Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

Luan van quản lý hoạt động của bảo tàng công an nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.43 MB, 169 trang )

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

********

NGUYỄN THANH HOA

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
CỦA BẢO TÀNG CÔNG AN NHÂN DÂN

Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
Mã số: 60310642

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Huệ

HÀ NỘI, 2017


0

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Thị Huệ. Những nội dung trình bày trong
luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi, đảm bảo tính trung thực và chưa từng
được ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Những chỗ sử dụng kết quả
nghiên cứu của người khác, tôi đều trích dẫn rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước nhà trường về sự cam đoan này.
Hà Nội, ngày …. tháng .. năm 2017


Tác giả luận văn

Nguyễn Thanh Hoa


1

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC ...................................................................................................... 1
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT ................................................... 3
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU............................................................... 4
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
Chƣơng 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BẢO TÀNG VÀ TỔNG
QUAN BẢO TÀNG CÔNG AN NHÂN DÂN ........................................... 14
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý bảo tàng .................................................... 14
1.1.1. Khái niệm quản lý, quản lý bảo tàng ............................................ 14
1.1.2. Mục tiêu, nguyên tắc quản lý của bảo tàng ................................... 23
1.1.3. Nội dung quản lý hoạt động của bảo tàng..................................... 27
1.2. Tổng quan Bảo tàng Công an nhân dân .......................................... 33
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển ................................................ 33
1.2.2. Nội dung trưng bày của Bảo tàng Công an nhân dân ................... 41
Tiểu kết ....................................................................................................... 44
Chƣơng 2 : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BẢO
TÀNG CÔNG AN NHÂN DÂN ................................................................... 45
2.1. Chức năng nhiệm vụ và bộ máy tổ chức nhân sự của Bảo tàng
Công an nhân dân ..................................................................................... 45
2.1.1. Chức năng và nhiệm vụ................................................................. 45
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và nhân sự ........................................................... 47
2.2. Thực trạng công tác quản lý hoạt động của Bảo tàng Công an nhân

dân ....................................................................................................................... 53
2.2.1. Quản lý các hoạt động chuyên môn .............................................. 53
2.2.2. Quản lý các nguồn lực................................................................... 78
2.2.3. Công tác thanh - kiểm tra .............................................................. 84


2

2.3. Đánh giá và nhận xét về quản lý hoạt động của Bảo tàng Công
an nhân dân ........................................................................................ 86
2.3.1. Những thành tựu đã đạt được ........................................................ 86
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân .................................................... 89
Tiểu kết ....................................................................................................... 94
Chƣơng 3 : PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA BẢO TÀNG CÔNG AN NHÂN DÂN ...... 95
3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động của Bảo tàng
Công an nhân dân ..................................................................................... 95
3.3.1. Phương hướng chung .................................................................... 95
3.1.2. Phương hướng cụ thể .................................................................... 96
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động của Bảo tàng
Công an nhân dân ..................................................................................... 97
3.2.1. Tiếp tục xây dựng và ban hành các văn bản quản lý .................... 97
3.2.2. Tăng cường công tác đào tạo nâng cao năng lực quản lý, trình độ
chuyên môn cho cán bộ bảo tàng ............................................................ 99
3.2.3. Đẩy mạnh công tác sưu tầm, kiện toàn kho và quản lý hiện vật 102
3.2.4. Cần có giải pháp để đổi mới nội dung và hình thức trưng bày bảo
tàng theo xu hướng hiện đại .................................................................. 108
3.2.5. Đa dạng hoá các hoạt động giáo dục, tuyên truyền .................... 110
3.2.6. Ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác quản lý bảo tàng .. 113
3.2.7. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho bảo tàng .......... 116

3.2.8. Xây dựng và thực hiện các hoạt động dịch vụ cho bảo tàng ...... 117
3.2.9. Tăng cường công tác thanh - kiểm tra hoạt động của bảo tàng .. 119
Tiểu kết ..................................................................................................... 121
KẾT LUẬN .................................................................................................. 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 124
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 129


3

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

ANTT

An ninh trật tự

BCA

Bộ Công an

CAND

Công an nhân dân

CNXH

Chủ nghĩa xã hội


Nxb

Nhà xuất bản



Quyết định

VHTTVDL

Văn hóa, Thể thao và Du lịch


4

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Nội dung các bảng thống kê

Stt

Trang

1

Sơ đồ 2.1: Tổ chức quản lý của Bảo tàng Công an nhân dân

2

Bảng 2.1:


Hệ thống chuyên đề phim ảnh

65

3

Bảng 2.2:

Tổng hợp số liệu khách tham quan Bảo tàng từ năm

74

2011 đến tháng 6 năm 2017

48


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, cùng với sự ra đời của
chính quyền cách mạng, lực lượng CAND cũng được hình thành. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, được sự thương yêu, đùm
bọc và giúp đỡ của nhân dân, lực lượng CAND đã vượt qua muôn vàn khó
khăn thử thách, đoàn kết, tận tụy trong công tác, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo
trong chiến đấu, góp phần đập tan mọi âm mưu, hoạt động chống phá của thế
lực thù địch, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn an ninh trật tự,
trong mọi hoàn cảnh; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và

nhân dân giao phó.
Lịch sử xây dựng và phát triển 70 năm của CAND khẳng định sự lãnh
đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng trong việc vận dụng những nguyên lý của
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc đấu tranh bảo vệ
an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng CAND với những thắng lợi vẻ vang.
Đó là niềm tự hào của toàn Đảng, toàn dân, và của các thế hệ CAND trong
cuộc đấu tranh chống phản cách mạng, các thế lực thù địch và các loại tội
phạm khác, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc. Trong sự nhiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, lực lượng CAND đã và đang phát huy truyền thống vẻ vang sát cánh
cùng các lực lượng vũ trang khác nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác,
bảo vệ vững chắc an ninh, trật tự vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Bảo tàng CAND là bảo tàng chuyên ngành trong hệ thống bảo tàng cả
nước, là bảo tàng đầu ngành trong lực lượng CAND. Trong hệ thống tổ chức
của CAND, Bảo tàng CAND thuộc Viện Lịch sử Công an chịu sự chỉ đạo trực


6

tiếp của lãnh đạo Viện Lịch sử Công an và sự hướng dẫn chuyên môn nghiệp
vụ của Bộ VHTTVDL. Ra đời từ năm 1967, 50 năm qua Bảo tàng CAND đã
nỗ lực trên các lĩnh vực công tác, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ,
phát huy và giới thiệu di sản văn hóa CAND đến với công chúng, đồng thời là
trung tâm giáo dục lịch sử truyền thống, chính trị tư tưởng cho các thế hệ cán
bộ chiến sĩ CAND, nêu cao lòng tự hào, kế thừa phát huy truyền thống vẻ
vang trong sự nghiệp cách mạng của Đảng của dân tộc; góp phần quan trọng
trong việc xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại.
Hiện nay, tại Bảo tàng CAND (Số 1, phố Trần Bình Trọng, quận Hoàn

Kiếm, Hà Nội) đang lưu giữ bảo quản và trưng bày khoảng hai vạn tài liệu hiện
vật phản ánh quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành với những chiến công
đặc biệt tiêu biểu xuất sắc, mưu trí sáng tạo của lực lượng CAND dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; đồng thời nêu bật vai trò to lớn của
quần chúng nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự.
Trong nhiều năm qua Bảo tàng CAND đã tập trung nhiều vào công tác
nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, trưng bày - triển lãm giới thiệu hiện vật phản ảnh
truyền thống lịch sử và những thành tựu của CAND, nên đã đạt được nhiều
thành tựu đáng khích lệ. Riêng trong công tác quản lý của Bảo tàng CAND còn
tồn tại những hạn chế nhất định bởi nguyên nhân khách quan và chủ quan khác
nhau. Để giải quyết và khắc phục những hạn chế đó, đòi hỏi cần phải có những
giải pháp thích hợp nhằm đưa hoạt động Bảo tàng CAND đáp ứng chức năng xã
hội và nhiệm vụ của ngành Công an giao phó trong tình hình mới.
Với những lý do trên đây, tôi chọn đề tài “Quản lý hoạt động của Bảo
tàng Công an nhân dân” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Quản
lý văn hóa.


7

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bước đầu tác giả đã tiếp cận được một số tài liệu, sách và các bài viết
của các nhà nghiên cứu đi trước có nội dung thông tin liên quan và bổ ích cần
thiết cho đề tài luận văn như sau:
2.1. Các cuốn sách, kỷ yếu, công trình nghiên cứu
Cuốn sách Những văn bản của Nhà nước về ANTT (1945 - 1954) Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1997. Ấn phẩm bao gồm các Sắc lệnh của Chủ
tịch nước, các Nghị định, Thông tư của Thủ tướng Chính phủ, các văn bản của
các Bộ và Liên Bộ liên quan mật thiết đến công tác bảo vệ ANTT được ban hành
từ năm 1945 đến năm 1954.

Cuốn sách Những kỷ vật lịch sử Công an nhân dân, Nxb CAND, Hà
Nội, năm 2013. Ấn phẩm giới thiệu một số hiện vật đang lưu giữ, trưng bày
tại Bảo tàng CAND, đó là những di vật lịch sử quý báu tạo nên giá trị bản sắc
CAND và văn hóa Việt Nam góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị văn
hóa vô giá của CAND.
Cuốn sách 70 Hội nghị Công an toàn quốc, Nxb CAND, Hà Nội, năm
2015. Ấn phẩm gồm những văn kiện, tư liệu, hình ảnh quý báu về 70 Hội
nghị Công an toàn quốc, đó là những trang sử vẻ vang phản ảnh quá trình xây
dựng và phát triển của lực lượng CAND.
Cuốn sách Một số hình ảnh về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của đồng
chí Trần Quốc Hoàn do Tổng cục Chính trị CAND, Viện Lịch sử Công an
phối hợp với Nxb CAND xuất bản năm 2015. Ấn phẩm gồm 240 hình ảnh
tiêu biểu khắc họa toàn diện về chân dung của đồng chí Trần Quốc Hoàn
trong cuộc đời hoạt động cách mạng và những cống hiến đóng góp to lớn của
đồng chí vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và ngành Công an.


8

Cuốn sách 50 năm công tác khoa học lịch sử Công an nhân dân (19652013), Nxb CAND, Hà Nội, năm 2015. Ấn phẩm đã nêu lên những đóng góp
quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học lịch sử CAND, qua đó góp phần
tri ân, tôn vinh những đóp góp của thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong công tác
nghiên cứu lịch sử và Bảo tàng CAND trong suốt 50 năm qua.
Cuốn sách Kỷ vật lịch sử Công an nhân dântập 1,2,3, Nxb CAND, Hà
Nội, năm 2015. Nội dung của cuốn sách này nhằm giới thiệu một số hiện vật
sưu tầm được trong Cuộc vận động Sưu tầm và Tuyên truyền kỷ vật lịch sử
CAND của các tổ chức cá nhân trong lực lượng CAND.
Cuốn sách Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ tập
1,2. Nxb CAND, Hà Nội. Ấn phẩm là những bài viết kể lại những cống hiến,
hy sinh của lớp lớp cán bộ chiến sĩ CAND qua các thời kỳ.

Cuốn sách Những lá thư thời chiến Công an nhân dân, Nxb CAND,
Hà Nội, năm 2017. Ấn phẩm là nguồn tư liệu lịch sử quý giá, góp phần khẳng
định truyền thống anh hùng vẻ vang của lực lượng CAND.
Cuốn kỷ yếu Bảo tàng Công an nhân dân 50 xây dựng và phát triển (1967
- 2017), Nxb CAND, Hà Nội, năm 2017. Ấn phẩm giới thiệu những bài viết,
hình ảnh tư liệu quý về quá trình xây dựng, phát triển của Bảo tàng CAND.
Cuốn sách Kỷ vật lịch sử của các liệt sĩ, thương binh Công an nhân
dân, Nxb CAND, Hà Nội, năm 2017. Ấn phẩm nhằm tuyên truyền giới thiệu
đến các tầng lớp nhân dân và bạn bè quốc tế về truyền thống lịch sử và những
chiến công vẻ vang và sự hi sinh thầm lặng trong các thế hệ cán bộ, chiến sĩ
CAND trong sự nghiệp bảo vệ ANTT thông qua các hiện vật, kỷ vật lữu giữ
và trưng bày tại Bảo tàng CAND.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của Bảo tàng CAND: “Giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác kiểm kê, lưu trữ thông tin về hiện vật phim ảnh


9

trên máy vi tính tại Bảo tàng Công an nhân dân”, năm 2013 của tác giả Lại
Quý Trung, cán bộ Bảo tàng CAND kết quả của đề tài đi sâu đánh giá thực
trạng công tác kiểm kê đối với hiện vật phim ảnh của Bảo tàng CAND. Từ đó
đề xuất giải pháp để giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong công tác kiểm
kê đối với hiện vật phim ảnh của Bảo tàng CAND hiện nay.
2.2. Luận văn và các bài viết nghiên cứu
Trong thời gian qua, đã có một số luận văn của các học viên đề cập đến
các hiện vật, sưu tập hiện vật bảo tàng trong Bảo tàng CAND làm đối tượng
nghiên cứu của đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành văn hóa học, quản lý văn
hóa… đó là:
Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học “Hiện vật Bảo tàng Công an nhân dân với
việc giáo dục 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân”, năm 2007 của học viên

Trần Quang Đạo, Khoa sau Đại học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, trên cơ
sở phân tích “6 điều Bác Hồ dạy CAND” tác giả đã đưa ra một số hiện vật tiêu
biểu thể hiện sự thấm nhuần và học tập những lời huấn thị của Người và đã trở
thành những hành động cụ thể, thiết thực cùng những thành tựu đã đạt được
trong lĩnh vực công tác, học tập và rèn luyện tư tưởng đạo đức, tác phong… của
lực lượng CAND.
Luận văn Thạc sĩ Quản lý “Quản lý các tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Công
an nhân dân”, năm 2011 của học viên Nguyễn Minh Đức, Khoa sau Đại học,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, từ việc tập trung đánh giá thực trạng quản lý
các tài liệu hiện vật ở Bảo tàng CAND, tác giả đã đưa ra một số giải pháp kiến
nghị nhằm tăng cường công tác quản lý các tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng CAND.
Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học“Giá trị lịch sử, văn hóa của sưu tập
trang phục Công an nhân dân tại Bảo tàng Công an nhân dân”, năm 2011
của học viên Trần Thị Quý, Khoa sau Đại học, Trường Đại học Văn hóa Hà
Nội, tác giả tập trung nghiên cứu giá trị lịch sử, văn hóa hàm chứa trong sưu


10

tập hiện vật “Trang phục CAND” và khẳng định vai trò của sưu tập này đối
với các hoạt động của Bảo tàng CAND và những vấn đề đặt ra hiện nay.
Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học “Bảo tàng Công an nhân dân với việc
giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh”, năm 2012 của học viên Nguyễn Thị Bảo
Hiền, Khoa sau Đại học, Trường Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, từ việc tập trung đánh giá thực trạng công tác giáo dục đạo đức
Hồ Chí Minh của Bảo tàng CAND, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nâng
cao hiệu quả giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh tại Bảo tàng CAND.
Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học “Sưu tập hiện vật Bác Hồ với Công an”
tại Bảo tàng Công an nhân dân, năm 2015 của học viên Đặng Xuân Tuyên,
Khoa sau Đại học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, tác giả tập trung nghiên

cứu giá trị lịch sử, văn hóa hàm chứa trong sưu tập hiện vật “Bác Hồ với
Công an” và khẳng định vai trò của sưu tập này đối với các hoạt động của
Bảo tàng CAND và những vấn đề đặt ra hiện nay.
Trên đây là hệ thống những tài liệu, bài viết, công trình nghiên cứu,
luận văn có đề cập đến lực lượng Công an và hoạt động của Bảo tàng CAND
trong thời gian qua, nhưng có thể nhận thấy cho đến nay chưa có một công
trình nghiên cứu cụ thể về vấn đề quản lý hoạt động của Bảo tàng CAND. Vì
vậy đề tài luận văn này sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu về quản lý hoạt
động của Bảo tàng CAND. Trong quá trình triển khai đề tài tác giả luận văn
có thể sẽ tiếp thu có chọn lọc và vận dụng một số khía cạnh vào nội dung của
công trình nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Thông qua việc khảo sát phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản
lý hoạt động của Bảo tàng CAND từ năm 2011 đến nay, rút ra những ưu


11

điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân từ đó đề xuất một số giải pháp cụ thể,
góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý của Bảo tàng CAND trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu sưu tầm, thu thập tài liệu, sách, báo, các công trình nghiên
cứu, các bài viết có nội dung liên quan về bảo tàng, quản lý bảo tàng và hoạt
động của Bảo tàng CAND.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng các hoạt động và công tác
quản lý hoạt động của Bảo tàng CAND từ năm 2011 đến nay bao gồm nghiên
cứu công tác quản lý các hoạt động chuyên môn, quản lý các nguồn lực, quản
lý cán bộ, viên chức, quản lý tài chính, quản lý cơ sở vật chất - kỹ thuật, công

tác thanh tra - kiểm tra... Từ đó rút ra những mặt ưu điểm và hạn chế trong
công tác quản lý của Bảo tàng CAND.
- Tiếp cận với Ban Giám đốc, cán bộ quản lý các bộ phận trong Bảo
tàng CAND nhằm thu thập thông tin, số liệu trong công tác quản lý của Bảo
tàng CAND.
- Nghiên cứu phương hướng và đề xuất một số giải pháp có tính khả thi
nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý Bảo tàng CAND trong giai đoạn
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quản lý hoạt động của Bảo tàng CAND.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu công tác quản lý hoạt động của Bảo tàng CAND từ năm
2011 đến nay (ngày 30/12/2011, Bảo tàng CAND được Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch xếp hạng I theo Quyết định số 4326/QĐ-BVHTTVDL).


12

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lê Nin, các quan điểm đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước về văn hóa, về di sản văn hóa, quản lý di sản văn hóa và quản lý
bảo tàng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp sau đây
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Quản lý văn hóa, Lịch sử, Bảo
tàng học, Xã hội học.
- Phương pháp thống kê - phân loại; tổng hợp - phân tích; quan sát và

miêu tả hoạt động của Bảo tàng CAND.
- Phương pháp khảo sát thực tế hoạt động quản lý của Bảo tàng
CAND.
- Phương pháp phỏng vấn sâu các đối tượng như: nhà quản lý, cán bộ,
khách tham quan... tại Bảo tàng CAND.
6. Đóng góp của luận văn
- Là công trình nghiên cứu đầu tiên về thực trạng công tác quản lý của
Bảo tàng CAND từ năm 2011 đến nay.
- Phân tích những ưu điểm, hạn chế và chỉ rõ nguyên nhân tồn tại trong
quản lý hoạt động của Bảo tàng, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng của công tác quản lý hoạt động của Bảo tàng CAND.
- Luận văn sử dụng làm tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà quản lý
bảo tàng nói chung và Bảo tàng CAND nói riêng; đồng thời, là tài liệu tham


13

khảo cho cán bộ, chiến sĩ, nhân viên đang làm việc tại Bảo tàng CAND và
sinh viên muốn tìm hiểu về Bảo tàng CAND.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo phụ lục, luận văn có bố cục 3
chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý bảo tàng và tổng quan Bảo
tàng Công an nhân dân
Chƣơng 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động của Bảo tàng
Công an nhân dân
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
hoạt động của Bảo tàng Công an nhân dân



14

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BẢO TÀNG
VÀ TỔNG QUAN BẢO TÀNG CÔNG AN NHÂN DÂN
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý bảo tàng
1.1.1. Khái niệm quản lý, quản lý bảo tàng
1.1.1.1. Khái niệm quản lý
Nguồn gốc phát triển loài người là lao động của cá nhân và lao động
chung. C Mác khẳng định:
Tất cả mọi lao động xã hội hay lao động chung nào tiến hành trên quy
mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa
những hoạt động cá nhân và thực hiện chức năng chung phát sinh từ
sự vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất… Một người độc tấu vĩ cầm
tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc
trưởng [47, tr.480].
Lao động chung cần có tổ chức và thống nhất nhằm tạo ra sức mạnh để
đạt được mục đích chung. Trong lịch sử phát triển loài người xuất hiện một
dạng lao động mang tính đặc thù là tổ chức - điều khiển con người với các hoạt
động theo những yêu cầu nhất định, dạng lao động đó được gọi là quản lý.
Quản lý là một chức năng lao động bắt nguồn từ tính chất lao động của
xã hội. Từ khi con người bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện những
mục tiêu mà họ không thể đạt được với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, thì
nhu cầu quản lý cũng hình thành như một yếu tố cần thiết để phối hợp những
nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung. Xã hội phát triển qua các
phương thức sản xuất từ cộng sản nguyên thủy đến nền văn minh hiện đại,
trong đó quản lý luôn là một thuộc tính lịch sử tất yếu khách quan gắn liền với
xã hội ở mọi giai đoạn phát triển của nó. Thuộc tính đó bắt nguồn từ bản chất



15

của hệ thống xã hội đó là lao động tập thể - lao động xã hội của con người.
Trong quá trình lao động, con người buộc phải liên kết với nhau, kết hợp lại thành
tập thể, điều đó đòi hỏi phải có sự tổ chức, phân công và hợp tác trong lao động,
đó là quản lý.
Như vậy, quản lý là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng
đồng, dựa trên sự phân công và hợp tác trong lao động nhằm đạt được mục tiêu
chung đề ra.
Mặc dù quản lý là thuộc tính tất yếu gắn liền với xã hội, nhưng chỉ khi
xã hội phát triển đến một trình độ nhất định thì quản lý mới được tách ra
thành một chức năng riêng của lao động xã hội. Xã hội càng phát triển về
trình độ, về quy mô sản xuất, về văn hóa, khoa học, kỹ thuật và công nghệ,
thì trình độ quản lý, tổ chức, điều hành và công nghệ quản lý cũng được
nâng lên và phát triển không ngừng.
Quản lý là khái niệm rất rộng, bao gồm nhiều dạng, nhưng có thể gộp
thành 3 dạng chính, đó là: Quản lý các quá trình của thế giới vô sinh (nhà
xưởng, ruộng đất, tài nguyên, hầm mỏ, máy móc, nguyên vật liệu…); quản lý
các quá trình diễn ra trong cơ thể sống (cây trồng, vật nuôi) và quản lý các
quá trình diễn ra trong xã hội loài người. Ở đây, chúng ta nghiên cứu dạng
quản lý thứ 3, đó là quản lý xã hội. Quản lý xã hội là dạng quản lý phức tạp
nhất, bao gồm nhiều lĩnh vực như: quản lý nhà nước, quản lý hành chính
công, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý ngành.
Quản lý nói chung theo nghĩa tiếng Anh là “Administration” vừa có nghĩa
là quản lý (hành chính, chính quyền), vừa có nghĩa là quản trị (kinh doanh).
Ngoài ra, trong tiếng Anh còn một thuật ngữ khác là “Management” vừa có
nghĩa là quản lý, vừa có nghĩa quản trị, nhưng hiện nay được dùng chủ yếu với
nghĩa quản trị. Trong thực tế, thuật ngữ “quản lý” và “quản trị” vẫn được dùng



16

trong những hoàn cảnh khác nhau để nói lên những nội dung khác nhau, nhưng
về cơ bản hai từ này đều có bản chất giống nhau. Khi dùng quen, thì thuật ngữ
“quản lý” thường gắn liền với quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quản lý ở khu
vực công cộng, tức là quản lý ở tầm vĩ mô, còn thuật ngữ “quản trị” được dùng ở
phạm vi nhỏ hơn đối với một tổ chức, một doanh nghiệp kinh tế. Còn theo từ
Hán Việt thì: “quản” là sự coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái ổn định, “lý” là
sửa sang, sắp xếp, đổi mới để đưa tổ chức vào thế phát triển.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý:
Mary Parker Follet - chuyên gia về lý thuyết quản lý (Hòa Kỳ) cho
rằng: “Quản lý là nghệ thuật khiến cho công việc được thực hiện thông qua
người khác”. Giáo sư Harolk Kootz Chủ tịch danh dự Viện hàn lâm Quản lý
quốc tế Hoa Kỳ cho rằng: “Quản lý là việc thiết lập và duy trì môi trường nơi
mà cá nhân làm việc với nhau trong từng nhóm có thể hoạt động hữu hiệu và
có kết quả, nhằm đạt được các mục tiêu của nhóm” [38, tr.38].
Một số quan niệm của chuyên gia trong nước như Nguyễn Minh Đạo
cho rằng: “Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu đã đề
ra” [33, tr.9].
Lê Thị Anh Vân: “Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một
cách có kết quả và hiệu quả thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh
đạo và kiểm tra các nguồn lực của tổ chức” [56, tr.16].
Một khái niệm quản lý được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận và bản
thân tác giả cho rằng đây là khái niệm phản ánh tương đối rõ và đầy đủ:
“Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể (người quản lý,
tổ chức quản lý) lên khách thể quản lý (đối tượng quản lý) bằng một hệ thống
luật pháp, chính sách, nguyên tắc, các phương pháp nhằm tạo ra môi trường,
điều kiện cho sự phát triển đối tượng đạt mục tiêu đã đề ra” [50, tr.14].



17

Thông qua việc nghiên cứu một số khái niệm về quản lý trên đây cho thấy:
Quản lý là hoạt động khách quan, nảy sinh khi cần có hoạt động tập
thể, nhằm thực hiện mục tiêu chung, quản lý có ở mọi tổ chức từ lớn đến nhỏ,
từ đơn giản đến phức tạp, trình độ xã hội càng cao đòi hỏi vai trò quản lý ở
tầm vĩ mô. Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác
định. Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận, đó là chủ thể quản lý và
đối tượng quản lý. Quản lý là sự tác động bằng hệ thống luật lệ, chính sách,
nguyên tắc nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Quản lý xét về mặt công nghệ còn
là sự vận động của thông tin.
Khi xem xét về mặt bản chất thì quản lý là sự kết hợp nỗ lực chung của
con người trong tổ chức và việc sử dụng tất cả của cải vật chất thuộc phạm vi
sở hữu của tổ chức để đạt mục tiêu với hiệu quả cao nhất.
Như vậy, quản lý là một khoa học có vai trò quan trọng trong đời sống
và sự phát triển của xã hội. Nó là một hoạt động phổ biến trong mọi lĩnh vực,
mọi ngành nghề của xã hội, nó có mục đích rõ ràng và hướng đích cụ thể,
quản lý muốn đạt được hiệu quả cao thì phải có những phương pháp và cách
thức quản lý thích hợp.
1.1.1.2. Khái niệm bảo tàng
Trên thế giới, bảo tàng đã ra đời, tồn tại và phát triển cùng với xã hội
con người cho đến nay đã trải qua các thời kì lịch sử khác khau, đó là thời kì
cổ đại, thời kì trung cổ, thời kì phục hưng, thế kỷ XVIII - XIX và thế kỷ XX
đầu thế kỷ XXI.
Nhìn theo chiều dài lịch sử trên đây có thể nhận thấy ngay từ thời kỳ cổ
trung đại, con người đã có ý thức biết sưu tầm thu thập và lưu giữ những tác
phẩm nghệ thuật, những di vật quý, những hiện vật có giá trị thẩm mỹ, có giá
trị lịch sử, văn hoá và cả các sưu tập mẫu vật có giá trị khoa học được lưu giữ
trong các “kho báu” hay trong các “phòng hiếu kỳ” (Kunscamera) để dần dần



18

hình thành các bảo tàng ở thế kỷ sau nhằm trưng bày giới thiệu các giá trị đó
cho muôn đời sau.
Nhưng trên thực tế, bảo tàng với nghĩa hiện đại đã phát triển ở Châu Âu
vào thế kỷ XVIII. Thuật ngữ bảo tàng “museum” được sử dụng lần đầu tiên ở
nước Anh, khi bảo tàng Ashmolean được khánh thành và mở cửa đón công
chúng. Từ đó đến nay trên thế giới bảo tàng đã ngày càng phát triển không
ngừng về số lượng và chất lượng với nhiều loại hình đa dạng, phong phú và
kiểu, loại bảo tàng khác nhau với một con số không nhỏ đó là 65.000 bảo tàng.
Như vậy, có thể khẳng định bảo tàng là một hiện tượng của xã hội, ra
đời, tồn tại và phát triển do nhu cầu của xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu
thực tiễn của con người trong xã hội trong những thời kì lịch sử khác nhau và
phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội.
Còn ở Việt Nam, hệ thống các bảo tàng được hình thành và phát triển
trải qua các giai đoạn lịch sử sau đây:
- Sự hình thành một số bảo tàng (do người Pháp xây dựng) trước Cách
mạng Tháng tám năm 1945.
- Bảo tàng Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám từ 1945 đến 1954.
- Bảo tàng Việt Nam thời kì 1954 - 1975.
- Bảo tàng Việt Nam từ 1975 đến nay.
Sự nghiệp bảo tàng Việt Nam trải qua gần một thế kỷ đã không ngừng
phát triển về số lượng, đến nay có 158 bảo tàng, trong đó có bảo tàng công lập
là 125, bảo tàng ngoài công lập (Bảo tàng tư nhân) là 33 [35, tr.5]. Hệ thống
Bảo tàng Việt Nam khá phong phú về loại hình, đa dạng về thể loại bao gồm
các bảo tàng loại hình lịch sử xã hội, loại hình khoa khọc tự nhiên, loại hình
nghệ thuật lưu niệm, v.v… Trong quá trình hoạt động, hệ thống bảo tàng Việt
Nam đã và đang góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo tồn di sản văn hoá



19

dân tộc và xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Như vậy, qua các số liệu bảo tàng trên thế giới và Việt Nam cho thấy,
ngày nay vai trò, vị trí của bảo tàng ngày càng phát triển không ngừng trong
xã hội nói chung và trong các cơ quan văn hoá - khoa học - giáo dục nói
riêng, đồng thời bảo tàng có ảnh hưởng lớn đến công tác giáo dục và nâng cao
dân trí trong xã hội.
Vì vậy, vấn đề nghiên cứu làm rõ khái niệm bảo tàng, nội dung, bản
chất cùng phạm vi hoạt động của bảo tàng là một vấn đề quan trọng trong lý
luận bảo tàng học. Tham gia bàn luận và giải thích bảo tàng có nhiều nhà
khoa học bảo tàng, nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau ở Anh, Pháp,
Mỹ, Đức, Nga, Hà Lan, Nhật Bản, Trung Quốc v.v… do đó có nhiều khái
niệm về bảo tàng.
Trong luận văn này, tác giả trình bày một số khái niệm về bảo tàng có
nội dung phản ánh khá đầy đủ về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, đặc trưng, chức
năng và bản chất của bảo tàng.
Với cách tiếp cận mới về bảo tàng học giới bảo tàng học của Cộng hòa
Liên Bang Nga đưa ra khái niệm như sau:
Bảo tàng là một thiết chế đa chức năng được hình thành một cách
lịch sử của ký ức xã hội, nhờ đó thực hiện được nhu cầu của xã hội
về tuyển chọn, bảo quản và miêu tả nhóm đặc biệt các đối tượng
văn hóa và tự nhiên, được xã hội công nhận là một giá trị được kế
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác [41, tr.14].
Khái niệm mới nhất, gần đây nhất của ICOM (Hiệp hội Bảo tàng quốc
tế) được thông qua tại kỳ họp thứ 20 tại Seoul (Hàn Quốc) tháng 10/2004
được trích dẫn trong cuốn Giáo trình cơ sở Bảo tàng học năm 2005 của

trường Đại học Văn hóa Hà Nội như sau:


20

Bảo tàng là một thiết chế văn hóa phi lợi nhuận, hoạt động thường
xuyên, mở cửa đón công chúng đến xem, phục vụ cho xã hội và
sự phát triển của xã hội. Bảo tàng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu,
thông tin và trưng bày các bằng chứng vật thể và phi vật thể về
con người và môi trường của con người vì mục đích nghiên cứu,
giáo dục và thưởng thức [41, tr.110].
Khái niệm trên đây của ICOM là một khái niệm chuẩn đã phản ánh
được đối tượng hoạt động của bảo tàng bao gồm cả di sản văn hoá vật thể và
di sản văn hoá phi vật thể về con người và môi trường xung quanh, đồng thời
có bổ sung mới vể chức năng cho bảo tàng đó là phục vụ công chúng, phục vụ
cho xã hội và sự phát triển của xã hội, không lấy lợi nhuận làm mục đích, từ
đó bảo tàng phải thực hiện được chức năng nghiên cứu, giáo dục và thưởng
thức của công chúng.
Tiếp thu nội dung khoa học của khái niệm bảo tàng của ICOM và
nhiều nước khác trên thế giới, đồng thời bằng kết quả, kinh nghiệm thực
tiễn hoạt động của sự nghiệp bảo tàng Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua,
các nhà bảo tàng học Việt Nam đã đưa ra khái niệm về bảo tàng và lần đầu
tiên được ghi chính thức trong Luật Di sản Văn hóa đã được Quốc hội khóa
X, kì họp thứ IX thông qua năm 2001, và ngày 18/ 6/2009, Quốc hội khoá
XII, kì họp thứ 5 đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa
ghi rõ:
Bảo tàng là thiết chế văn hóa có chức năng sưu tầm, bảo quản,
nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu di sản văn hóa, bằng chứng vật
chất về thiên nhiên, con người và môi trường sống của con người,
nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, tham quan và hưởng

thụ văn hóa của công chúng [46, tr.66-67].


21

Nội dung của khái niệm này ngắn gọn đã phản ánh đầy đủ các hoạt
động, đối tượng, chức năng và nhiệm vụ của bảo tàng Việt Nam trong thời
kì hội nhập và phát triển.
Mặc dù có nhiều khái niệm về bảo tàng, nhưng qua nghiên cứu tham
khảo nhiều tài liệu nghiệp vụ bảo tàng, các nhà bảo tàng học đều khẳng định
một số vấn đề cơ bản sau đây:
- Bảo tàng là một thiết chế văn hoá đặc thù, một cơ quan khoa học và
giáo dục.
- Đối tượng nghiên cứu, trưng bày của bảo tàng là những di sản văn hoá
vật thể và phi vật thể cùng môi trường xung quanh con người.
- Mục đích của bảo tàng là phục vụ công chúng.
- Các hoạt động của bảo tàng là nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, trưng
bày và giới thiệu các sưu tập về lịch sử xã hội, tự nhiên cho công chúng.
- Bảo tàng có nhiệm vụ tổ chức hoạt động dịch vụ phục vụ khách tham
quan phù hợp với chức năng, nhiệm vụ bảo tàng.
Như vậy, bảo tàng là một thiết chế vĩnh cửu, nó có lịch sử hình thành và
tồn tại cùng với nhu cầu gìn giữ những di sản văn hóa, khi còn nhu cầu tìm hiểu
lịch sử, kinh nghiệm của quá khứ, tiếp thu những giá trị của di sản văn hóa và
nhu cầu giáo dục truyền thống thì bảo tàng còn tồn tại và phát triển.
1.1.1.3. Khái niệm quản lý bảo tàng
Quản lý bảo tàng là một vấn đề rất quan trọng trong sự nghiệp bảo tàng.
Quản lý bảo tàng có trình độ tốt, xấu sẽ quyết định đến tương lai phát triển
của bảo tàng. Thực tế đã chứng mình, một bảo tàng tuy có ưu việt về cán bộ,
hiện vật, kiến trúc, thiết bị và kinh phí… nhưng nếu trình độ quản lý thấp thì
sẽ rất khó có những cống hiến xứng đáng, khiến cho sự nghiệp bảo tàng có



22

được sự phát triển cần có. Vì thế, quản lý một cách khoa học có hiệu quả là
điểm then chốt của sự phát triển của sự nghiệp bảo tàng.
Đối với những nhiệm vụ quản lý cụ thể của bảo tàng, căn cứ vào tính
chất, nhiệm vụ, hiện trạng và tương lai phát triển của một bảo tàng, định ra
phương hướng công tác cụ thể và kế hoạch phát triển sự nghiệp, sắp xếp cơ
cấu tổ chức phân công hợp lý và quản lý hiệu quả, lựa chọn, bổ nhiệm (hoặc
tuyển chọn) cán bộ quản lý các cấp và cán bộ chuyên môn phù hợp nhất, xây
dựng nội dung quy chế độ cần thiết; thông qua kế hoạch, trong quá trình thực
hiện phải kiểm tra, tổng kết rút kinh nghiệm nhằm thúc đẩy các tổ chức hoạt
động có hiệu quả và đảm bảo chất lượng để thỏa mãn yêu cầu của công chúng
ở mức độ cao nhất.
Từ lý luận của khoa học quản lý và chức năng của bảo tàng, hiện nay
có thể hiểu quản lý bảo tàng như sau:
Theo nghĩa rộng: “Quản lý bảo tàng là sự tác động bằng thể chế và tổ
chức nhằm bảo vệ, bảo quản di sản văn hoá vật thể, các bộ sưu tập của các
sở hữu khác nhau và phát huy di sản ấy phục vụ giáo dưỡng và nghiên cứu
của công chúng” [50, tr.38].
Theo nghĩa hẹp: “Quản lý bảo tàng là sự tác động tới sự chăm sóc bảo
quản hiện vật bảo tàng sử dụng chúng trong việc giáo dục khoa học và phục
vụ nghiên cứu” [50, tr.38].
Từ các khái niệm trên về quản lý bảo tàng, dù theo nghĩa rộng hay nghĩa
hẹp thì mục đích cuối cùng cũng nhằm bảo tồn và phát huy một cách tốt nhất
các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được gìn giữ và trưng bày trong bảo
tàng. Bởi đó chính là cơ sở vật chất để bảo tàng thực hiện các hoạt động
chuyên môn của mình. Như vậy, có thể nói quản lý hoạt động bảo tàng là một
hoạt động cần thiết, là vấn đề quan trọng trong sự nghiệp bảo tàng. Nó như một



23

trung tâm đầu não có nhiệm vụ nghiên cứu phân tích, định hướng cho mọi hoạt
động của bảo tàng. Hơn nữa, thông qua việc nghiên cứu khái niệm trên đây có
thể khẳng định quản lý bảo tàng là một yếu tố sống còn trong quá trình phát
triển và tiến bộ của bảo tàng. Nếu không có cơ chế quản lý thích hợp, các bảo
tàng không thể có được sự chăm sóc và sử dụng hợp lý các sưu tập hiện vật bảo
tàng, bảo tàng cũng không thể duy trì và khuyến khích được các phần trưng
bày và một chương trình giáo dục có hiệu quả. Nếu không có sự quản lý thích
hợp, bảo tàng có thể dễ dàng đánh mất mối quan tâm và niềm tin của công
chúng và có thể gây nguy hại đến sự tồn tại của mình [37, tr.43 - 44].
1.1.2. Mục tiêu, nguyên tắc quản lý của bảo tàng
1.1.2.1.Mục tiêu quản lý bảo tàng
Mục tiêu là đích phải đạt tới của quá trình quản lý, nó định hướng và
chi phối sự vận động của toàn bộ hệ thống quản lý.
Xác định mục tiêu đúng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt
động quản lý, nếu xác định mục tiêu sai, dù có đạt được mục tiêu thì toàn bộ
hệ thống cũng không thể phát triển được. Mỗi bảo tàng cần phải xác định mục
tiêu quản lý của mình để đề ra quy hoạch phát triển. Mục tiêu quản lý của bảo
tàng gồm có:
 Mục tiêu cơ bản: Tôn chỉ của bảo tàng là phục vụ xã hội và phát triển
xã hội. Sưu tầm, bảo quản nghiên cứu những vật chứng có liên quan đến loài
người và môi trường xung quanh, đồng thời trưng bày chúng để phục vụ công
chúng xã hội, phục vụ cho học tập, giảng dạy, nghiên cứu thưởng thức và
nghỉ ngơi, đây là chức trách cơ bản của bảo tàng.
Căn cứ vào tôn chỉ và chức trách cơ bản trên, một bảo tàng trước hết phải
xác định tính chất, phương châm, nhiệm vụ, biên chế nhân viên cơ cấu tổ chức
và nguồn kinh phí để đặt ra chương trình làm việc cho mình. Việc lập ra chương



×