễn Thị Hảo và được sự chấp thuận của Quý tịa, tơi tham gia phiên tịa
hơm nay với tư các là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn - chị
Nguyễn Thị Hảo trong vụ án dân sự “ Tranh chấp ly hôn, nuôi con và chia tài sản” với
bị đơn là anh Nguyễn Văn Nguyệt.
Qua nghiên cứu toàn bộ hồ sơ, tài liệu chứng cứ có trong vụ án và kết quả hỏi tại
phiên tịa ngày hôn nay, tôi xin khẳng định các yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị
Hảo là có căn cứ và hợp pháp, bởi lẽ:
Thứ nhất, yêu cầu xin ly hơn của chị Hảo là có căn cứ pháp luật cụ thể tại Điều
51, Điều 54, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Qua các bằng chứng, lời
khai của các đương sự có thể thấy rằng cuộc hôn nhân của vợ chồng anh Nguyệt chị
Hảo lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích hơn
nhân khơng đạt được. Cụ thể tại các bút lục số 17, 18, 19, 20, 24, 61, 62, 81, 83, 84,
92, 104, 108, 115 thì sau khi cưới được khoảng thời gian 02 năm thì anh Nguyệt và chị
Hảo bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do anh Nguyệt thường xuyên tụ tập ăn chơi, về nhà
đánh chửi mẹ con chị Hảo và đuổi chị Hảo ra khỏi nhà. Gia đình anh Nguyệt biết mâu
thuẫn này đã nhiều lần khuyên can anh Nguyệt và hòa giải mối quan hệ vợ chồng
nhưng không thành. Đỉnh điểm mâu thuẫn, anh chị đã ly thân từ năm 2014, chị Hảo về
sống tại nhà mẹ đẻ. Suốt thời gian ly thân, anh chị khơng cịn quan tâm giúp đỡ gì tới
nhau. Điều này cả anh Nguyệt chị Hảo đều thừa nhận và có u cầu được chấm dứt
quan hệ hơn nhân.
10
Kính thưa HDXX, qua những bằng chứng xác thực nêu trên đủ để chứng minh
tình trạng hơn nhân của vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo là trầm trọng, đời sống chung
khơng thể kéo dài, mục đích hơn nhân khơng đạt được vì vậy tơi kính đề nghị HĐXX
chấp nhận u cầu xin ly hôn của thân chủ tôi.
Thứ hai, về việc nuôi con chung.
Đối với cháu Nguyễn Thị Nhi sinh ngày 4/1/2000 là con chung của anh Nguyệt
và chị Hảo. Trong quá trình giải quyết vụ án, cả anh Nguyệt và chị Hảo đều thống nhất
yêu cầu giao cháu Nhi cho chị Hảo trực tiếp nuôi dưỡng thể hiện qua Biên bản hòa
giải tại các bút lục 148-152, 175.177). Đồng thời cháu Nhi cũng có đơn đề nghị được
ở với mẹ (Bút lục 30) và khả năng kinh tế cũng như điều kiện ni dưỡng của chị Hảo
có thể đáp ứng tốt hơn việc nuôi cháu Nhi so với anh Nguyệt.
Đối với cháu Đức Anh sinh ngày 13/7/2007, tính đến thời điểm hiện tại cháu đã
trên 07 tuổi, cần xem xét đến nguyện vọng của cháu. Theo đơn đề nghị bút lục 31,
Biên bản lấy lời khai bút lục 167-168 có thể thấy nguyện vọng của cháu khi bố mẹ
khơng sống chung với nhau là ở với mẹ. Cháu Đức Anh đang trong độ tuổi phát triển
nhân cách và khả năng nhận thức, vì vậy cháu cần sự quan tâm, chăm sóc, ni dưỡng
và tình u hết mực của người mẹ. Đều này khi sẽ được đảm bảo khi cháu Đức Anh ở
với mẹ. Trong khi đó anh Nguyệt thường xuyên tụ tập ăn chơi, không chăm lo cho con
cái, có những hành động bạo lực trong suốt q trình hôn nhân như đánh đập, chửi bởi
vợ con, khi chị Hảo đến thăm cháu Đức Anh thì đánh cả cháu.Với cách hành xử thô
bạo như vậy cháu Đức Anh rất dễ bị ảnh hưởng tâm sinh lý và khả năng phát triển
bình thường của cháu. Khơng chỉ vậy, xét về điều kiện kinh tế của chị Hảo cũng tốt
hơn anh Nguyệt, trong khi thu nhập của anh Nguyệt không ổn định phụ thuộc nhiều
vào chăn ni thì chị Hảo lại có cơng việc cố định với mức lương hàng tháng khoảng
6.000.000 đồng. Với những điều kiện trên đủ cơ sở để khẳng định chị Hảo có điều
kiện tốt hơn anh Nguyệt trong việc trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đức Anh.
11
Hơn thế nữa, tại các bút lục 73,74 ghi lời khai của ông Đỗ Văn Tư - cán bộ tư
pháp xã thống nhất với lời khai của chị Hảo rằng sau khi ly thân anh Nguyệt khơng
cho chị Hảo có cơ hội được thăm nom cháu Đức Anh, sẽ đánh cháu nếu cháu gặp mẹ.
Vậy nếu giao cháu Đức Anh cho anh Nguyệt trực tiếp ni dưỡng thì sẽ rất thiệt thòi
cho cả cháu và chị Hảo khi quyền lợi tại khoản 2 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 khơng được đảm bảo.
Thứ ba, xét về u cầu Tòa án xác định thửa đất 496 là tài sản chung của vợ
chồng hình thành trong thời kỳ hơn nhân và yêu cầu chia bằng hiện vật 1/2 thửa đất
phần khơng có tài sản trên đất của chị Hảo.
Về nguồn gốc của thửa đất các đương sự đều khẳng định bà Nguyễn Thị Thoa đã
đứng ra mua thửa đất này từ UBND huyện Nam Sách. Tuy nhiên theo Quyết định
2689 của UBND huyện Nam Sách thì chỉ giao đất cho các hộ gia đình có điều kiện từ
03 cặp vợ chồng trở lên mà chưa có đất ở riêng theo lời khai của ơng Nguyễn Văn
Bích - cán bộ địa chính xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương ( Bút lục số 75). Vậy
thời điểm đó do có cặp vợ chồng anh Nguyệt, chị Hảo sống cùng ông Cang bà Thoa,
Chuyển - Lơ, Quyết - Hiên thì mới đủ điều kiện để UBND huyện Nam Sách giao đất
cho hộ bà Thoa.
Về cơng sức đóng góp, tơn tạo thửa đất, tại các Biên bản ghi lời khai của anh
Quyết, anh Cương, anh Chuyển (Bút lục 83-87) đều khẳng định thửa đất 496 khi mới
mua về là vùng trũng, chị Hảo đã có cơng sức cùng chồng lấp đất để san phẳng mặt
bằng như hiện nay. Cùng với đó các lời khai cũng khẳng định chị Hảo là người phụ nữ
tần tảo, lo toan, vun vén cho gia đình. Nên có thể khẳng định tài sản trên hình thành
dựa trên cơng sức đóng góp của chị Hảo trong thời kỳ hơn nhân.
Hơn nữa, vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo đã thực hiện việc đóng thuế đất cho nhà
nước từ năm 1999 và được UBND huyện Nam Sách cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với thửa đất 496 theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Điều này được thể
12
hiện tại lời khai của ơng Nguyễn Văn Bích Bút lục số 97. Từ lúc được cấp Giấy chứng
nhận cho đến suốt q trình sử dụng khơng có đơn thư khiếu nại hay tranh chấp về
quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên của vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo. Điều
này được thống nhất từ lời khai của chị Hảo, anh Nguyệt, ơng Bích, bà Thoa và các lời
khai của anh Quyết, Cương, Chuyển.
Từ những căn cứ trên có thể nhận thấy rằng mặc dù nguồn gốc đất là của bà Thoa
nhưng khi xã tổ chức cho các hộ dân trong xã đăng ký kê khai để cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất bà Thoa là chủ đất nhưng không đi kê khai. Vợ chồng anh Nguyệt ở
trên đất, xây nhà kiên cố, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà Thoa và
các anh em trong nhà anh Nguyệt đều biết nhưng không phản đối, khiếu nại gì. Điều
đó thể hiện ý chí của gia đình bà Thoa đã cho anh Nguyệt và chị Hảo diện tích đất này.
Vậy đủ cơ sở để kết luận thửa đất 496 là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ
chồng anh Nguyệt, chị Hảo. Nay chị Hảo có u cầu chia đơi tài sản trên là được nhận
bằng hiện vật là phù hợp. Tôi đề nghị Tòa án áp dụng án lệ số 03/2016/AL-TANDTC,
Điều 33, Điều 59 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu trên của
thân chủ tôi - chị Nguyễn Thị Hảo.
Trên đây là tồn bộ phần trình bảy quan điểm của tôi để chứng minh cho yêu cầu
khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hảo là có căn cứ. Rất mong HĐXX lưu tâm xem xét để
ra một Bản án thấu tình, đạt lý, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho thân chủ tôi.
Trân trọng cảm ơn HĐXX và toàn thể của vị đã lắng nghe!
13
14