Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Quan hệ đối ngoại nga mĩ từ năm 2000 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.28 KB, 60 trang )

1

Mục lục
A. DẪN LUẬN ................................................................................................. 2
I. Lý do chọn đề tài. ................................................................................... 2
II. Lịch sử vấn đề. ...................................................................................... 3
III. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.................................... 5
IV. Phƣơng pháp nghiên cứu. .................................................................. 5
V. Bố cục của đề tài. .................................................................................. 5
B. NỘI DUNG................................................................................................... 7

Chƣơng 1. Những nhân tố tác động đến mối quan hệ Nga- mỹ trong
những năm 1992 - 1999. ..................................................................................7
1.1 . Những nhân tố tác động đến mối quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ trong
những năm 1992 - 1999............................................................................... 7
1.2. Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời
Tổng thống B.Enxin (1992- 1999). ........................................................... 11
1.3. Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong những năm
1992 -1999. ................................................................................................ 16
1.4. Tổng quan về mối quan hệ Nga – Mỹ trong những năm 1992-1999 ...... 20

Chƣơng 2. Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ từ năm 2000 đến trƣớc sự kiện
11/09/2001 ....................................................................................................... 26
2.1. Những nhân tố tác động đến mối quan hệ Nga - Mỹ từ năm 2000 đến
trước sự kiện 11/09/2001. .......................................................................... 26
2.2. Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời
Tổng thống V.Putin từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001. ............ 29
2.3. Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ năm 2000 đến
trước sự kiện 11/09/2001. .......................................................................... 32
2.4. Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ từ năm 2000 đến
trước sự kiện 11/09/2001........................................................................... 34



Chƣơng 3. Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ từ sau sự kiện 11/09/2001 đến
nay(12/03).......................................................................................................................... 40
3.1. Sự kiện 11/09/2001 và ảnh hưởng của nó đối với mối quan hệ đối
ngoại Nga- Mỹ. .......................................................................................... 40
3.2. Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga từ sau sự
kiện11/09/2001 đến nay(12/03). ............................................................... 42
3.3. Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau sự kiện
11/09/2001 đến nay(12/03). ...................................................................... 46
3.4. Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga- Mỹ từ sau sự kiện
11/09/2001 đến nay(12/03). ...................................................................... 49
C. KẾT LUẬN. ............................................................................................... 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 58


2

A. DẪN LUẬN
I. Lý do chọn đề tài.
Ngày 26 tháng 03 năm 2000, Vlađimia Vlađimirôvich Putin trúng cử
Tổng thống Liên bang Nga. Ngày 31 tháng 12 năm 2000 GorgeoW. Bush
chính thức được công nhận là người thắng cuộc trong cuộc chạy đua vào Nhà
Trắng, trở thành Tổng thống thứ 43 của Hợp chủng quốc Hoa kỳ. Nhiều
người thấy rằng, trong khi ơng Bush (con ) đã ''nổi đình nổi đám'' trên vũ đài
chính trị thế giới thì ơng V.Putin vẫn ''Im hơi lặng tiếng''.
Cùng trúng cử vào đầu thế kỉ mới, cùng hoạch định tương lai cho đất
nước song hai con đường đi của hai quốc gia, hai Tổng thống lại hồn tồn
trái ngược nhau. Trong khi ơng V.Putin cố gắng tìm cho nước Nga một con
đường phát triển phù hợp với chỉnh thể Liên bang Nga và hoà đồng với sự
phát triển hồ bình của thế giới, thì ơng G.Bush lại hơ hào chiến tranh, cố tìm

kiếm ''những kẻ có âm mưu '' chống lại nước Mỹ trong tưởng tượng. Có lẽ
chính vì thế mà trong khi ơng Bush ( con) ''ăn khơng ngon ngủ khơng n'' vì
phải ''ứng phó'' với các cuộc biểu tình lên án các chính sách đối ngoại hiếu
chiến của nhân dân Mỹ nói riêng và của nhân loại u chuộng hồ bình nói
chung thì ông V.Putin vẫn dành được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo nhân
dân Nga và cả thế giới đang dõi theo những chuyển mình của đất nước rộng
lớn này với niềm tin yêu sâu sắc.
Liên bang Nga và Hợp chủng quốc Hoa kỳ, hai quốc gia đã từng là đối
thủ ''không đội trời chung'' của nhau trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, đã từng
trở thành ''đồng minh khơng bình dẳng'' của nhau trong những năm 90 của thế
kỷ XX, vậy trong những năm tiếp theo sau này sẽ là gì. . . của nhau?


3

Ơng V.Putin và ơng G.Bush đã, đang và sẽ làm gì để vừa có thể duy trì
mối quan hệ giữa hai quốc gia khi mà những lợi ích của họ khơng giống nhau,
thậm chí cịn đối nghịch nhau, lại vừa có thể thực thi các chính sách đối nội
cũng như đối ngoại hợp lý theo quan điểm của từng nước trong một thế giới
đầy biến động?
Đó là lý do chúng tơi chọn đề tài này để nghiên cứu, vì xét cho cùng,
trong mọi thời đại, ''sự yên ấm'' trong quan hệ của các nước lớn vẫn là nhân tố
chủ đạo chi phối tiến trình phát triển tốt đẹp của các mối quan hệ giữa các
quốc gia với nhau. Nói cách khác thế giới có n ổn trong hồ bình hay
khơng, điều đó phụ thuộc một phần vào chính sách đối ngoại của các nước
lớn, mà hai nước Nga - Mỹ thì đều là các cường quốc trên thế giới.

II. Lịch sử vấn đề.
Vấn đề mối quan hệ Nga- Mỹ không còn là xa lạ đối với các nhà nghiên
cứu nước ngoài, nhất là các nhà nghiên cứu của hai nước Nga và Mỹ, cũng

như các nhà nghiên cứu trong nước. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đến
nhiều khía cạnh khác nhau của mối quan hệ Nga- Mỹ, như:
Cuốn '' Quan hệ Nga - Mỹ vừa là đối tác-vừa là đối thủ '' do Nguyễn Văn
Lập chủ biên_ Nhà xuất bản Thông tấn Hà Nội- 2000, chủ yếu đề cập đến các
toan tính của cả hai phía Nga, Mỹ trong quá trình hợp tác với nhau sau sự
kiện 11/09/2001.
Cuốn '' Trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh, phân tích và dự báo'' Tập I,
do viện thông tin khoa học xã hội - chuyên đề Hà Nội xuất bản năm 2001, đề
cập đến những thay đổi của tình hình thế giới sau Chiến tranh lạnh, mối quan
tâm đến vị thế địa - chính trị của các nước lớn và các xu hướng hình thành các
trật tự thế giới mới: đa cực, đơn cực. . .


4

Cuốn '' Nước Nga trước thền thế kỷ XXI (Ai là đồng minh của Nga)'' của
Vadim Makarenco do Ngô Thuỷ Hương, Đinh Phương Thuỳ, Lê Văn Thắng
dịch NXB Công An Nhân Dân Hà Nội- 2000, đề cập đến những yếu tố liên
quan đến sự phát triển của Liên bang Nga trong tương lai, các mối quan hệ
chiến lược trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế - chính trị thế giới.
Cuốn '' Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh'' của
RandalB.Ripley và James M.Lindsay chủ biên do Trần Văn Tuỵ, Lê Thị
Hồng, Lê Tú Anh. . .dịch, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội- 2002, đề cập đến
sự thay đổi chiến lược trong bộ máy lãnh đạo Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh,
những yêu cầu và sự cần thiết phải đổi mới tư duy đối ngoại trong điều kiện
mới.
Cuốn '' Nước Mỹ năm đầu thế kỷ XXI '' do Nguyễn Thiết Sơn chủ biên,
NXB Khoa học xã hội Hà Nội - 2002, đề cập đến cuộc chiến chống khủng bố
của nước Mỹ, quan điểm nhất quán trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai đến nay là ln tìm cách khẳng định và duy trì địa

vị lãnh đạo thế giới.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến các khía cạnh trong mối
quan hệ Nga - Mỹ, những quan điểm hoà hợp và đối kháng trong mối quan hệ
này song về ''Quan hệ đối ngoại Nga -Mỹ từ năm 2000 đến nay'' thì chưa có
một cơng trình chun khảo nào đề cập đến một cách đầy đủ và sâu sắc.
Ngồi ra cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu đăng trong các tạp chí
nghiên cứu như: tạp chí Cộng Sản, Nghiên cứu Quốc tế, Nghiên cứu châu Âu,
Thông tin lý luận, . . . song chỉ mang tính chất tham khảo.


5

III. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu: '' Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ từ năm 2000 đến
nay''. Trên cơ sở đó phác hoạ những nét cơ bản nhất của sự vận động qua lại
giữa hai chủ thể Nga - Mỹ trong bối cảnh thế giới đang thay đổi thời kỳ sau
Chiến tranh lạnh.
Phạm vi nghiên cứu: Phác hoạ sơ qua về mối quan hệ Nga - Mỹ thời kỳ
sau Chiến tranh lạnh (1992-1999) và đi sâu vào sự điều chỉnh chính sách đối
ngoại của Liên bang Nga và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ trong mối quan hệ đối
ngoại từ năm 2000 đến nay.

IV. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để hồn thành khố luận tốt nghiệp này chúng tôi tuân theo phương pháp
luận của lý luận chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác nghiên cứu khoa học. Sử dụng
phương pháp lịch sử và phương pháp logic kết hợp với phân tích, tổng hợp, so
sánh. . . để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.

V. Bố cục của đề tài.

Khóa luận bao gồm ba chương:
Chƣơng 1. Những nhân tố tác động đến mối quan hệ đối ngoại NgaMỹ trong những năm 1992-1999.
1.1. Những nhân tố tác động đến mối quan hệ đối ngoại Nga- Mỹ trong
những năm 1992-1999.
1.2. Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời
Tổng thống B.Enxin (1992- 1999).


6

1.3. Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ những năm 19921999.
1.4. Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ trong những năm
1992- 1999.
Chƣơng 2. Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ từ năm 2000 đến trƣớc sự
kiện 11/09/2001.
2.1. Những nhân tố tác động đến mối quan hệ Nga- Mỹ từ năm 2000 đến
trước sự kiện 11/09/2001.
2.2. Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga từ năm
2000 đến trước sự kiện 11/09/2001.
2.3.Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ năm 2000 đến
trước sự kiện 11/09/2001.
2.4. Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ từ năm 2000 đến
trước sự kiện 11/09/2001.
Chƣơng 3. Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ sau sự kiện 11/09/2001 đến
nay (12/03).
3.1. Sự kiện 11/09 và tác động của nó đến quan hệ đối ngoại Nga Mỹ.
3.2. Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga từ sau sự
kiện 11/09/2001 đến nay (12/03).
3.3. Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau sự kiện
11/09/2001 đến nay (12/03).

3.4.Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ từ sau sự kiện
11/09/2001 đến nay (12/03).


7

B. NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỐI
QUAN HỆ NGA - MỸ TRONG NHỮNG NĂM 1992 - 1999.
1.1 . Những nhân tố tác động đến mối quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ
trong những năm 1992 - 1999.
Có thể coi quyết định ngày 05/04/1989 của Chính phủ đối lập ở Ba Lan
về cải cách thể chế chính là sự kiện mở đầu quá trình kết thúc Chiến tranh
lạnh; ngày 18/06/1989 đánh dấu sự thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại các
cuộc bầu cử Quốc hội; ngày 24/08/1989, T.Mazoveski trở thành thủ tướng
Chính phủ Ba Lan khơng cộng sản. Ngày 09/10/1989 bức tường Berlin sụp
đổ. Ngày 17/10/1989 cuộc biểu tình ở Praha làm sụp đổ chế độ hiện hành.
Ngày 18/10/1989 Hungari khơng cịn tự gọi mình là nước Cộng hoà Nhân
dân. Ngày 22/12/1989, Seausecscu ở Rumani bị lật đổ. Ngày 27/06/1991 nổ
ra cuộc chiến tranh phân liệt ở Liên bang Nam Tư (cũ). Ngày 28/06/1991 Hội
đồng tương trợ kinh tế giải thể và ngày 01/07/1991 xoá bỏ Hiệp ước
Warsawa. Cuối cùng, sự kiện ngày 19 tháng 08 năm 1991 đánh dấu sự phân
rã Liên Xô sau hơn 70 năm tồn tại.
Chiến tranh lạnh đã kêt thúcvới sự ra đi của siêu cường Liên xô và sự sụp
đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, cùng với "sự suy yếu tương đối


8

của Mỹ", sự trỗi dậy của Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, sự phân hoá trong

các nước thế giới thứ ba. Điều này đã có ảnh hưởng rất lớn đến tầm nhìn
chiến lược của các quốc gia trên thế giới. Các quốc gia khơng cịn đứng trên
lập trường đối đầu quyết liệt nữa mà thay vào đó là đối thoại, là hướng tới
"tồn cầu hố", theo nghĩa là một tiến trình phát triển mới về chất của nhân
loại.
Tồn cầu hố là một xu hướng khách quan của sự phát triển lịch sử, cuốn
hút ngày càng rộng rãi nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau như : kinh tế và văn
hoá; chính trị và quân sự… cũng như các hoạt động về xã hội và mơi trường.
Mơ hình hai cực của hệ thống Quan hệ quốc tế bị phá vỡ, Mỹ đã mất đi
một đối trọng, cũng là một đối thủ mạnh trên chính trường Quốc tế. Đối với
Mỹ, đây là thời cơ cần phải "chớp lấy" để xác lập một trật tự thế giới đơn cực
do Mỹ lãnh đạo. Mỹ cho rằng, với sức mạnh tổng hợp ( Quân sự, Kinh tế,
Chính trị, Văn hố, Khoa học kĩ thuật, Ngoại giao…) của mình , Mỹ có thể áp
đặt mơ hình Mỹ, phổ biến các giá trị và lối sống Mỹ ra khắp mọi nơi trên
hành tinh. Song âm mưu của Mỹ khơng dễ gì đạt được vì vấp phải sự phản
đối của các Quốc gia dân tộc trên thế giới có khi là cả một phần đơng dân Mỹ.
Hơn nữa, Mỹ không phải là quốc gia duy nhất tồn tại trên thế giới, cho nên,
xét đến cùng, sự vận động phát triển của Mỹ cũng khơng nằm ngồi sự vận
động và phát triển của thế giới, khơng nằm ngồi ranh giới của các mối quan
hệ Quốc tế.
Trái ngược với ý đồ thiết lập trật tự thế giới đơn cực của Mỹ, là hoạt
động đối ngoại của một số các nước lớn khác theo hướng thiết lập hệ thống
quan hệ Quốc tế đa cực, nghĩa là hệ thống trong đó có một số trung tâm sức
mạnh hoạt động tương tác.


9

Trên thực tế, từ các xu hướng vận động khách quan của các mối quan hệ
quốc tế sau Chiến tranh lạnh, đang nổi lên tính chất đa cực của cục diện thế

giới, nhất là về kinh tế. Tính đa cực đó đang được biểu hiện trước hết trong
quan hệ giữa các nước lớn. Ngoài Mỹ, các cường quốc thế giới, các trung tâm
quyền lực khác đang ngày càng chiếm tỉ trọng lớn hơn, hoặc về kinh tếthương mại, hoặc về chính trị- qn sự trong đời sống xã hội lồi người.
Ngoài các cường quốc lâu đời, đã xuất hiện các cường quốc mới nổi lên ở các
khu vực khác nhau. Trong đó, điều quan trọng nhất là các cường quốc sau
Chiến tranh lạnh, từ các đồng minh của Mỹ trong NATO, G7, đến các nước"
Đối tác chiến lược" của Mỹ như : Liên bangNga, Trung Quốc… đều ngày
càng tỏ ra độc lập hơn trong quan hệ với Mỹ, chứ không cam chịu là "Đối tác
lép vế" của Mỹ.
Trong hệ thống quan hệ quốc tế đang chuyển biến phức tạp sau Chiến
tranh lạnh, quan hệ giữa Liên bang Nga và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là một
mối quan hệ mang nhiều nét đặc thù riêng, khác với quan hệ giữa Nga cũng
như giữa Mỹ với các nước khác trên thế giới. Những điểm khác biệt đó là :
Dù tiếp nối quan hệ Xô- Mỹ trước đây song quan hệ Nga- Mỹ khác về chất so
với quan hệ Xô- Mỹ.
Quan hệ Nga Mỹ không phải là mối quan hệ đối đầu do bị ý thức hệ chi
phối như quan hệ Xô-Mỹ. Giờ đây,đó là quan hệ giữa hai nước lớn trong một
hệ thống quan hệ quốc tế đã thay đổi rất lớn, rất cơ bản, khi nhìn chung, tất cả
các nước lớn nhỏ, mạnh yếu đều thực hiện chính sách đối ngoại đa dạng hoá,
đa phương hoá, chủ yếu dựa trên quan hệ lợi ích. Mà cả Nga và Mỹ thì đều
xác định họ khơng có lợi ích chiến lược là triệt tiêu nhau, loại trừ nhau như
giữa Liên Xô và Mỹ trước đây. tuy nhiên, nếu như giới cầm quyền Mỹ vẫn
xác định Mỹ có lợi ích tồn cầu thì ban lãnh đạo Nga cho rằng những lợi ích
của Nga hiện nay khơng mang tính tồn cầu như Liên xơ trước đây.


10

Xét trên "Bàn cờ chính trị thế giới" thì khơng chỉ thấy tính chất tương tác
lẫn nhau giữa Nga và Mỹ, vai trị và vị trí của từng nước thay đổi, mà vai trị,

vị trí của chính cặp quan hệ Nga -Mỹ trong hệ thống quan hệ quốc tế cũng
thay đổi. Thời kỳ Chiến tranh lạnh, vai trị, vị trí của Liên Xô và Mỹ hầu như
tương đương nhau trong cán cân lực lượng trên trường quốc tế, nhất là về
chính trị- đối ngoại và qn sự- an ninh.
Nhìn chung, trong tương quan lực lượng trên trường quốc tế, tỷ trọng của
Mỹ tăng lên khá rõ rệt, còn tỷ trọng của Nga suy giảm rất lớn so với Liên Xô
cũ. Mỹ có nhiều khả năng, nhiều phương tiện để khuếch trương ảnh hưởng
của mình đến nền chính trị và kinh tế thế giới, cịn nga thì rất khó khăn, rất
chật vật trong việc duy trì vị thế cường quốc.
Về cặp quan hệ Nga- Mỹ, mặc dù là cặp quan hệ rất quan trọng, song
khơng đóng vai trị chi phối các quan hệ quốc tế hiện nay. Hay nói cách khác,
trong hệ thống thế gới đa cực đang hình thành cũng khơng có cặp quan hệ nào
có khả năng đóng vai trò chi phối.
Như vậy, việc Chiến tranh lạnh kết thúc, một trật tự thế giới hậu Chiến
tranh lạnh có ảnh hưởng như thế nào đối với quan hệ Nga- Mỹ?
Chúng ta có thể thấy rằng, vấn đề đầu tiên và cơ bản trong mối quan hệ
Nga- Mỹ trong những năm 1992-1999 là vấn đề xác định quy chế của cả hai
nước trên trường quốc tế lẫn trong quan hệ với nhau. Trong khi thừa nhận
Nga là nhà nước kế tục Liên Xơ, một số chính trị gia ở Mỹ vẫn cho rằngNga
là một cường quốc thất bại, còn Mỹ là siêu cường chiến thắng trong Chiến
tranh lạnh, tức là Mỹ có quyền áp đặt những điều kiện của mình đối với hồ
bình, an ninh và quan hệ lẫn nhau. Trong thực tế, chính sách đối ngoại của
Mỹ đối với Nga đã biểu hiện ít nhiều lối tư duy nêu trên.


11

Trong những năm đầu sau khi Liên bang Nga bước ra vũ đài chính trị
quốc tế với tư cách là " Quốc gia kế tục Liên Xô", cả giới quan chức Nga và
Mỹ đều cho rằng họ có thể nhanh chóng thiết lập được một mối quan hệ kiểu

mới giữa Nga và Mỹ. Họ khẳng định "nước Nga mới" và Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ khơng có lợi ích đối nghịch nhau, mà có những lợi ích chung hoặc lợi
ích như nhau trên trường quốc tế và trong quan hệ song phương.
Vậy là, trong hệ thống quan hệ quốc tế hình thành sau Chiến tranh lạnh,
giới cầm quyền hai nước Nga và Mỹ xác định những lợi ích quốc gia quan
trọng sống cịn của từng nước hồn tồn khơng tạo nên sự đối đầu tất yếu giữa
hai nước. Trên trường quốc tế, cả Mỹ lẫn Nga đều không muốn những nước
khác gia tăng sức mạnh, nhất là để thực hiện tham vọng bá quyền ở khu vực:
Châu Âu, Trung cận Đông, Châu Á- Thái Bình Dương, càng khơng muốn có
sự xuất hiện của siêu cường thứ ba trong quan hệ quốc tế. Đó là những vấn đề
cơ bản và quan trọng trong quan hệ hợp tác chiến lược Nga- Mỹ trong thời kỳ
sau Chiến tranh lạnh. Song sự vận động của quan hệ Nga- Mỹ trong lĩnh vực
chính trị- đối ngoại cũng như trong các vấn đề khác không diễn ra đơn giản,
dễ dàng, hồn hảo như những gì mà họ tuyên bố với nhau và với thực tế.
Thực tiễn, quan hệ đối ngoại Nga- Mỹ diễn ra hết sức phức tạp.
1.2. Nƣớc Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dƣới
thời Tổng thống B.Enxin (1992 - 1999).
Năm 1992, B.Enxin trở thành Tổng thống đầu tiên của Liên bang Nga,
một bộ máy chính quyền mới được thành lập. Nước Nga mới chuyển đổi cơ
cấu chính trị, từ thể chế chính trị Xã hội chủ nghĩa sang thể chế chính trị Tư
bản chủ nghĩa.
Liên bang Nga ( ''nước Nga mới'') theo chế độ tam quyền phân lập, đứng
đầu cơ quan hành pháp là Tổng thống cịn đứng đầu chính phủ là Thủ tướng.
Nội các do Tổng thống bổ nhiệm, ngoài Nội các, ở Nga cịn có Hội đồng


12

tương trợ Tổng thống (Préidential Administration) có nhiệm vụ cung cấp
nhân lực, giúp Tổng thống hoạch định chính sách, thảo ra các sắc lệnh của

Tổng thống, phối hợp chính sách giữa các cơ quan trong chính phủ.
Trong những năm 1992- 1996, một bộ phận lớn các quan chức chính
quyền mới (trước hết là Tổng thống B.Enxin, Bộ trưởng ngoại giao
A.Kozyrev, các nhà dân chủ cấp tiến), các nhà chính trị, giới trí thức Nga. . .
có trạng thái tinh thần "say sưa dân chủ". Họ khẳng định rằng: một khi "
Nước Nga mới" đoạn tuyệt hệ tư tưởng Chủ nghĩa cộng sản để xây dựng nước
Nga thành một "cường quốc dân chủ", để thiết lập quan hệ liên minh chặt chẽ
với các nước Phương Tây, trước hết là Mỹ, thì nước Nga sẽ có được những
điều kiện thuận lợi tối đa cho các cải cách chính trị- kinh tế- xã hội trong
nước. Nói một cách khác là, khi Liên bang Nga đã thay đổi thể chế chính trị
và điều chỉnh chính sách ngoại giao nghiêng về phương Tây và Mỹ thì một
quan hệ mới về chất giữa Liên bang Nga và Hợp chủng quốc Hoa kỳ sẽ nhanh
chóng được thiết lập trên cơ sở lợi ích chung ngày một chặt chẽ.
Bộ trưởng ngoại giao Liên bang Nga, A.Kozyrev, khẳng định rằng: kinh
nghiệm hai mươi năm làm công tác ngoại giao chun nghiệp của ơng ta cho
thấy những lợi ích thực sự của nước Nga chỉ được thực hiện thông qua hợp
tác, chứ không phải đối đầu với Mỹ. Người ta tin tưởng sâu sắc rằng định
hướng thân Mỹ sẽ nhanh chóng đem lại những kết quả sau:
- Moskva và Washington sẽ thiết lập quan hệ hợp tác chiến lược về quân
sự - an ninh;
- Nước Nga sẽ được chấp nhận là thành viên bình đẳng của NATO, G7,
các thiết chế quan trọng khác của Phương Tây;
- Nước Mỹ đứng đầu các nước tư bản sẽ có sự giúp đỡ quy mơ lớn, có
một "kế hoạch Marshall" mới cho Nga [ 04; 80].


13

Trong những năm đầu thập niên 90, do xuất phát từ quan điểm, tính tốn
và nhận định nêu trên, Liên bang Nga trên thực tế đã chấp nhận vị trí đứng

đầu của Mỹ. Các tuyên bố, tuyên ngôn cũng như các thực tế hoạt động đối
ngoại của chính quyền B. Enxin cho thấy nươc Nga đã tập trung mọi nỗ lực
nhằm xây dựng quan hệ thân thiện với các nước phương Tây nói chung, với
Mỹ nói riêng.
Cùng với việc áp dụng " Liệu pháp sốc" nhằm thúc đẩy nhanh quá trình
cải cách kinh tế một cách triệt để theo hướng thị trường tự do và tiến hành xây
dựng các thể chế dân chủ theo kiểu Phương Tây, ban lãnh đạo Nga ra sức
tuyên truyền các giá trị Mỹ.
Còn những nhận thức của giới cầm quyền Mỹ trong thời gian này thì cho
rằng: Liên bang Nga là một thực thể chính trị - kinh tế - xã hội rất phức tạp,
rất khó tiên đốn. Mỹ tất nhiên khơng muốn một nước Nga '' Cộng hồ xã hội
chủ nghĩa Xơ viết'', cũng không muốn một nước Nga hỗn loạn đổ vỡ, càng
không muốn một nước Nga '' Siêu cường tư bản chủ nghĩa thế giới'', có vai
trị, vị thế tương xứng với Mỹ.
Giới cầm quyền Mỹ, dù là G.Bush (cha) của Đảng cộng hoà, B.Clinton
của Đảng dân chủ hay G.Bush (con) kế nhiệm B.Clinton cũng vậy, đều cho
rằng cho dù nước Nga vận động theo hướng nào trong những hướng kể trên
thì chẳng những rất bất lợi cho Mỹ mà còn là nguy cơ đe doạ an ninh và lợi
ích quan trọng sống cịn của Mỹ.
Chính vì những nhận định trên mà chính sách của Mỹ đối với Nga ln
mang tính chất hai mặt, vừa hợp tác vừa kiềm chế hay hợp tác để kiềm chế.
Bởi vì bản thân Mỹ cũng muốn thiết lập với Nga một mối quan hệ đối
tác, nhưng Mỹ chỉ muốn Nga là một đối tác mạnh vừa phải, khá giả vừa phải,
có hồ bình, ổn định và tất nhiên là coi trọng ''vai trò cố vấn'' của Mỹ.


14

Trên thực tế Nga đã chấp nhận nhượng bộ Mỹ trên rất nhiều vấn đề quốc
tế quan trọng có liên quan đến Nga như: giải quyết xung đột ở Nam Tư cũ;

cấm vận Irac; vấn đề Apganistan; hồ bình ở Trung Đông. . .
Nhà nước Liên bang Nga sau mấy năm chứa đầy ảo tưởng, những hy
vọng quá lớn vào sự hào hiệp của" Người bạn lớn thật sự", "Đồng minh tự
nhiên"- Hợp chủng quốc Hoa kỳ, và sau khi đã " Tự mình nếm trải những thất
bại, nhữmg bài học cay đắng"- không phải của chủ nghĩa cực quyền, mà là
của chính sách đối ngoại phụ thuộc vào Phương Tây, trước hết là vào Mỹ. Đã
bắt đầu cuộc hành trình đi tìm lại chính mình, một nước Nga cường quốc Âu Á với bản sắc lưỡng thể Âu - Á.
Trong ý thức, tư tưởng và tình cảm của người dân Liên bang Nga, việc
nước Nga luôn phải đứng sau Mỹ, bị Mỹ đặt vào thế bị động và bị Mỹ ''qua
mặt'' là điều không thể chấp nhận được. Nước Nga cần phải đấu tranh để có
một vị thế quốc tế xứng đáng hơn, bình đẳng hơn trong quan hệ với Mỹ.
Trong bài phát biểu trước các quan chức Bộ ngoại giao Nga ngày
12/08/1998, khi nói về quan hệ Nga - Mỹ, Tổng thống Nga B.Enxin thừa
nhận: " Sau thời kỳ của những ảo tưởng và hy vọng quá mức, chúng ta đã
điều chỉnh được sự phối hợp hành động bình đẳng với Mỹ. Cần tiếp tục duy
trì sự năng động tích cực trong các quan hệ với nước này".[04; 85-86]
Từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại như đã nêu trên, và
trong khi không hề coi nhẹ quan hệ hợp tác với Mỹ, Nga đã có những điều
chỉnh nhất định trong quan hệ với nước này.
Chính sách đối với Mỹ được thực hiện theo hướng độc lập hơn, chú
trọng hơn và kiên quyết hơn trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia của Nga. Mà
các lợi ích quốc gia của Nga và Mỹ thì ngày càng nảy sinh thêm những điểm


15

khác biệt, nhất là trong lĩnh vực chính trị đối ngoại (thể hiện ở các vấn đề khu
vực: SNG, Balcan, Trung Cận Đông. . .).
Trong khi Liên bang Nga chủ trương xây dựng một thế giới đa cực, thì
Mỹ lại cố gắng thiết lập một trật tự thế giới đơn cực. Trật tự thế giới đơn cực

về chủ yếu được hiểu là một thế giới đa dạng hố, khơng nằm dưới sự thống
trị của bất cứ một cường quốc nào. Trong trật tự thế giới đa cực vai trò, vị trí
và tính tự chủ độc lập của nhiều nước lớn tăng lên, các nước đang phát triển
cũng trở thành lực lượng quan trọng có vai trị đáng kể trong việc thúc đẩy sự
phát triển theo hướng đa cực hoá của thế giới.
Thông điệp hàng năm năm 1999 được đọc ngày 30/03/1999 trong "thời
điểm vơ cùng kịch tính" khi NATO đứng đầu là Mỹ tấn công Nam Tư đã một
tuần, B.Enxin nhấn mạnh:" Vào ngay đầu thế kỷ tới Nga phải sánh vai với các
cường quốc hàng đầu thế giới, phải tạo hợp các quan hệ trên tinh thần tự trọng
và đối tác", ông cho rằng " Những nước nào cho rằng nước Nga đã bị suy yếu,
vì vậy có thể khơng cần coi trọng nó là sai lầm. Khơng có những khó khăn
tạm thời nào có khả năng liệt nước Nga vào loại các cường quốc thứ yếu"
[01, 87]. Như vậy, Nga không chỉ chống lại ý đồ thiết lập trật tự thế giới đơn
cực của Mỹ mà chủ yếu là cịn đấu tranh nhằm xác lập vị trí xứng đáng của
Nga trong trật tự đa cực đang hình thành.
Trong thực tiễn hoạt động đối ngoại, Liên bang Nga công khai phản đối
các hành động bá quyền, đơn phương sử dụng sức mạnh quân sự tấn công
một nước khác, hoặc cấm vận kinh tế vô lý, chẳng hạn như hành động của Mỹ
tiến hành ở Irac, Iran, Cuba, Libi, Apganistan, Xudan. Đặc biệt, Nga tích cực
triển khai các hoạt động ngoại giao với vai trị là người trung gian hồ giải,
chủ trương giải quyết xung đột bằng phương pháp chính trị - ngoại giao như
các vấn đề ở Trung Cận Đông, Bán đảo Balcan. . . Tuy nhiên, các vấn đề Nga


16

quan tâm nhất là các vấn đề liên quan đến các nước SNG và các nước cịn lại
thuộc Liên Xơ cũ.
1.3. Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong những
năm 1992 -1999.

Theo Z.Brezinski, đại lục Âu-Á là "Bàn cờ lớn" để Mĩ triển khai chiến
lược toàn cầu, vì ở đấy chẳng những tiềm ẩn sự giàu có khổng lồ, mà cịn có
những mối đe doạ, có những nước có tham vọng ảnh hưởng đến nền chính trị
thế giới và không phải khi nào và trong mọi việc đều đồng ý với Mĩ. Cũng
theo Z.Brezinski, nước Nga được xác định là " Đấu thủ chính" ở "Bàn cờ
lớn", bất luận sự suy yếu về kinh tế và sự bất ổn về chính trị của nước này.
Z.Brezinski cịn cho răng một khi Liên bang Nga khôi phục được sức mạnh tự
thân của mình thì nó sẽ ảnh hưởng đáng kể đến những nước láng giềng ở cả
phía Tây, phía Đơng lẫn phía Nam.
Mặc dù quan điểm trên đang bị phê phán, song nhiều tư tưởng của nhà
chiến lược này được các quan chức trong chính quyền Mĩ hết sức chú ý và
đưa vào chiến lược đối ngoại đối với Liên bang Nga.
Nhìn chung giới cầm quyền Mĩ cho rằng, trên lục địa Âu - Á rộng lớn
này không nên có một cường quốc lãnh đạo nào, mà nên có những nước trung
bình, khá vững chắc, mạnh vừa phải, có khả năng đối trọng với nhau, nhưng
nhất định phải thua Mĩ về khả năng của từng nước hay thậm chí của một số
nước gộp lại. Trong những nước như vậy rõ ràng Liên bang Nga có nhiều lợi
thế so sánh hơn, nên nhân tố Nga khơng thể khơng tính đến.
Chính vì thế Liên bang Nga trong quá khứ cũng như hiện tại và tương lai
ln ln chiếm vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của các chiến
lược gia Mĩ.


17

Mặt khác Liên bang Nga là một thực thể Chính trị - Kinh tế - Xã hội rất
phức tạp, Mĩ tất nhiên khơng muốn có một Liên bang Nga đủ mạnh như nó
vốn có nhưng lại cũng khơng muốn có một nước Nga đổ vỡ. Chính vì thế giới
cầm quyền Mĩ từ G.W.Bush ( cha) đến B.Clinton đều cho rằng Liên bang Nga
dù vận động theo hướng nào trong những hướng trên thì chẳng những bất lợi

cho Mĩ, mà cịn là nguy cơ đe doạ an ninh và lợi ích sống còn của Mĩ.
Vậy Mĩ mong muốn nước Nga phát triển theo chiều hướng nào? và nước
Mĩ đã thực hiện một chính sách ra sao với Liên bang Nga trong những năm
B.Clinton cầm quyền?
Đối với B.Clinton, chính sách đối ngoại trực tiếp liên quan đến thay đổi
xã hội và kinh tế Hoa Kì làm ơng quan tâm hơn cả. Do vậy các vấn đề ngoại
thương và kinh tế thế giới có vị trí trung tâm trong chương trình nghị sự chính
sách đối ngoại của là đặc điểm nhất quán nhất của chính sách đối ngoại đó.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhận thức một cách rõ ràng rằng: chính
sách đối ngoại của Mỹ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay là ln tìm
cách khẳng định và duy trì địa vị lãnh đạo thế giới của mình. Chỉ có các Tổng
thống là người lựa chọn con đường đi đến địa vị thống trị đó là khác nhau mà
thơi.
Ngay khi lên cầm quyền, B.Clinton đã xác định ngay chiều hướng lãnh
đạo đất nước của mình là hướng nội và ơng đã khơng ngừng củng cố chính
sách đó của mình trong suốt hai nhiệm kỳ làm người đứng đầu Nhà trắng. Về
chính sách đối ngoại . B.Clinton chủ trương xây dựng đường lối ngoại giao
mềm dẻo với các quốc gia dân tộc. Chính sách đối ngoại đối với Liên bang
Nga cũng khơng nằm ngồi chiều hướng ngoại giao mềm dẻo đó.
Là người đại diện cho Đảng Dân chủ, một đảng có mối quan tâm khá
nhiều đến tình hình trong nước, nghiêng nhiều hơn về đối nội, chính vì thế


18

B.Clinton tập trung sự chú ý của mình với chính sách đối nội. Trước hết là
đưa nền kinh tế Mĩ phát triển và thực tế cho thấy những đối sách hợp lý của
B.Clinton đã đưa nền kinh tế Mĩ tăng trưởng nhanh chóng, đời sống nhân dân
Mĩ được cải thiện đáng kể.
Xuất phát từ nội lực kĩnh tế đó, cũng như trên đã trình bày, chính sách

đối ngoại của B.Clinton ln hướng đến những lợi ích kinh tế cho nên
B.Clinton đã có những điều chỉnh thích hợp trong quan hệ đối với Liên bang
Nga.
Cần phải xác định rằng, sau Chiến tranh lạnh, Liên bang Nga vẫn là mối
quan tâm hàng đầu của Mĩ trong chính sách đối ngoại của nước này. Nếu như
trước đây, chính sách đối ngoại đối với Liên Xô là tâm điểm của mọi hoạt
động đối ngoại Mĩ với tư cách là một đối thủ "Một mất một cịn" thì sau khi
Chiến tranh lạnh kết thúc chính sách đối với Nga lại là " Đối tác chiến lược".
Mặc dù trong quan niệm của chính giới Mỹ, Liên bang Nga là nước
"chiến bại" trong Chiến tranh lạnh song do những lợi thế so sánh của nước
Nga về diện tích, vị trí địa - chính trị, Uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an
Liên Hợp Quốc, thành viên Câu lạc bộ các cường quốc hạt nhân, nguồn ngoại
giao và ảnh hưởng chính trị đáng kể tạo lập từ thời Liên Xơ cũ, nên Liên bang
Nga có một vị thế mà đơn giản là Mĩ không thể bỏ qua, không thể xem
thường.
Chính vì thế, B.Clinton đã có những chuyển hướng hết sức " Ranh
mãnh" như: tuyên bố về sự thành lập đối tác chiến lược với Liên bang Nga,
thông qua các đề án kinh tế, giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ cũng
như các vấn đề liên quan đến sự mở rộng về phía Đơng của NATO, các vấn
đề liên quan đến thế giới thứ ba... trên bàn thương lượng.


19

Về kinh tế, B.Clinton chủ trương vận động các nước Tây Âu cho phép
Nga hỗn các kì trả nợ đã đến hạn thanh tốn mà Nga chưa có khả năng thanh
tốn được. Thêm và đó lại cho phép Nga tiếp tục vay các khoản nợ mới để
thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên cần phải nhận thức một cách khách
quan rằng: Tổng thống B.Clinton, người đứng đầu bộ máy quan chức của
nước Mĩ, đã tự giành cho mình vai trị chỉ đạo các cuộc cải cách chính trị và

kinh tế ở Nga, áp đặt điều kiện đối với việc Nga gia nhập thị trường tồn cầu,
phớt lờ lợi ích của Nga khi Nga tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế.
Cho nên, trên lĩnh vực kinh tế, Mĩ đã nắm quyền chủ động chi phối chứ
không phải là mối bang giao kinh tế bình đẳng cùng có lợi như Tổng thống
B.Enxin đã từng mơ ước. Chính điều này đã làm cho việc khôi phục nề kinh
tế của Liên bang Nga gặp rất nhiều khó khăn và ngày càng lệ thuộc vào Mĩ.
Rõ ràng, điều gì bất lợi cho Liên bang Nga, làm cho nước Nga ngày càng
khó có điều kiện phát triển độc lập rồi đi đến phụ thuộc vào Mĩ là điều mà
B.Clinton mong muốn. Không ra mặt công khai, không rầm rộ thực hành song
B.Clinton đã từng bước đi dần đến mục tiêu mà ông ta đặt ra hay nói đúng
hơn là B.Clinton đã từng bước thực hiện chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai đến nay là ln tìm cách khẳng định và duy trì địa
vị lãnh đạo thế giới của mình.
Như vậy là, đối với Liên bang Nga, Mĩ ln thực thi chính sách vừa hợp
tác vừa kiềm chế hay hợp tác để kiềm chế. Nói cách khác Mĩ sẵn sàng hợp tác
với Liên bang Nga trên mọi bình diện song triển vọng đối tác với một nước
Nga mạnh có khả năng thực sự ngang hàng với Mĩ là điều mà Mĩ hồn tồn
khơng muốn. Mĩ ln tìm mọi cách để cản trở Liên bang Nga có được vị thế
xứng đáng và duy trì được những khu vực ảnh hưởng mà trước đây Liên Xơ
đã từng có. Đó là tư tưởng xuyên suốt chiến lược đối ngoại của Mĩ đối với


20

Liên bang Nga từ sau khi Liên bang Xô viết tan rã, gắn liền với lợi ích của
Mĩ.
Những hành động của Mĩ ở khu vực Trung Đông, ở ba nước Bantich, ở
Ucraina, ở các nước Trung Á, ở Trung Cận Đông, ở Nam Tư cũ... đã chứng
minh cho nhận địng trên. Ngay cả Bộ trưởng ngoại giao Mĩ M.Albright cũng
đã thẳng thừng: " Ưu tiên chủ yếu nhất trong quan hệ với Nga là bảo đảm an

ninh cho nhân dân Mĩ. Chúng ta sẽ luôn luôn quan tâm đến điều đó, khơng
phụ thuộc vào việc ai bị thay hay ai lên nắm quyền ở Cremli, hay vào việc
nước Nga đi theo hướng nào... Nhiệm vụ của chúng ta là - điều đó cũng vì lợi
ích của chúng ta - điều khiển hậu quả của việc đế quốc Xô viết tan rã... Điều
đó có nghĩa là chúng ta vẫn như trước đây cần kiên quyết bảo vệ nguyên tắc,
lợi ích và mục tiêu của chúng ta" [ 04, 84].
Có thể nói, Mĩ đang cố gắng duy trì sự cân bằng giữa hợp tác và cạnh
tranh, giữa đối tác chiến lược và đối thủ tiềm tàng trong quan hệ với Liên
bang Nga. Hiện tại, trong khi về cơ bản thì duy trì " Đối tác chiến lược" với
Liên bang Nga, Mĩ vẫn sử dụng quan hệ đối tác đó để kiểm sốt chính sách
đối nội, đối ngoại và an ninh của Liên bang Nga.
1.4. Tổng quan về mối quan hệ Nga – Mỹ trong những năm 19921999
Xuất phát từ những đánh giá về chính sách đối ngoại của cả hai phía
trong những năm 1992 - 1999 chúng ta thấy, mối quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ
trong thời kỳ này là không bình đẳng.
Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ xuất hiện
một tuần ''trăng mật '' ngắn ngủi. Từ ngày 02 - 03 tháng 01 năm 1993, người
đứng đầu hai nước Nga - Mỹ đã chính thức ký kết Hiệp ước cắt giảm vũ khí
hạt nhân mà hai nước đã đề đạt hồi tháng 06 năm 1992 tại Moscow, đó là việc


21

chính thức ký kết, '' Hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lược tiến cơng
giai đoạn hai''. Mỹ cam kết thúc đẩy các tập đoàn thuộc 07 nước phương Tây
tài trợ một lần cho Nga số tiền 24 tỉ USD.
Ngày 03 - 04 tháng 04 năm 1993, B.Clinton và B.Enxin tổ chức cuộc gặp
chính thức tại Vancuvơ - Canada và phát đi bản '' Tuyên bố Vancuvơ''. Hai
bên tuyên bố, quan hệ hai nước từ đối đầu trong thời kỳ Chiến tranh lạnh nay
chuyển thành '' Đối tác chiến lược''. Mỹ tuyên bố sẽ tăng viện trợ cho Nga từ

400 triệu USD lên 1,6 tỉ USD [04;87].
Ngày 14 và 15 cùng tháng, với sự nỗ lực của Mỹ, Bộ trưởng Bộ tài chính
và Bộ trưởng ngoại giao 07 nước phương Tây đã họp bàn khẩn cấp tại Tokyo
quyết định tăng viện trợ cho Nga lên 43,4 tỉ USD. . . Thời kỳ này, Nga đã tích
cực phối hợp với Mỹ trong các vấn đề xung dột khu vực, vấn đề thế giới thứ
ba, trong đó bao gồm cả vấn đề Nam Tư trước đây [04;88] .
Từ 12 đến 15 tháng 01 năm1994, Tổng thống Mỹ B.Clinton thăm chính
thức Nga, hai nước ký "Tuyên bố chung Moscow" ca ngợi mối quan hệ Nga Mỹ đã bước vào gia đoạn mới, đó là quan hệ đối tác chiến lược chín muồi
được xây dựng trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, cùng nhau thừa nhận lợi ích
dân tộc mỗi nước. Hai nước còn tuyên bố, kể từ ngày 30 tháng 05 năm 1994,
hai nước sẽ không coi quốc gia đối phương là mục tiêu để bố trí vũ khí hạt
nhân chiến lược của hai nước.
Nhưng, viễn cảnh tốt đẹp đó không kéo dài được bao lâu. Mối quan hệ
Nga - Mỹ đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn, trước tiên là mâu thuẫn về mặt kinh
tế. Từ năm 1992 đến đầu năm 1994, các nhà lãnh đạo Mỹ và phương Tây hứa
viện trợ cho Nga vài trăm tỉ USD, nhưng trên thực tế số tiền chuyển khoản chỉ
được 1/3.


22

Ngày 15 tháng 01 năm 1994, Bôris Elsin tuyên bố rằng, nước Nga không
mưu cầu viện trợ nhân đạo mà yêu cầu Mỹ mở thị trường xuất khẩu hàng hoá
và kỹ thuật, huỷ bỏ các hạn chế buôn bán. Thủ tướng Nga cũng nhiều lần
ngậm ngùi lên tiếng rằng, phương Tây chớ đối xử với Nga như với người bạn
nghèo, Nga khơng cần sự gia ân đó mà chỉ u cầu được bình đẳng trong
bn bán.
Thứ hai là mâu thuẫn trong vấn đề cắt giảm lực lượng hạt nhân. Căn cứ
vào Hiệp định cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lược giai đoạn hai, thì lực lượng
cắt giảm chủ yếu đều là vũ khí mang nhiều đầu đạn hạt nhân ở các cơ sở trên

mặt đất, còn phần lớn loại vũ khí này ở trên biển được giữ lại. Loại trên mặt
đất là ưu thế của Nga còn loại trên biển là ưu thế của Mỹ.
Như vậy, rõ ràng là Mỹ đã chiếm ưu thế về vũ khí hạt nhân so với Nga
song vấn đề này sẽ ''không trở thành vấn đề'' nếu như NATO khơng mở rộng
về phía Đơng và Mỹ khơng thử nghiệm hệ thống phịng thủ tên lửa đạn đạo
nhằm tránh cuộc tấn công hạt nhân vào lãnh thổ nước mình. Sự vi phạm của
Mỹ đã buộc quân đội Nga phải tuyên bố huỷ bỏ lời cam kết chiến lược ''răn
đe'' hạt nhân, Mỹ vô cùng lo lắng.
Thứ ba, Nga và Mỹ mâu thuẫn trong vấn đề NATO khơng ngừng mở
rộng sang phía Đơng. Tháng 03 năm 1991, tổ chức Vacsava tuyên bố giải tán,
một số nước thành viên của tổ chức này đưa ra yêu cầu gia nhập NATO, Liên
bang Nga phản đối vấn đề này.
Tháng 12 năm1995, sau khi NATO quyết định mở rộng sang phía Đơng,
Nga lại nhắc lại một lần nữa là '' Kiên quyết phản đối'' cịn Mỹ thì khơng chỉ
đồng ý mà còn ''thúc dục'' mạnh mẽ vấn đề này.
Thứ tư là mâu thuẫn ngay trong khu vực Liên xô trước đây, khơng chỉ
''thị tay'' sang phía Đơng, Mỹ cịn dịm ngó cả các nước thuộc Liên Xơ (cũ )


23



'' Khu vực có lợi ích đặc biệt và trách nhiệm đặc biệt'' của Liên bang

Nga. Mặc cho Moscow tuyên bố coi q trình "Đơng tiến" của NATO là một
sai lầm, chỉ có thể làm cho tình hình châu Âu thêm phức tạp lên thơi thì Mỹ
và phương Tây vẫn điềm nhiên lấn sân nước Nga không chỉ ở khu vực Đơng
Âu mà cịn nhìn ngó sang cả khu vực Trung Á và Capcadơ.
Sau năm 1993, Liên bang Nga càng coi trọng và tăng cường ảnh hưởng ở

khu vực này, coi việc phát triển mối quan hệ với các quốc gia đó là một mặt
ưu tiên nhất trong ngoại giao. Sự ''quan tâm'' của Mỹ ở khu vực này càng làm
tăng thêm xung đột trong quan hệ Nga - Mỹ.
Thứ năm là mâu thuẫn trong chính sách đối với các nước trong thế giới
thứ ba. Trong vấn đề hồ bình ở Trung Đông, Nga muốn phá vỡ thế độc tôn
của Mỹ. Trong vấn đề Irăc, Nga cương quyết phản đối kế hoạch bao vây, cấm
vận của Mỹ và một số nước phương Tây, chủ trương thông qua đối thoại để
giải quyết vấn đề. Nga còn tăng cường quan hệ với Irăc, một nước thù địch
trong vùng Vịnh của Mỹ, vẫn xuất khẩu hạt nhân cho Irăc bất chấp phản ứng
của Mỹ.
Nga cịn tích cực khơi phục và phát triển mối quan hệ với nhiều nước
khác trong thế giới thứ ba có xung đột với Mỹ, làm cho Mỹ có ''cảm giác bất
an'' do đó mà tăng cường đề phịng Nga.
Thứ sáu là mâu thuẫn trong vấn đề Cosovo, khi NATO - đứng đầu là Mỹ,
khơng kích Liên bang Nam Tư, Nga đã nhanh chóng phản đối quyết liệt. Khi
nhận được tin này, Thủ tướng Nga Primacov đang trên đường bay tới Mỹ để
tham dự Hội nghị của Tổ chức tiền tệ quốc tế đã lập tức quay trở về Nga, cịn
Tổng thống Bơris Yelsin thì lên tiếng chỉ trích và phê phán mạnh mẽ hành
động của NATO, phái quân dù của Nga chiếm sân bay Pritina. Phản ứng trên
của Nga đã làm cho mối quan hệ Nga - Mỹ xấu đi nhanh chóng.


24

Mâu thuẫn Nga - Mỹ còn thể hiện trong vấn đề tranh chấp khu vực
Capcadơ; vấn đề Mỹ triển khai kế hoạch phòng vệ tên lửa đạn đạo quốc gia. .
.
Nhìn chung, B.Enxin với vai trị là người đứng đầu nhà nước Liên bang
Nga, suốt gần một thập niên qua đã thực thi chính sách thân phương Tây, đặc
biệt là Mỹ. Lấy Mỹ- Tây Âu làm hình mẫu để cải cách kinh tế- xã hội, những

cố gắng đó của Tổng thống B.Enxin xem ra đã không đem lại những kết quả
mong muốn
Mặc dù Mỹ cùng phương Tây chấp nhận cho Moscow ngồi cùng bàn tại
Hội nghị thượng đỉnh thường niên G7 (vốn chỉ dành riêng cho các nước công
nghiệp phát triển nhất như: Hoa kỳ, Nhật Bản, CHLB Đức, Anh, Pháp,
Canada và Italia) trở thành G8, nhưng những gì diễn ra trong thực tế cho thấy,
đó khơng thể coi là một sự bình đẳng giữa Liên bang Nga và các nước G7.
Chính sách của phương Tây từ lâu nay vẫn thế, đó là cần một nước Nga
đủ mạnh để khơng gây nên mhững ảnh hưởng tiêu cực nhưng lại cũng khơng
chấp nhận một nước Nga đủ mạnh như nó xứng đáng với tiềm năng con
người và vật chất của mình.
Trong những năm cuối của thế kỷ XX Liên bang Nga đã trải qua những
thử thách to lớn và phức tạp, sau hơn tám năm kể từ khi Liên bang cộng hồ
xã hội chủ nghĩa Xơ viết tan vỡ và thế giới được coi như là đã bước vào thời
kỳ "Hậu Chiến tranh lạnh"( tuy trong thời kỳ này ln có các vụ xung đột
nóng với nhiều quy mơ và cường độ khác nhau ở khắp mọi nơi), Moscow vẫn
chưa tìm lại được tiếng nói đầy sức mạnh của một cường quốc thực sự từng
có dưới thời Xã hội chủ nghĩa. Thế yếu của nước Nga đã bị bộc lộ rõ ràng khi
phương Tây, đứng đầu là Mỹ, tiến hành cuộc chiến tranh trên không chống lại
Liên bang Nam Tư - quốc gia chung gốc gác Slavơ với người Nga.


25

Cuộc chiến ở Cosovo cho thấy những tính tốn chiến lược của Mỹ sau
Chiến tranh lạnh. Vẫn như trước đây trong chiến lược của Mỹ, Balcan có vị
trí rất quan trọng. Bán đảo Balcan với tư cách là cửa ngõ đi vào Trung Cận
Đông, Địa Trung Hải, là ngã ba án ngữ đường đi vào ba châu lục Âu, Á, Phi,
nối liền với những vùng giàu tài nguyên nhất là dầu khí, những khu vực tạo
thành vịng chiến lược tồn cầu của Mỹ. NATO trở thành công cụ chủ yếu để

Mỹ thực hiện những tính tốn chiến lược mới ở khu vực này.
Đối với Nga những hành động của Mỹ ở Nam Tư nói chung, Cosovo nói
riêng, là thơng qua việc làm suy yếu, đi đến tiêu diệt chính thể Milosevic ở
Nam Tư- đồng minh duy nhất còn lại của Nga ở Châu Âu, để làm suy yếu
Nga.
Phô trương sức mạnh của mình ở Cosovo, Mỹ muốn chứng minh cho
Nga thấy rằng Nga không thể đối chọi với Mỹ trong các vấn đề quốc tế lớn
nhỏ; rằng một nước Nga yếu ớt, bất lực trong việc bảo vệ đồng minh (khi
đồng minh đó có đủ cơ sở để hy vọng vào sự bảo vệ đó) thì phải chấp nhận
vai trị lãnh đạo thế giới của Mỹ. Do vậy, cuộc chiến ở Nam tư đã đẩy quan hệ
Nga - Mỹ đến tình trạng căng thẳng nhất kể từ sau khi Liên Xơ tan rã.
Về phía Nga, thì cuộc chiến ở Cosovo đặt Nga vào tình trạng tiến thối
lưỡng nan, khi vừa không thể bỏ mặc Nam Tư, vừa không thể đối đầu với Mỹ
và NATO. Tuy nhiên qua cuộc chiến ở Nam Tư, Nga cũng rút ra những bài
học đắt giá, cần thiết trong đường lối, chính sách đối ngoại nói chung, trong
quan hệ với Mỹ nói riêng. Bài học có ý nghĩa nhất là một khi Nga chưa có sự
phát triển kinh tế vững chắc, chưa tạo lập được sự ổn định chính trị - xã hội
trong nước thì dĩ nhiên là Mỹ sẽ còn tiếp tục qua mặt Nga trong các vấn đề
quốc tế cũng như các vấn đề khu vực có liên quan đến lợi ích quốc gia của
Liên bang Nga.


×