Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Công tác trưng bày lưu động của bảo tàng công an nhân dân (từ năm 2000 đến nay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.19 MB, 122 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA BẢO TÀNG

*********

NGUYỄN THU HIỀN

CÔNG TÁC TRƯNG BÀY LƯU ĐỘNG
CỦA BẢO TÀNG CÔNG AN NHÂN DÂN
(TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN THỊ HUỆ

HÀ NỘI – 2011


MỤC LỤC
-------o0o------PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………………1
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………………..2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………………..2
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………2
5. Bố cục…………………………………………………………………………….3
Chương 1. Bảo tàng Công an Nhân dân với công tác trưng bày lưu động
1.1. Khái quát về Bảo tàng Công an Nhân dân…………………………………...4
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Bảo tàng Cơng an Nhân dân……...4
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Bảo tàng Công an Nhân dân…………………11


1.1.3. Nội dung hệ thống trưng bày của Bảo tàng Công an Nhân dân…………15
1.2. Công tác trưng bày lưu động – Một hình thức quan trọng để thực hiện
chức năng tuyên truyền giáo dục của Bảo tàng Công an Nhân dân……………21
1.2.1. Một số khái niệm…………………………………………………………21
1.2.1.1. Khái niệm công tác trưng bày bảo tàng………………………………21
1.2.1.2. Khái niệm trưng bày lưu động, triển lãm lưu động…………………22
1.2.2. Công tác trưng bày lưu động – Một hình thức quan trọng để thực hiện
chức năng tuyên truyền giáo dục của Bảo tàng Công an Nhân dân………………23
Chương 2. Thực trạng công tác trưng bày lưu động của Bảo tàng Công an
Nhân dân


2.1. Mục đích của việc tổ chức trưng bày lưu động tại Bảo tàng Cơng an
Nhân dân…………………………………………………….................................28
2.1.1. Mục đích chính trị………………………………………………………..28
2.1.2. Mục đích xã hội hóa Bảo tàng……………………………………………29
2.2. u cầu của việc tổ chức trưng bày lưu động tại Bảo tàng
Công an Nhân dân……………………………………………………………32
2.3. Trưng bày lưu động của Bảo tàng Công an Nhân dân……………………..34
2.3.1. Xây dựng kế hoạch đề cương trưng bày lưu động……………………….34
2.3.2. Chuẩn bị tài liệu hiện vật phục vụ hoạt động trưng bày lưu động………39
2.3.3. Trang thiết bị phục vụ hoạt động trưng bày lưu động……………………47
2.3.4. Mỹ thuật trong trưng bày lưu động............................................................49
2.4. Các bước thực hiện trưng bày một cuộc trưng bày lưu động……………....51
2.4.1. Công tác chuẩn bị……………………………………………………...51
2.4.2. Tổ chức đi trưng bày lưu động………………………………………...54
2.4.3. Kết thúc trưng bày lưu động…………………………………………...55
2.5. Kết quả hoạt động trưng bày lưu động……………………………………...56
2.6. Hiệu quả công tác trưng bày lưu động……………………………………...59
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác trưng bày lưu

động của Bảo tàng Công an Nhân dân
3.1. Một số nhận xét và đánh giá về công tác trưng bày lưu động của Bảo tàng
Công an Nhân dân………………………………………………………………..63
3.1.1. Những ưu điểm trong trưng bày lưu động……………………………….63
3.1.2. Những hạn chế trong trưng bày lưu động ………………………………65


3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác trưng bày lưu động
của Bảo tàng Công an Nhân dân………………………………………………...67
3.2.1. Nâng cao chất lượng nội dung trưng bày lưu động……………………...67
3.2.2. Nâng cao chất lượng tài liệu hiện vật trong trưng bày lưu động………...70
3.2.3. Tăng cường trang thiết bị phục vụ trưng bày lưu động………………….71
3.2.4. Nâng cao trình độ kỹ năng cho đội ngũ cán bộ trưng bày lưu động…….73
3.2.5. Tăng cường phối hợp với địa phương và nhà trường……………………76
KẾT LUẬN……………………………………………………………………….79
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….81
PHỤ LỤC


3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trưng bày lưu động bảo tàng là hình thức thơng tin cơ bản của bảo tàng
đến với công chúng. Việc trưng bày lưu động dựa trên cơ sở hiện vật gốc và sưu
tập hiện vật gốc. Nó đóng vai trị quan trọng, góp phần giúp cho bảo tàng thực
hiện tốt công tác giáo dục tuyên truyền, phổ biến những tri thức khoa học lịch sử
văn hóa đến với cơng chúng.
Với Bảo tàng Cơng an Nhân dân - một bảo tàng thuộc nhóm bảo tàng loại
hình lịch sử xã hội về lực lượng Cơng an Nhân dân Việt Nam, về tổ chức trực

thuộc Viện Lịch sử Bộ Cơng an (X25) thì cơng tác trưng bày lưu động cũng
khơng nằm ngồi mục đích trên, đặc biệt chú trọng tới việc giáo dục truyền
thống lịch sử của ngành cơng an cho nhóm đối tượng cơng chúng là học sinh,
sinh viên, các cán bộ, chiến sĩ công an.
Ngoài ra, những cuộc trưng bày lưu động của Bảo tàng Cơng an Nhân dân
cịn tùy thuộc vào u cầu, mục đích của những đơn vị, các bộ, các cơ quan ban
ngành của 63 tỉnh, thành phố trong lực lượng công an. Những cuộc trưng bày lưu
động của Bảo tàng Công an Nhân dân trong những năm gần đây đều dựa trên
nền tảng là hệ thống trưng bày chính của bảo tàng. Dựa trên cơ sở đó, các cán bộ
trong Bảo tàng Công an nhân dân đã xây dựng những cuộc trưng bày lưu động ở
khắp mọi miền đất nước để phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân và các cán
bộ, chiến sĩ công an. Những cuộc trưng bày lưu động của Bảo tàng Công an
Nhân dân nhằm giáo dục tuyên truyền truyền thống lịch sử, những hoạt động của
ngành Công an Nhân dân trong hơn 65 năm xây dựng và trưởng thành.
Công tác trưng bày lưu động của Bảo tàng Công an Nhân dân là một hoạt
động thường xuyên và được bảo tàng ngày càng chú trọng. Nó đóng góp một
phần quan trọng trong cơng tác giáo dục, giúp bảo tàng ngày càng phát triển mọi
mặt hoạt động xã hội hóa và hồn thiện hơn các khâu cơng tác trong bảo tàng.


4

Bản thân em là sinh viên khóa 27 - Khoa Bảo tàng – Trường Đại học Văn
hóa Hà Nội và cũng rất u thích nghiên cứu về cơng tác trưng bày lưu động.
Cùng với sự giúp đỡ tận tình của PGS –TS Nguyễn Thị Huệ và các cán bộ đang
công tác tại Bảo tàng Công an Nhân dân, em đã chọn đề tài: “Công tác trưng
bày lưu động của Bảo tàng Công an Nhân dân ( từ năm 2000 đến nay )”, làm
khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển, chức năng nhiệm vụ của

Bảo tàng Công an Nhân dân.
- Nghiên cứu thực trạng công tác trưng bày lưu động của Bảo tàng Công
an Nhân dân từ năm 2000 đến nay.
- Trên cơ sở nghiên cứu đó, đưa ra nhận xét và đề ra những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng công tác trưng bày lưu động trong việc thực hiện chức
năng giáo dục tuyên truyền của Bảo tàng Công an Nhân dân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : Công tác trưng bày lưu động của Bảo tàng Công
an Nhân dân và các tài liệu có liên quan đến nội dung, giải pháp trưng bày lưu động.
- Phạm vi nghiên cứu đề tài : Nghiên cứu về công tác trưng bày lưu động
của Bảo tàng Công an Nhân dân từ năm 2000 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, di sản
văn hóa để phân tích, đánh giá và nhận diện vấn đề nghiên cứu đặt ra.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: bảo tàng học, sử học, xã hội học,…
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp và phân tích, phương pháp thống kê và
phân loại.


5

- Trong q trình thực hiện khóa luận, em đã tìm hiểu thực tế cơng tác
trưng bày lưu động tại Bảo tàng Công an Nhân dân, nghiên cứu thu thập và xử lý
các tài liệu, các bài viết, các kế hoạch và các bản báo cáo tổng kết của Bảo tàng
Công an Nhân dân trong những năm gần đây để phục vụ cho đề tài.
5. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận được chia làm 3 chương.
Chương 1. Bảo tàng Công an Nhân dân với công tác trưng bày lưu động
Chương 2. Thực trạng công tác trưng bày lưu động của Bảo tàng Công an Nhân dân

Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác trưng bày
lưu động của Bảo tàng Công an Nhân dân
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


6

CHƯƠNG 1
BẢO TÀNG CÔNG AN NHÂN DÂN
VỚI CÔNG TÁC TRƯNG BÀY LƯU ĐỘNG
1.1. Khái quát về Bảo tàng Công an Nhân dân
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Bảo tàng Công an Nhân dân
Công an Nhân dân Việt Nam là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, làm
nịng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an
tồn xã hội của Nhà nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Cơng an Nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia và
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, thực hiện thống nhất quản lý về bảo vệ an ninh
quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội, đấu tranh phịng, chống âm mưu, hoạt
động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và các vi phạm pháp luật về an
ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội.
Cơng an Nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự
thống nhất quản lý của Chính phủ và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng
Bộ Công an. Trải qua những năm tháng chiến đấu, xây dựng, lực lượng Công an
Nhân dân Việt Nam đã có những bước trưởng thành về mọi mặt, thực hiện tốt
nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Ra đời trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, hơn 65 năm chiến đấu và xây dựng, lực lượng Công an Nhân
dân không ngừng lớn mạnh và trưởng thành về mọi mặt, lập nhiều thành tích


7

đóng góp to lớn trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Bề dày truyền thống oanh liệt đó của Cơng an Nhân dân Việt Nam là tài
sản vật chất và tinh thần vô cùng quý giá của tồn lực lượng Cơng an nhân dân
và tồn Đảng, tồn dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự của Tổ quốc,
cần được gìn giữ, kế thừa và phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Xuất phát từ ý nghĩa đó, để ghi nhận cơng lao to lớn của các thế hệ cán bộ,
chiến sĩ công an, lưu giữ lâu dài các hình ảnh, tài liệu, hiện vật lịch sử về lực
lượng công an, để làm tốt công tác giáo dục truyền thống, bồi dưỡng kiến thức
và trau dồi thêm tình cảm cách mạng cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ công an,
phục vụ yêu cầu chính trị trước mắt cũng như lâu dài, việc xây dựng bảo tàng
của lực lượng Công an Nhân dân là một yêu cầu cần thiết đã được lãnh đạo Bộ
Nội Vụ ( nay là Bộ Công an ) quan tâm chỉ đạo, chuẩn bị từ nhiều năm.
Ngay từ đầu những năm 1950, sau khi Công an Nhân dân được thành lập
khơng bao lâu, ngành Cơng an đã có những hoạt động mang tính chất bảo tàng.
Đó là các chỉ thị số 1662 ngày 10/03/1950, chỉ thị số 3371 ngày 18/10/1950 của
Nha Công an Trung ương về “Sưu tầm tài liệu hiện vật phá tề trừ gian, thực hiện
Công an Nhân dân”, chỉ thị số 378/VP ngày 03/02/1956 của Văn phịng Bộ Cơng
an về “Sưu tầm tài liệu hiện vật của bọn gián điệp cài lại và bọn phá hoại hiện
hành, đồng thời tổ chức triển lãm phục vụ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ”.
Năm 1959 ngành Bảo tàng Việt Nam được thành lập, Đảng Đồn Bộ Cơng
An ( nay là Đảng ủy Công an Trung ương ) đã mời đồng chí Vămpilốp – Chuyên

gia bảo tàng Liên Xơ (cũ) giúp tìm hiểu nội dung và phương hướng xây dựng
bảo tàng của lực lượng công an.
Năm 1960, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Cơng an tồn quốc lần thứ 14,
ngày 06/12/1960, Bộ Công an đã ra Chỉ thị số 1442 về “Triển khai công tác bảo


8

tàng, giáo dục truyền thống trong toàn lực lượng ”. Chỉ thị nêu rõ: “Bảo tàng
Công an Nhân dân là cuốn sách mở, là những bài học tốt về nghiệp vụ cho cán
bộ, chiến sĩ đến học tập một cách có hệ thống và thiết thực ”.
Từ năm 1961 đến giữa năm 1967, trong ngành cơng an tuy chưa có tổ
chức bảo tàng chuyên ngành nhưng đã có biên chế cán bộ chăm lo công tác này.
Giai đoạn 1961 – 1962, biên chế 04 người thuộc Phòng Bảo tàng – Tổng
kết, trực thuộc Văn phịng Bộ Cơng an.
Giai đoạn 1962 – 1964, biên chế 04 người thuộc Vụ tổ chức cán bộ.
Giai đoạn 1965 – 1967, biên chế 02 người thuộc trường Công an Trung ương.
Ngày 16/06/1967, Bộ Công An có quyết định số 405 CA/QĐ thành lập
Cục Tuyên Huấn trong đó có phịng Bảo tàng, đánh dấu sự ra đời của Bảo tàng
Công an Nhân dân. Tuy tổ chức của bảo tàng chỉ là đơn vị mang tính chất hành
chính, sự nghiệp nhưng kể từ đây biên chế cán bộ làm công tác bảo tàng đã được
tăng lên và hoạt động chủ yếu là công tác sưu tầm hiện vật.
Đồng thời, nhân dịp những ngày lễ, ngày kỉ niệm của đất nước, của ngành
cơng an, phịng Bảo tàng đã tổ chức được những cuộc trưng bày lưu động, triển
lãm ở các đơn vị, địa phương và các trường công an. Thông qua các cuộc trưng
bày lưu động này, bảo tàng đã sưu tầm, thu thập được nhiều hiện vật có giá trị về
lịch sử, truyền thống của lực lượng Cơng an Nhân dân, góp phần bổ sung làm
phong phú kho cơ sở của Bảo tàng.
Năm 1980, Bảo tàng Công an Nhân dân được hình thành một phịng độc lập,
trực thuộc Cục Cơng tác Chính trị, Tổng cục Xây dựng Lực lượng Công an Nhân dân.

Năm 1985, kỷ niệm 45 năm ngày thành lập lực lượng Công an Nhân dân,
Bảo tàng Công an Nhân dân đã tổ chức trưng bày bảo tàng trên diện tích 200 m2
tại số 66 phố Thợ Nhuộm, Hoàn Kiếm, Hà Nội để phục vụ cán bộ, chiến sĩ trong
lực lượng Công an Nhân dân.


9

Ngày 18/12/1992 Bộ Nội Vụ (nay là Bộ Công an) ra chỉ thị số 25/CT –
BNV về công tác bảo tàng truyền thống trong lực lượng Công an Nhân dân. Để
đẩy mạnh việc thực hiện chỉ thị này, ngày 01/12/1995 Bộ Nội Vụ có quyết định số
1463 QĐ/BNV (X13) về việc nâng cấp Bảo tàng Công an Nhân dân thành bảo
tàng công cộng đầu ngành về lĩnh vực an ninh trật tự. Tách phịng Bảo tàng từ Cục
Cơng tác Chính trị thành một đơn vị độc lập trực thuộc Tổng cục Xây dựng Lực
lượng Công an Nhân dân và quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng Bảo tàng
Cơng an Nhân dân tại số 01 Trần Bình Trọng, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Sau thời gian 2 năm tiến hành thi cơng, cơng trình nhà trưng bày bảo tàng
của lực lượng Cơng an Nhân dân đã hồn thành. Ngày 19/08/2000, kỷ niệm 55
năm thành lập lực lượng Công an Nhân dân, Bảo tàng Công an Nhân dân đã
được khánh thành. Trên diện tích hơn 1200m2, kiến trúc bảo tàng được bố trí
gồm 750 m2 trưng bày nội thất, hệ thống kho cơ sở gần 100 m2, 300m2 là phịng
khách và phịng làm việc.
Bảo tàng Cơng an Nhân dân là một bảo tàng chuyên ngành, thuộc nhóm
bảo tàng loại hình lịch sử xã hội. Từ sau khi khánh thành và đi vào hoạt động,
Bảo tàng Công an Nhân dân đã liên tục được củng cố, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
nhằm tương xứng với vị thế của một bảo tàng chuyên ngành và từng bước hòa
nhập với hệ thống bảo tàng trong cả nước. Các hoạt động của bảo tàng đã được
triển khai đồng bộ trên tất cả các khâu nghiệp vụ.
Công tác nghiên cứu khoa học trong bảo tàng được chú trọng hàng đầu,
bao gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Hoạt động nghiên cứu

khoa học được chú trọng ở tất cả các khâu nghiệp vụ của bảo tàng. Từ năm 2000,
định kì hàng năm, bảo tàng tổ chức hội nghị thông báo kết quả nghiên cứu và
xuất bản các kỷ yếu hội nghị. Đồng thời, bảo tàng đã tổ chức một số hội thảo
khoa học, thu hút được sự tham gia của nhiều chuyên gia đầu ngành và cán bộ
chuyên môn.


10

Công tác sưu tầm giai đoạn từ tháng 04/1997 đến tháng 08/2000 chuyển
hướng tập trung phục vụ cho công tác trưng bày theo đề cương đã được Bộ Công
an phê duyệt. Bảo tàng đã tham mưu cho Bộ Công an hướng dẫn, đôn đốc các
đơn vị, địa phương sưu tầm và vận động nhân dân, cán bộ, chiến sĩ công an đóng
góp hiện vật cho trưng bày bảo tàng Bộ Công an.
Đồng thời đã tiến hành các đợt hiện vật cho trưng bày bảo tàng Bộ Công
an và tiến hành các đợt khảo sát ở trong và ngoài lực lượng, đặc biệt là ở các bảo
tàng, các cơ quan lưu trữ, chú trọng sưu tầm, bổ sung hiện vật về các sự kiện lịch
sử tiêu biểu đương đại. Chất lượng hiện vật sưu tầm của bảo tàng ngày càng
được nâng cao, đồng thời tham khảo kinh nghiệm quá trình nghiên cứu, vận
dụng các quy định của ngành bảo tàng và một số bảo tàng Trung ương để xây
dựng các quy định và cải tiến một số biểu mẫu sử dụng trong công tác sưu tầm
và tiến hành các thủ tục nhập kho.
Công tác kiểm kê, bảo quản hiện vật đã vận dụng và thực hiện những quy
định, quy trình nguyên tắc bảo tàng học phù hợp với đặc điểm, điều kiện và đặc
thù của Bảo tàng Công an Nhân dân.
Trong khâu công tác kiểm kê, cán bộ bảo tàng đã triển khai thường xuyên,
kịp thời kiểm kê bước đầu và phục vụ nghiên cứu khai thác hiện vật. Trong 10
năm đã phục vụ khai thác được 5329 lượt đơn vị hiện vật, tiến hành bước kiểm
kê phân loại khoa học theo chuyên đề đối với loại hiện vật phim ảnh và phân loại
theo chất liệu đối với hiện vật thể khối phục vụ yêu cầu bảo quản, đã tham khảo

học tập kinh nghiệm của một số bảo tàng, bước đầu ứng dụng tin học trong quản
lý và phục vụ khai thác hiện vật, nghiên cứu xây dựng, sắp xếp hiện vật chất liệu
phim ảnh theo các chuyên đề ổn định và khoa học.
Cơng tác bảo quản hiện vật đã có bước tiến bộ đáng kể về tổ chức, bảo
quản và kỹ thuật bảo quản. Tuy diện tích cịn q nhỏ so với yêu cầu của một
kho bảo tàng (gần 100m2) nhưng đã được trang bị một số phương tiện kỹ thuật


11

hiện đại để đảm bảo ổn định về nhiệt độ, độ ẩm nhằm bảo quản lâu dài hiện vật.
Lần đầu tiên bảo tàng phối hợp với Trung tâm nhiệt đới Việt – Nga thuộc Bộ
Quốc Phòng triển khai ứng dụng cơng nghệ khí khơ (thiết bị Munter) trong bảo
quản tài liệu, hiện vật và là một trong số ít bảo tàng đầu tiên ứng dụng công nghệ
này trong bảo quản.
Công tác trưng bày về nội dung, giải pháp, trang thiết bị trưng bày có sự
tiếp cận với xu hướng hiện đại vừa đảm bảo tính khoa học, vừa thể hiện sắc thái
của lực lượng thông qua những tài liệu hiện vật tiêu biểu về truyền thống chiến
đấu, xây dựng và trưởng thành của Công an Nhân dân Việt Nam. Đây là kết quả
của quá trình chuẩn bị và tổ chức triển khai trong một thời gian dài, với sự tham
gia phối hợp của nhiều đơn vị nghiệp vụ và công an một số địa phương, đặc biệt
là sự giúp đỡ, trao đổi kinh nghiệm của các bảo tàng, các chuyên gia đầu ngành,
các đồng chí lãnh đạo cơng an lão thành.
Cơng tác giáo dục tun truyền, ngồi việc tiếp tục bổ sung chỉnh lý, nâng
cao nội dung và hình thức hệ thống trưng bày, Bảo tàng Công an Nhân dân đã
tìm tịi thực hiện nhiều giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động phát huy tác
dụng như: tổ chức hướng dẫn tham quan, tuyên truyền giới thiệu về bảo tàng và
hiện vật bảo tàng trên các phương tiện thông tin đại chúng, triển khai nghiên cứu
sâu về các sự kiện trọng tâm trong hệ thống trưng bày, tổ chức học tập kinh
nghiệm thực tế của các bảo tàng và đào tạo đội ngũ cán bộ thuyết minh, tổ chức

các cuộc hội thảo khoa học về các phương thức nhằm nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục của bảo tàng và thu hút khách tham quan.
Về tổ chức bộ máy, bảo tàng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Viện Lịch sử
(X25) của Tổng cục Xây dựng Lực lượng Công an Nhân dân, Bộ Công An và sự
hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch. Bảo
tàng Cơng an Nhân dân có chức năng tài liệu hóa khoa học, bảo quản, bảo vệ di


12

sản văn hóa, nghiên cứu khoa học, giáo dục phổ biến tri thức khoa học trong lực
lượng Công an Nhân dân.
Hiện tại, bảo tàng có 23 cán bộ ( khơng kể nhân viên hợp đồng), 87% cán
bộ có trình độ đại học, trong đó 75% chuyên ngành bảo tàng, 16% chuyên ngành
lịch sử, 9% chuyên ngành đào tạo khác. Cán bộ bảo tàng được phân bố về các
phòng ban như sau:
- Ban giám đốc : 4 người (1 Giám đốc và 3 Phó giám đốc)
- Bộ phận sưu tầm : 6 người
- Bộ phận kiểm kê, bảo quản : 5 người
- Bộ phận trưng bày, tuyên truyền : 8 người
Sơ đồ tổ chức và quản lý của Bảo tàng Công an Nhân dân
Viện Lịch sử Bộ Công an
(X25)

Sưu tầm

Kiểm kê – Bảo quản

BAN GIÁM ĐỐC


Trưng bày – tuyên truyền

Hầu hết cán bộ lãnh đạo chủ chốt của bảo tàng đã được đào tạo bồi dưỡng
về lý luận chính trị, về quản lý hành chính. Bảo tàng Cơng an Nhân dân đang
phấn đấu, tiếp tục củng cố hoàn thiện, nâng cấp về tổ chức bộ máy, quy mô và
chất lượng hoạt động, tương xứng với yêu cầu của một bảo tàng chuyên ngành,
thực hiện tốt chức năng tham mưu hướng dẫn về nghiệp vụ đối với nhà truyền
thống trong toàn lực lượng công an.


13

1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Bảo tàng Công an Nhân dân
Trong quá trình nghiên cứu về một bảo tàng, cần quan tâm tới đặc trưng,
chức năng của thiết chế văn hóa đó. Nếu như đặc trưng được coi là yếu tố bất
biến thì chức năng được coi là yếu tố khả biến của bảo tàng, thay đổi tùy thuộc
vào yêu cầu mà đời sống xã hội đặt ra. Do vậy, việc nghiên cứu chức năng của
bảo tàng có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt” của Viện Ngơn Ngữ học do Hồng Phê
chủ biên (xuất bản năm 2004), thuật ngữ chức năng được định nghĩa: “chức
năng là thuật ngữ chỉ tác dụng, vai trò bình thường hoặc đặc trưng của một
người nào đó hoặc một cái gì đó” hay nói một cách khác đề cập đến chức năng
là đề cập đến vai trò, vị trí, nhiệm vụ cụ thể của một hiện tượng nào đó trong xã hội.
Bàn về chức năng xã hội của bảo tàng từ trước tới nay đã tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau. Đầu tiên, hội nghị ICOM đã ấn định bảo tàng đảm nhận ba
chức năng cơ bản là chức năng nghiên cứu khoa học, chức năng giáo dục, chức
năng bảo tồn và thưởng thức.
Quan điểm của Bảo tàng học Mác xít thì bảo tàng có bốn chức năng là
chức năng nghiên cứu khoa học, chức năng tài liệu hóa khoa học, chức năng bảo
vệ, bảo quản các di sản văn hóa và chức năng giáo dục khoa học.

Ở Việt Nam, trong luật Di sản Văn hóa, điều 47, 48 đã quy định rõ bảo
tàng có ba chức năng là nghiên cứu khoa học, giáo dục tuyên truyền và phục vụ
tham quan hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Bảo tàng Công an Nhân dân thuộc sự chỉ đạo trực tiếp của Viện Lịch sử
Bộ Công an (X25), là một đơn vị chủ chốt của Tổng Cục Xây dựng Lực lượng 3.
Xét về mặt chuyên môn nghiệp vụ, bảo tàng chịu sự hướng dẫn của Bộ Văn Hóa
– Thể thao và Du lịch. Cũng như các bảo tàng khác, để thể hiện vai trị, vị trí của


14

mình đối với sự phát triển của xã hội, Bảo tàng Công an Nhân dân đã và đang
đảm nhận năm chức năng xã hội cơ bản là:
* Chức năng nghiên cứu khoa học của Bảo tàng Công an Nhân dân là tiền
đề, cơ sở cho mọi hoạt động của bảo tàng. Bảo tàng đã nghiên cứu các tư liệu về
truyền thống ngành công an, các lý luận bảo tàng học để từ đó hồn thiện các
khâu cơng tác của bảo tàng, phổ biến những kiến thức mới, những kết quả
nghiên cứu mới cho các cán bộ, chiến sĩ trong toàn ngành. Đồng thời với chức
năng nghiên cứu khoa học, kết quả đạt được là bảo tàng đã xây dựng các bộ sưu
tập theo chuyên đề, tổ chức các cuộc trưng bày tại các di tích của cơng an, các
cuộc trưng bày lưu động phục vụ công chúng và tham mưu cho lãnh đạo Tổng
Cục 3 chỉ đạo xây dựng nhà truyền thống, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ đối
với các cán bộ trong ngành công an.
* Chức năng giáo dục tuyên truyền là một trong những chức năng cơ bản
quan trọng. Bảo tàng Công an Nhân dân đã, đang và sẽ góp phần nâng cao kiến
thức, tăng cường sự hiểu biết về truyền thống, lịch sử ngành Công an Nhân dân
cho mọi đối tượng công chúng, đặc biệt là các cán bộ, chiến sĩ trong ngành. Từ
đó giúp cho mọi người hoàn thiện hơn khả năng hiểu biết của bản thân, làm
phong phú thêm cuộc sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, giáo
dục về tư tưởng đạo đức, thẩm mỹ cho con người phát triển toàn diện.

Trên cơ sở các tài liệu, hiện vật gốc được trưng bày thường xuyên, trưng
bày lưu động và trưng bày chuyên đề, Bảo tàng Công an Nhân dân đã giúp cho
công chúng và những nhà nghiên cứu bảo tàng tiếp cận trực tiếp những thông tin
về truyền thống lịch sử vẻ vang, hào hùng của lực lượng Công an Nhân dân.
Ngoài ra, bảo tàng cũng tiến hành tổ chức hướng dẫn tham quan với nhiều
hình thức khác nhau cùng với sự giúp đỡ của cán bộ hướng dẫn thuyết minh và
các phương tiện khác trong bảo tàng.


15

Để tăng cường hơn nữa chức năng này, Bảo tàng Cơng an Nhân dân cũng
tiến hành các hình thức tun truyền quảng bá rộng rãi cho công chúng biết đến
bảo tàng, các sự kiện đặc biệt, các hoạt động của bảo tàng trên các phương tiện
thông tin đại chúng như mạng internet, tivi, báo đài,…, xuất bản các tờ rơi, tờ gấp,…
Bảo tàng cũng phối hợp với các trường đại học, học viện, trung cấp trong
ngành công an để đưa hoạt động tham quan bảo tàng vào chương trình học ngoại
khóa, giúp cho các học viên tìm hiểu sâu hơn lịch sử của ngành.
* Chức năng bảo quản di sản văn hóa là một chức năng quan trọng, khơng thể
thiếu của Bảo tàng Công an Nhân dân. Các tài liệu hiện vật gốc của Bảo tàng Công
an Nhân dân là tài sản văn hóa vật thể quý giá đối với ngành cơng an và nhà nước.
Chính vì vậy, Bảo tàng Công an Nhân dân đã tổ chức việc bảo vệ an toàn
cho hiện vật bằng cách sắp xếp chúng vào đúng vị trí trong kho bảo quản theo
chất liệu, tiến hành tổ chức bảo quản phòng ngừa và bảo quản xử lý kỹ thuật, đầu
tư các trang thiết bị, phương tiện hiện đại như máy hút ẩm, điều hòa nhiệt độ, hệ
thống tủ bục,…để bảo quản hiện vật lâu dài.
* Chức năng tài liệu hóa khoa học
Bảo tàng Cơng an Nhân dân đã tiến hành nghiên cứu những sự kiện lịch
sử của ngành công an, thân thế và sự nghiệp của một tướng lĩnh công an,…được
bảo tàng phản ánh trong nội dung chủ đạo, từ đó tiến hành tổ chức sưu tầm, thu

thập và lựa chọn những tài liệu hiện vật gốc, sưu tập gốc tiêu biểu có giá trị bảo
tàng và tiến hành ghi chép lập hồ sơ khoa học – pháp lý cho chúng theo đúng thủ
tục, nguyên tắc của bảo tàng.
* Chức năng thơng tin, giải trí và thưởng thức
Các tài liệu hiện vật gốc được trưng bày, lưu giữ tại Bảo tàng Công an
Nhân dân là lượng thơng tin quan trọng, chính xác để cho các nhà nghiên cứu,
các cán bộ, chiến sĩ cơng an có thể khai thác phục vụ cho việc nghiên cứu.


16

Thơng qua việc nghiên cứu, xác minh các tiêu chí, nội dung, đặc điểm bên
ngoài của hiện vật, các hệ thống phiếu tra cứu, sổ sách, các phương tiện tra cứu
hiện đại trên hệ thống máy vi tính nối mạng, Bảo tàng Công an Nhân dân đã tạo
điều kiện thuận lợi cho cơng chúng đến tìm kiếm, khai thác thơng tin và sử dụng
thơng tin được dễ dàng.
Bên cạnh đó, Bảo tàng Công an Nhân dân cũng thường xuyên đổi mới hệ
thống trưng bày, tổ chức triển lãm, tổ chức các hội thảo nghiên cứu khoa học,
các hình thức thể hiện với các phương tiện thông tin hiện đại để thỏa mãn nhu
cầu thưởng thức giá trị văn hóa có thực trong bảo tàng, đáp ứng nhu cầu giải trí,
nghiên cứu của cơng chúng đến tham quan bảo tàng.
Ngồi ra, theo Điều 48 được sửa đổi, bổ sung của Luật Di sản Văn hóa
năm 2008, Bảo tàng Cơng an Nhân dân cũng phải có các nhiệm vụ sau đây.
Nhiệm vụ đầu tiên là sưu tầm, kiểm kê, bảo quản và trưng bày các sưu tập
hiện vật. Tiếp đến là nghiên cứu khoa học phục vụ việc bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hóa. Tổ chức phát huy giá trị di sản văn hóa phục vụ xã hội. Xây
dựng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của bảo tàng. Quản lý cơ sở vật chất và
trang thiết bị kỹ thuật. Thực hiện hợp tác quốc tế theo quy định của pháp luật. Tổ
chức hoạt động dịch vụ phục vụ khách tham quan phù hợp với nhiệm vụ của bảo
tàng. Nhiệm vụ cuối cùng là thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

Hiện nay, Bảo tàng Công an Nhân dân là nơi nghiên cứu, học tập, tham
quan và lưu giữ những tư liệu quý về lịch sử của tồn ngành Cơng an Việt Nam,
cho nên nhiệm vụ quan trọng nhất của Bảo tàng Công an Nhân dân là giáo dục
tuyên truyền lịch sử của ngành Công an Nhân dân, truyền thống yêu nước, cách
mạng, ý thức tham gia xây dựng và bảo vệ an ninh Tổ quốc không chỉ cho cán
bộ, chiến sĩ Công an Nhân dân mà còn mở rộng các đối tượng khác như thanh
thiếu niên, học sinh, sinh viên.


17

1.1.3. Nội dung trưng bày của Bảo tàng Công an Nhân dân
Bảo tàng Công an Nhân dân là một bảo tàng thuộc nhóm bảo tàng loại
hình lịch sử xã hội, phương pháp trưng bày theo niên đại (lịch đại). Tổng diện
tích trưng bày gần 850 m2 với tổng số hiện vật là 1200 hiện vật (khơng tính ảnh
trong album).
Nội dung trưng bày của Bảo tàng Công an Nhân dân được thể hiện có hệ
thống theo từng giai đoạn lịch sử, phản ánh về sự ra đời, bảo vệ chính quyền,
tham gia kháng chiến của lực lượng Công an nhân dân từ những năm đầu thành
lập cho đến nay, chia làm ba chủ đề trưng bày.
* Chủ đề 1: Công an Nhân dân Việt Nam ra đời, bảo vệ chính quyền cách
mạng và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ( 1945 – 1954 ).
Chủ đề này nhấn mạnh đến hai nội dung chính.
Được Đảng Cộng sản Đơng Dương tổ chức và lãnh đạo, từ trong cao trào
cách mạng 1930 – 1931, trải qua các phong trào đấu tranh dân chủ 1936 – 1939
đến thời kì vận động giải phóng dân tộc 1939 – 1945, các tổ chức Đội Tự vệ, Đội
Danh dự Trừ gian, Đội Trinh sát,…tiền thân của lực lượng Công an Nhân dân
lần lượt ra đời làm nhiệm vụ tiễu trừ Việt gian, tay sai bán nước, bảo vệ cơ sở
của Đảng, hỗ trợ các phong trào đấu tranh của quần chúng tiến tới Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám năm 1945.

Cuộc tổng khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền đã về tay nhân dân cũng là
lúc Công an Nhân dân Việt Nam ra đời (19/08/1945). Ở Bắc bộ thành lập Sở
Liêm phóng, Trung bộ thành lập Sở Trinh sát, Nam bộ thành lập Quốc gia Tự vệ
có chung nhiệm vụ trấn áp phản cách mạng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền,
bảo vệ thành quả cách mạng. Đây là những tổ chức đầu tiên của Công an Nhân
dân Việt Nam và cũng là những lực lượng an ninh đầu tiên trực tiếp bảo vệ an


18

tồn cho lễ Tun ngơn độc lập ngày 02/09/1945 tại quảng trường Ba Đình – Hà
Nội và các cuộc mít tinh trong cả nước.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã đứng trước muôn
vàn thử thách khó khăn. Tình hình đó đặt ra u cầu chỉ đạo tập trung thống nhất
của Đảng, Nhà nước đối với Công an Nhân dân trong cả nước.
Ngày 21/02/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh số 23/SL hợp nhất
các sở Liêm phóng, Trinh sát và Quốc gia Tự vệ cuộc thành Việt Nam Cơng An
Vụ. Đồng chí Lê Giản được cử giữ chức Giám đốc Việt Nam Công an Vụ.
Hoạt động tiêu biểu của lực lượng công an trong thời kì này là đã bảo vệ
tốt hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính
phủ. Đặc biệt là chiến cơng của lực lượng cơng an trong vụ án Ơn Như Hầu
(tháng 07/1946).
Đầu năm 1946, tại Hà Nội liên tục xảy ra những vụ ám sát, bắt cóc, tống
tiền. Quốc dân Đảng – lực lượng phản động có thế lực nhất trong các tổ chức
phản động lúc bấy giờ được quân Tưởng giúp đỡ, Pháp ủng hộ nên ngang nhiên
chiếm 41 địa điểm làm trụ sở vừa cơng khai vừa bí mật.
Bằng các biện pháp nghiệp vụ, Công an Nhân dân đã phát hiện âm mưu của
bọn Quốc dân Đảng, đột kích vào số nhà 132 Đuyvinhô bắt giữ, thu hồi các tài sản
của bọn phản động. Tạo đà cho đồng loạt các cuộc khám bắt tiếp theo ở các trụ sở
Quốc dân Đảng trên địa bàn Hà Nội. Đồng thời, tại các tỉnh miền Trung, miền

Nam, lực lượng công an đã truy bắt bọn phản động đang cư trú tại địa phương.
Ngày 09/11/1946, Quốc hội khóa 1 thơng qua bản hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trao cho chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh
tồn quyết đối phó với thực dân Pháp. Nhiệm vụ của công an lúc này là chuẩn bị
địa bàn, thanh lọc đối tượng, lập khu bảo vệ vành đai an toàn, bảo vệ việc di
chuyển các cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước và Bác lên căn cứ an toàn.


19

Cùng với đó là các hoạt động nâng cao chuyên mơn nghiệp vụ cho các cán
bộ lãnh đạo Trưởng phó Ty, Quận Cơng an, đào tạo cán bộ có trình độ phục vụ
công tác chiến đấu. Hội nghị Công an tồn quốc lần 5 tại Nha Cơng an Trung
ương đóng tại Sơn Dương – Tuyên Quang đã thông qua 7 đề án quan trọng, đặc
biệt “đề án Công an Nhân dân Việt Nam” là tài liệu mang tính lí luận đầu tiên
của ngành, sau này được in thành sách để giảng dạy trong các khóa huấn luyện
nghiệp vụ.
Đặc biệt, ngày 11/03/1948, trong thư gửi Công an khu 12, Bác Hồ đã nêu
6 nội dung về tư cách người Công an Cách mệnh. Tháng 02/1953, Chủ tịch Hồ
Chí Minh kí sắc lệnh 14 SL đổi Nha Công an Việt Nam thành Thứ Bộ Cơng an
và cử đồng chí Trần Quốc Hồn làm Thứ trưởng Bộ Công an.
Tháng 08/1953, trong phiên họp do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã quyết định
đổi Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an do đồng chí Trần Quốc Hồn làm Bộ trưởng.
Đây là bước ngoặt lịch sử quan trọng về mặt tổ chức phản ánh sự trưởng thành vượt
bậc của lực lượng Công an đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng.
Trong điều kiện khó khăn, lực lượng cơng an đã tích cực tham gia sản
xuất, chế tạo vũ khí, sản xuất lương thực để tự trang bị, góp phần vào thắng lợi
của các cuộc kháng chiến, bảo vệ các chiến dịch của đất nước đó là Thu Đơng
năm 1947, Biên Giới năm 1950, Đông Xuân năm 1953 – 1954, đỉnh cao là chiến
dịch Điện Biên Phủ.

* Chủ đề 2: Công an nhân dân Việt Nam xây dựng và bảo vệ miền Bắc Xã
hội Chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Chủ đề này bao gồm 2 tiểu đề.
Tiểu đề 1 là Công an Nhân dân Việt Nam bảo vệ công cuộc xây dựng Chủ
nghĩa Xã hội ở miền Bắc 1954 – 1975.


20

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, hiệp định Giơnevơ
được kí kết, đất nước chuyển sang giai đoạn mới, miền Bắc bước vào công cuộc
xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc Cách mạng Dân tộc Dân
chủ Nhân dân. Ở miền Bắc, ngay sau khi giải phóng, lực lượng cơng an cùng
qn đội tham gia tiếp quản các thành phố, thị xã và tiến hành một loạt các biện
pháp quản lý hành chính nhằm ổn định An ninh trật tự và đưa cuộc sống nhân
dân trở lại bình thường.
Trong vịng 6 năm (1955 – 1960), lực lượng cơng an chủ động nắm tình
hình, xác lập các chuyên án đấu tranh, bóc gỡ mạng lưới gián điệp cài lại, ổn
định an ninh trật tự ở vùng mới giải phóng (chuyên án C30, TN25, GM65, chống
Phỉ,…)
Miền Bắc xây dựng lực lượng Công an Nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ chính trị. Ngày 20/07/1962, Bác Hồ kí lệnh 34 để cơng bố pháp lệnh thành
lập lực lượng Cảnh sát Nhân dân ra đời. Đẩy mạnh phong trào quần chúng để
giúp đỡ cho lực lượng công an hồn thành nhiệm vụ. Lực lượng cơng an đấu
tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động gián điệp biệt kích của đế quốc Mỹ, bảo vệ
an ninh trật tự ở miền Bắc.
Nhằm thực hiện các chiến lược phản cách mạng, đế quốc Mỹ tăng cường
mọi hoạt động phá hoại công cuộc xây dựng Xã hội Chủ nghĩa của miền Bắc,
phá hoại cơ sở hậu phương của miền Nam. Lực lượng công an đã tiến hành các
biện pháp nghiệp vụ với phương châm “quét nhà đón khách”, sử dụng điện đài

khống chế địch (tiêu biểu là chuyên án BK63 và PY27), sử dụng thông tin giả
nhằm làm trong sạch địa bàn, đẩy mạnh các phong trào “bảo vệ trị an trong nhân
dân”, “bảo mật phịng gian” trong các cơ quan xí nghiệp, phát huy cao độ ý thức
cảnh giác, tinh thần trách nhiệm của toàn thể nhân dân, đấu tranh chống lại các
hoạt động phá hoại, phát hiện kẻ địch, tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh sản xuất,
đoàn kết nội bộ, bảo vệ bí mật của Đảng và nhà nước.


21

Cùng với đó, lực lượng Cơng an Nhân dân đã đấu tranh làm thất bại chiến
tranh phá hoại bằng không quân, hải quân, bảo vệ an ninh, tính mạng, tài sản tư
trang của nhân dân và đồng thời chi viện cho miền Nam.
Tiểu đề 2: Công an Nhân dân chuyển hướng chiến lược, xây dựng lực lượng,
đấu tranh làm thất bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam.
Hiệp định Giơnevơ được kí kết, đất nước ta tạm thời bị phân chia làm hai
miền. Đế quốc Mỹ với âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, tiến hành cuộc chiến
tranh xâm lược, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân
sự của Mỹ, ngăn chặn sự phát triển của cách mạng trong khu vực và thế giới.
Đầu năm 1955, Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập Ban Địch Tình, sau
đổi thành Ban An Ninh. Và Trung ương Cục miền Nam ra đời. Sau năm 1962,
Ban Địch Tình phát triển ở miền Nam. Lực lượng cơng an thời kì này đã đấu
tranh làm thất bại âm mưu hoạt động, các chiến lược chiến tranh như hoạt động
tình báo, đẩy mạnh tăng cường, xây dựng cơ sở bí mật, diệt ác phá kìm, bảo vệ
cơ sở, bảo vệ lực lượng cách mạng.
Lực lượng công an cũng bảo vệ, phục vụ và tham gia các chiến dịch như
chiến dịch Mậu Thân 1968, cuộc Tổng Tiến Cơng và nổi dậy chiến dịch Hồ Chí Minh
đã chấm dứt 30 năm kháng chiến giành lại độc lập, tự do cho nhân dân miền Nam.
* Chủ đề 3: Công an Nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa (từ năm 1975 đến nay). Chủ đề này gồm

2 tiểu đề.
Tiểu đề 1: Công an Nhân dân ổn định và giữ an ninh trật tự, góp phần bảo
vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống kiểu chiến tranh phá hoại
nhiều mặt của địch (1975 – 1985).
Giai đoạn 1975 – 1980, trọng tâm trưng bày giới thiệu những mặt công tác
lớn, cấp bách của Công an Nhân dân nhằm ổn định và giữ vững an ninh trật tự ở


22

miền Nam sau giải phóng. Về an ninh chính trị, nổi lên là hoạt động của bọn
Ngụy quân, Ngụy quyền và các phần tử thuộc các đảng phái chính trị phản động.
Về trật tự an toàn xã hội nổi lên là bọn lưu manh chuyên nghiệp, bọn tội
phạm có tổ chức từ chế độ cũ cịn lại,…Trước tình hình đó, Bộ Nội Vụ đã kịp
thời chuyển hướng nhiệm vụ nhằm ổn định và giữ vững an ninh trật tự. Lực
lượng cơng an trong thời kì này đã móc gỡ mạng lưới nội gián, chống phản
động, xây dựng chính quyền nhân dân, tiêu biểu là đã giải quyết được vấn đề
Fulro tại Tây Nguyên.
Giai đoạn từ 1980 – 1986, trọng tâm là hoạt động xây dựng lực lượng
Công an Nhân dân, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và các hoạt
động của Công an Nhân dân chủ động chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của
địch. Tiêu biểu là chuyên án CM12 từ năm 1981 đến năm 1984, lực lượng an
ninh sử dụng phương pháp phản gián điện đài để bắt và khống chế tồn bộ tốn
gián điệp quay trở về Việt Nam.
Tiểu đề 2: Công an Nhân dân phục vụ công cuộc đổi mới của Đảng, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1986 đến nay. Lực lượng công an đã đổi mới về
nhận thức, phương thức hoạt động, tăng cường củng cố, xây dựng và phát triển
đất nước, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ về con người, phương pháp, xây dựng
Công an Nhân dân.
Từ năm 1986 đến năm 2000, lực lượng công an đã ban hành nhiều pháp

lệnh để bảo vệ an ninh quốc gia, đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động chiến
lược diễn biến hịa bình của các thế lực thù địch, đấu tranh trấn áp các loại tội
phạm, giữ gìn trật tự xã hội, củng cố về tổ chức, xây dựng và phát triển lực lượng
cơng an, tăng cường đại đồn kết toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Ngoài ba chủ đề trưng bày chính, Bảo tàng Cơng an Nhân dân cịn có các
trưng bày chun đề về đấu tranh phòng chống tội phạm như tham gia tổ chức cảnh


23

sát hình sự khu vực ASEANPOL, tham gia tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế
INTERPOL, chống tội phạm đa quốc gia, tội phạm ma túy,… và mở rộng quan hệ
quốc tế, hợp tác với các tổ chức công an, cảnh sát, bộ nội vụ, công an trên thế giới.
1.2. Cơng tác trưng bày lưu động – Một hình thức quan trọng để thực
hiện chức năng tuyên truyền giáo dục của Bảo tàng Công an Nhân dân
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm trưng bày bảo tàng
Để tìm hiểu sâu về công tác trưng bày bảo tàng, trước hết phải tìm hiểu về
khái niệm “trưng bày”. Xét về ngơn ngữ, từ “trưng bày” được hiểu là bất cứ một
sự giới thiệu nào đó cùng những đối tượng nào đó mà có phương hướng [22,
trang 71].
Các nhà bảo tàng học Hà Lan đã đưa ra định nghĩa về trưng bày, “trưng
bày là sự giao lưu giữa các nhóm người với mục đích trao đổi thơng tin và các ý
tưởng có liên quan tới dấu hiệu vật chất của con người và thế giới xung quanh,
chủ yếu là qua phương tiện nghe nhìn và các phương tiện có khơng gian nhiều
chiều” [22, trang 71].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu trưng bày là một hoạt động sáng tạo để giới
thiệu hiện vật nhằm mục đích trao gởi một thơng điệp, một ý tưởng cho người
xem bằng những cảm xúc. Trong bảo tàng, trưng bày là bộ mặt của bảo tàng, là
gửi gắm những thông điệp đến công chúng thông qua các tài liệu hiện vật gốc.

Trên thế giới có khá nhiều định nghĩa về trưng bày bảo tàng. Các nhà bảo
tàng học Trung Quốc đưa ra định nghĩa, “trưng bày bảo tàng là trong một không
gian nhất định, lấy hiện vật bảo tàng (văn vật và tiêu bản) làm cơ sở, phối hợp
với những tài liệu bổ trợ thích ứng, trong một chủ đề nhất định, tổ hợp thành
hình thức nghệ thuật trưng bày để tiến hành giáo dục trực quan, truyền bá thơng
tin văn hóa và nâng cao thưởng thức thẩm mỹ của quần chúng. Trưng bày là


×