1
Bộ giáo dục v đo tạo
Bộ văn hoá, thể thao v du lịch
Trờng Đại học Văn hoá H Nội
-------------------------
TRN TH QUÝ
GIÁ TRỊ LỊCH SỬ- VĂN HÓA CỦA BỘ SƯU
TẬP TRANG PHỤC CÔNG AN NHÂN DÂN
TẠI BẢO TÀNG CÔNG AN NHÂN DN
Chuyên ngành: VĂN HóA HọC
M số: 60 31 70
LUậN VĂN THạC Sĩ VĂN HOá HọC
Ngời hớng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYN THỊ HUỆ
Hμ NéI - 2010
2
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy, Cơ giáo khoa Sau đại học trường
Đại học Văn hóa Hà Nội đã đào tạo tôi trong những năm qua.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn những gợi mở khoa học và sự
hướng dẫn tận tình của PGS.TS. Nguyễn Thị Huệ đã giúp tơi hồn thành luận
văn Thạc sỹ văn hóa học với đề tài “Giá trị lịch sử, văn hóa của sưu tập
trang phục Cơng an nhân dân tại Bảo tàng Công an nhân dân”.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các Phòng, Ban trong đơn vị, các
nhà nghiên cứu và các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ tơi hồn thành luận văn này.
Luận văn là kết quả của quá trình nghiên cứu, sưu tầm tài liệu hiện vật,
tuy nhiên thông tin từ các nguồn tư liệu cịn rải rác, các tài liệu có liên quan
rất hạn chế, vì vậy đây mới chỉ là kết quả bước đầu trong quá trình nghiên cứu
về sự ra đời và phát triển của trang phục CAND thông qua sưu tập trang phục
CAND hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng CAND, tác giả mong nhận được
sự hồi âm góp ý kiến của các các nhà nghiên cứu và các nhân chứng lịch sử,
đồng thời mong nhận được sự đóng góp hiện vật để sưu tập trang phục CAND
tại Bảo tàng CAND ngày càng phong phú và hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2011
Tác giả luận văn
Trần Thị Quý
3
MỤC LỤC
Trang
Mục lục……………………………………………………………………..
2
Danh mục các chữ viết tắt và ký hiệu………………………………………
4
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………...
5
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SƯU TẬP TRANG PHỤC CÔNG AN NHÂN
10
DÂN TẠI BẢO TÀNG CÔNG AN NHÂN DÂN
1.1.Một số khái niệm có liên quan..………………………………………
10
1.1.1. Khái niệm trang phục………………………………………….................
10
1.1.2. Khái niệm trang phục Công an nhân dân..……………………….............
13
1.1.3. Khái niệm sưu tập và giá trị sưu tập hiện vật bảo tàng…………………
15
1.2. Khái quát chung về Bảo tàng Công an nhân dân ………………….
17
1.2.1. Khái quát lịch sử truyền thống Công an nhân dân …………………………
17
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển Bảo tàng Cơng an nhân dân..…………..
22
1.2.3. Tình hình sưu tầm và thu thập sưu tập trang phục CAND tại Bảo tàng CAND
28
1.3. Tổng quan về sưu tập trang phục Công an nhân dân …………….
31
1.3.1. Thống kê số lượng hiện vật trong sưu tập………………………………
31
1.3.2. Phân loại sưu tập………………………………………………………...
34
Chương 2: GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA SƯU TẬP TRANG PHỤC CÔNG AN
40
NHÂN DÂN TẠI BẢO TÀNG CÔNG AN NHÂN DÂN
2.1. Giá trị lịch sử của sưu tập trang phục Công an nhân dân…………
40
2.1.1. Một nguồn sử liệu quan trọng phản ánh lịch sử dân tộc…………………
40
2.1.2. Góp phần nghiên cứu lịch sử truyền thống Cơng an nhân dân…………..
56
2. 2. Giá trị văn hố của sưu tập trang phục Công an nhân dân.……………….
61
2.2.1. Thể hiện quan niệm thẩm mỹ, trí tuệ và tài năng sáng tạo….……………
61
4
2.2.2. Thể hiện kỹ thuật may mặc của ngành quân trang………………………...
63
2.2.3. Thể hiện sự phong phú, đa dạng về chất liệu và kiểu dáng…………...…
64
2.2.4. Thể hiện tính kế thừa và tiếp thu có chọn lọc truyền thống văn hóa dân tộc..
67
2.2.5. Gắn với bản chất của Công an nhân dân .……………………………….
69
2.2.6. Chứa đựng những giá trị văn học nghệ thuật…………………………….
70
Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO QUẢN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ SƯU TẬP TRANG
74
PHỤC CÔNG AN NHÂN DÂN TẠI BẢO TÀNG CƠNG AN NHÂN DÂN
3.1. Thực trạng cơng tác bảo quản sưu tập trang phục Công an nhân dân...
74
3.1.1. Thực trạng công tác bảo quản trang phục Công an nhân dân……………
74
3.1.2. Thực trạng công tác phát huy giá trị sưu tập……………………………..
78
3.2. Giải pháp bảo quản và phát huy giá trị sưu tập trang phục Công an nhân dân
79
3.2.1. Giải pháp bảo quản sưu tập trang phục Công an nhân dân………………
79
3.2.2. Giải pháp phát huy giá trị sưu tập trang phục Công an nhân dân...……...
88
KẾT LUẬN……………………………………………………………...………………
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO……….…………………………………………………….
96
PHỤ LỤC
5
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
PGS.TS
:
Phó giáo sư, Tiến sỹ
CAND
:
Công an nhân dân
ANND
:
An ninh nhân dân
CSND
:
Cảnh sát nhân dân
XDLL
:
Xây dựng lực lượng
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
UBND
:
Ủy ban nhân dân
Nxb
:
Nhà xuất bản
SĐK
:
Số đăng ký hiện vật
PCCC
:
Phòng cháy chữa cháy
CSGT
:
Cảnh sát giao thông
Tr.
:
Trang
[x, tr.y]
:
Xem tài liệu tham khảo số x, trang y
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua hơn 60 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành qua hai cuộc
kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và công cuộc xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, lực lượng CAND Việt Nam đã lập
nhiều chiến cơng vang dội, góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng,
vì bình yên cuộc sống, vì hạnh phúc của nhân dân. Những cống hiến của họ
được ghi dấu trên mọi nẻo đường quê hương đất nước và trên hết là trong tâm
thức của những người dân Việt Nam về hình ảnh những người chiến sỹ Cơng
an “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.
Một trong những dấu hiệu đầu tiên để nhận biết hình ảnh người chiến
sỹ Cơng an đó là bộ quân phục mà họ mang trên mình. Nó thể hiện được nét
đặc thù riêng của người chiến sỹ CANDViệt Nam.
Qua đó, trang phục Cơng an giữ một vai trò rất quan trọng trong lĩnh
vực hoạt động vũ trang, nó khơng chỉ là nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt, học
tập và công tác, huấn luyện chiến đấu, mà trang phục còn tạo nên vẻ đẹp, diện
mạo và khí phách của chiến sỹ CAND Việt Nam anh hùng.
Xét dưới góc độ văn hố, trang phục Cơng an là sản phẩm do con
người sáng tạo ra, nó thể hiện trí tuệ, thẩm mỹ và tài năng sáng tạo trong
việc tạo ra các kiểu mẫu trang phục phù hợp với vóc dáng, tính chất, điều
kiện địa hình, khí hậu và tính dân tộc; Phản ánh được tính chất nghề nghiệp,
đạt được những giá trị thẩm mỹ và các giá trị văn hoá truyền thống của dân
tộc Việt Nam.
Trang phục của CAND qua các thời kỳ chứa đựng những giá trị lịch sử
sâu sắc và mang đậm bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc, truyền thống
CAND Việt Nam như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Cơng an của ta là
7
cơng an nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc”
[36,tr.75].
Trang phục Công an chứa đựng những giá trị lịch sử có ý nghĩa.
Thơng qua các loại hình trang phục cơng an trong bộ sưu tập trang phục hiện
đang lưu giữ tại Bảo tàng CAND, góp phần giúp chúng ta có thể nhận biết
được tiến trình lịch sử hình thành, xây dựng chiến đấu và phát triển của lực
lượng CAND.
Trang phục công an góp phần giáo dục truyền thống lịch sử của
CAND. Qua những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc, từ những bộ
quần áo vải của các lực lượng tiền thân của CAND đến trang phục trong
xây dựng lực lượng CAND chính quy, tinh nhuệ và hiện đại trong thời kỳ
đổi mới và hội nhập quốc tế đã thể hiện đậm nét truyền thống lịch sử, văn
hoá của dân tộc Việt Nam.
Nhận thức được vai trò, trách nhiệm của một chiến sỹ Cơng an được
đào tạo chun ngành Văn hố học, tôi xin chọn đề tài: “Giá trị lịch sử, văn
hố của Sưu tập trang phục Cơng an nhân dân tại Bảo tàng Công an
nhân dân” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành Văn hoá học.
2. Lịch sử nghiên cứu
Từ trước đến nay chưa có cơng trình mang tính chun khảo về
trang phục Cơng an, những tài liệu hiện nay có thể tham khảo nghiên
cứu về trang phục Công an đều nằm ở Bảo tàng và lưu trữ của ngành
Công an. Song hầu hết những tài liệu này chỉ dừng lại ở hồ sơ, lý lịch
hiện vật trang phục.
Nhà xuất bản CAND xuất bản các tập sách ảnh, trong đó có một số
bức ảnh minh hoạ về trang phục Công an, tuy nhiên nội dung các sách và
tài liệu nói trên mới chỉ dừng lại trong việc giới thiệu một cách sơ lược
8
về trang phục chứ chưa đi sâu phân tích những giá trị lịch sử, văn hoá
của trang phục.
Hiện nay, những tài liệu để nghiên cứu về trang phục Công an rất ít
và nằm rải rác ở một số đơn vị chức năng thuộc Tổng cục Hậu cần CAND
- nơi trực tiếp nghiên cứu, thiết kế, may mặc đảm bảo trang phục cho lực
lượng CAND, tuy nhiên những tài liệu này chỉ dừng ở các Nghị định,
Quyết định hoặc các Kế hoạch; Một nguồn tài liệu rất quan trọng khác là
các lý lịch hiện vật đang lưu giữ tại Bảo tàng CAND, tuy nhiên những tài
liệu này cũng chỉ dừng lại ở mức độ ghi chép lại nội dung lịch sử của hiện
vật chứ chưa đi sâu phân tích những giá trị lịch sử, văn hóa trong mỗi
hiện vật đó.
Có thể nói, các tài liệu kể trên chưa nghiên cứu một cách có hệ thống
về giá trị lịch sử, văn hóa của sưu tập trang phục Công an và vấn đề bảo tồn,
phát huy những giá trị của sưu tập.
3. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu, khảo sát tồn bộ số hiện vật, tài liệu và hồ sơ hiện vật trong
sưu tập trang phục CAND tại Bảo tàng CAND.
- Tìm hiểu giá trị lịch sử, văn hóa của sưu tập trang phục Cơng an và
vai trị của nó trong hoạt động trưng bày, giáo dục.
- Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá
trị của sưu tập trang phục CAND hiện lưu giữ tại Bảo tàng CAND.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Toàn bộ hiện vật, tài liệu thuộc phạm vi của sưu tập là đối tượng
nghiên cứu chính của Luận văn.
9
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Những tài liệu, hiện vật của Sưu tập đang được lưu giữ, bảo quản và
trưng bày tại Bảo tàng CAND
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo tồn,
phát huy di sản văn hóa.
- Áp dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành: sử học, Bảo tàng học,
văn hoá học, xã hội học, logic học, mỹ thuật học…
- Áp dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê, phân loại, tổng
hợp, so sánh, đối chiếu, quan sát, mô tả để giải quyết những nội dung cơ bản
của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn.
- Hệ thống hóa khoa học các hiện vật của sưu tập hiện vật trang phục CAND.
- Giới thiệu tổng quan và nội dung chính của sưu tập Trang phục Công
an nhân dân hiện đang lưu giữ trong kho cơ sở Bảo tàng CAND.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn góp phần khẳng định những
giá trị lịch sử, văn hoá của sưu tập, bổ sung nguồn tư liệu, sử liệu để giới thiệu
với các nhà nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu về lực lượng CAND.
- Giới thiệu sưu tập và khẳng định vai trò, ý nghĩa của sưu tập đối với
công tác giáo dục tuyên truyền của Bảo tàng CAND trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp, bảo tồn và phát huy giá trị của sưu tập trang
phục ở Bảo tàng CAND .
10
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về sưu tập trang phục Công an nhân dân
tại Bảo tàng Công an nhân dân.
Chương 2: Giá trị tiêu biểu của sưu tập trang phục Công an nhân dân
tại Bảo tàng Công an nhân dân.
Chương 3: Giải pháp bảo quản và phát huy giá trị Sưu tập trang phục
Công an nhân dân tại Bảo tàng Công an nhân dân.
11
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRANG PHỤC CÔNG AN NHÂN DÂN
TẠI BẢO TÀNG CÔNG AN NHÂN DÂN
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm trang phục
Trang phục là một phạm trù lịch sử, luôn gắn liền với điều kiện sống, điều
kiện kinh tế, văn hóa của xã hội trong từng thời kỳ lịch sử của nhân loại. Trang
phục là sản phẩm do con người tạo ra để phục vụ nhu cầu sống và hoạt động của
mình, nhu cầu của con người càng cao, trang phục ngày càng được phát triển.
Chỉ nhìn từ những năm gần đây nhất, sự thay đổi về trang phục đã phát triển với
tốc độ chưa từng có, thay đổi về kiểu dáng, thay đổi về chủng loại, thay đổi về
chất liệu, về màu sắc, về hoa văn trang trí… Có sự thay đổi hồn toàn bằng tư
duy sáng tạo mới của xã hội hiện đại, có sự thay đổi trên cơ sở phát triển hoặc
bảo tồn các trang phục truyền thống của một dân tộc, một tộc người.
Trang phục đã có lịch sử phát triển lâu dài và phong phú như vậy,
nhưng khi đặt vấn đề “trang phục là gì?” thì chưa có một định nghĩa nào được
xem là chuẩn mực nhất. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số khái niệm về
trang phục như sau:
Cuốn từ điển tiếng Việt do Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội xuất
bản năm 1992 định nghĩa:
“Trang phục là quần áo dành riêng cho một ngành, một nghề nào đó”
[55, tr.1004].
Trong cuốn Từ điển Anh - Việt do nhà xuất bản Thế giới ấn hành năm
1994 có từ uniform với nghĩa tính từ là: “diện mạo, không đổi, cùng một tiêu
12
chuẩn, cùng theo những quy luật như nhau, không biến hóa”. Danh từ có
nghĩa là: “đồng phục, quân phục” [52, tr.1003].
Từ điển Trung - Việt nhà xuất bản Đồng Nai ấn hành năm 1997 định
nghĩa: “Trang là trang điểm, hóa trang, ăn mặc, giả dạng. Phục là quần áo, phục
tùng, thích hợp. Trang phục bằng phục trang là quần áo, giày, mũ” [54,tr.547].
Từ điển tiếng Hán nhà xuất bản Thương Vụ - Trung Quốc ấn hành năm
1985 giải nghĩa: “Trang là hóa trang, trang điểm, biến hóa bề ngồi, động từ
có nghĩa cổ là mặc; danh từ có nghĩa là quần áo.
- Phục nghĩa cổ là mặc.
- Trang phục bằng phục trang: tên gọi chung cho những đồ vật mặc trên
người bao gồm quần, áo, giày, mũ.
Phục trang đa dạng, căn cứ vào phong cách, tính năng, tác dụng có thể
chia làm nhiều loại: lễ phục, thường phục, tế phục, trang phục, trang phục thể
thao, trang phục làm việc, trang phục sân khấu, quân phục…
- Quân phục: trang phục của quân nhân” [53,tr.229].
Với những định nghĩa nêu trên, cũng cần phải bàn thêm để tiếp cận với
một khái niệm đầy đủ hơn.
Trong từ điển tiếng Việt, nếu xác định trang phục chỉ là quần áo giành
riêng cho một ngành nghề nào đó thì chưa thật chính xác. Bởi lẽ trong thực tế
ta vẫn sử dụng rất nhiều cụm từ như “trang phục cổ truyền”, “trang phục người
Dao”, “Trang phục lễ hội”… trong khi đó “cổ truyền”, “người Dao”, “lễ hội”
khơng thể quan niệm là một ngành nghề được. Không những thế, khái niệm
không chỉ rõ cho chúng ta biết trang phục bao gồm những chủng loại gì.
Từ điển Trung - Việt và Từ điển tiếng Hán đã nêu rõ hơn về các loại
trang phục nhưng nếu xác định trang phục chỉ gồm quần, áo, giày, mũ thì các
13
dấu hiệu trên mũ như quân hiệu, cành tùng gắn trên mũ Kêpi của CAND, các
dấu hiệu trên áo như phù hiệu, cấp hiệu đeo ở trên quân phục, bối tử là đai đi
cùng với tế phục, triều phục… thì có được xác định là trang phục khơng?
Qua q trình khảo sát, nghiên cứu tài liệu và thực tế đời sống xã hội,
chúng tơi cho rằng:
Trang phục là tồn bộ những đồ dùng mang mặc của con người phù
hợp với từng môi trường sống và hoạt động.
Trang phục bao gồm: Y phục và đồ trang sức; Y phục là quần, áo, thắt
lưng, giày, dép, khăn; Đồ trang sức có vịng cổ, vịng tay chân, nhẫn, khun
tai, xà tích, thắt lưng, những dấu hiệu trên mũ, áo.
Trang phục có chức năng bảo vệ thân thể của con người trước điều kiện
của khí hậu, mơi trường và những ảnh hưởng xấu của tự nhiên đối với sức khỏe
như mưa, nắng, khí độc hại, cơn trùng…Bên cạnh đó, trang phục cịn là một
cách để con người tự làm đẹp bản thân mình, hay nói cách khác trang phục thể
hiện cách ứng xử của con người trước những yếu tố tự nhiên. Chính vì vậy
trang phục luôn luôn được nghiên cứu cải tiến để tăng thêm tính thẩm mỹ đối
với người sử dụng.
Trang phục cũng luôn luôn được cải tiến để tạo điều kiện thuận lợi, phù
hợp với từng lứa tuổi, các đối tượng công tác trong từng lĩnh vực, từng ngành
nghề khác nhau. Phù hợp với từng mơi trường hoạt động có các loại trang
phục thường ngày, trang phục lễ hội, trang phục sân khấu, trang phục thể
thao… Phù hợp với giới tính có trang phục nam giới, trang phục nữ giới, đối
với từng giới có trang phục phù hợp với từng lứa tuổi, người già, thanh niên,
trẻ em. Phù hợp với ngành nghề có trang phục Cơng nhân, trang phục Qn
đội nhân dân, trang phục Công an nhân dân…
14
1.1.2. Khái niệm trang phục Công an nhân dân
Từ khái niệm chung về trang phục, theo tư duy logic thông thường
chúng ta có thể suy ra khái niệm về trang phục Công an nhân dân như sau:
Trang phục CAND là toàn bộ đồ dùng mang mặc của lực lượng CAND
phù hợp với các điều kiện, môi trường và lĩnh vực hoạt động của mình.
Tuy nhiên để xem xét xác định thật khách quan khoa học, chúng ta cần
tìm hiểu thêm lý luận và thực tiễn về trang phục CAND.
Từ điển tiếng Việt do Trung tâm ngôn ngữ Hà Nội xuất bản năm 1992
viết:“Quân phục: quần áo đồng phục cho quân nhân.
Quân trang: trang phục dùng cho quân nhân” [54,tr.974].
Từ điển tiếng Hán, nhà xuất bản Thương vụ - Trung Quốc năm 1985
trong mục từ “quân phục” giải nghĩa là: trang phục của quân nhân.
Những giải nghĩa trên vẫn chưa đưa ra được khái niệm chính xác cụm từ
“trang phục Cơng an”. Trong cuốn Từ điển tiếng Việt đã đánh đồng cụm từ
“quân trang” và “quân phục”. Trong thực tế quân trang bao gồm cả chăn, màn,
khăn mặt, bi đông, mà những đồ dùng này không thể gọi là trang phục được.
Trong các quyết định của Bộ Công an đã ghi: “Trang phục Công an
nhân dân gồm mũ, áo, quần, giày, dép, thắt lưng, găng tay và các dấu hiệu
trên mũ, áo như quân hàm quân hiệu, cành tùng, cấp hiệu, phù hiệu, hình biểu
tượng các lực lượng, ngành nghề…”
Từ trước đến nay, trong các văn bản của Bộ Công an chưa có định
nghĩa chính thức nào về trang phục CAND. Từ những nghiên cứu trên, chúng
tơi có thể đi đến xác định khái niệm bước đầu về trang phục Công an nhân
dân như sau:
15
“Trang phục Cơng an là tồn bộ những đồ dùng mang mặc của lực
lượng Cơng an phù hợp với tính chất, đặc điểm và môi trường hoạt động của
CAND, được sản xuất theo chuẩn mực quy định của Nhà nước và Bộ Công an
trong từng giai đoạn lịch sử”
Như vậy, những đồ dùng mang mặc của Công an bao gồm mũ, áo,
quần, thắt lưng, giày, dép, găng tay và các dấu hiệu trên mũ, áo như quân
hiệu, cấp hiệu, phù hiệu, hình biểu tượng của các lực lượng nghiệp vụ
khác nhau trong Cơng an nhân dân.
- Tính chất và đặc điểm hoạt động của Công an là bao gồm nhiều
lực lượng nghiệp vụ, nhiều lĩnh vực. Các lực lượng nghiệp vụ khác nhau
có những dấu hiệu đặc điểm khác nhau, có thể khác nhau về kiểu dáng,
màu sắc. Ví dụ: quần áo của lực lượng An ninh nhân dân có màu cỏ úa,
lực lượng Cảnh sát nhân dân có màu mạ non, lực lượng Cảnh sát giao
thơng có màu vàng nhạt… Tính chất đặc điểm cịn được thể hiện ở giới
tính (trang phục cho nam Cơng an, cho nữ Cơng an) hay thể hiện ở cấp
bậc (trang phục cấp tướng, cấp tá, cấp úy, hạ sỹ quan, học viên, chiến sỹ
nghĩa vụ…).
- Về môi trường hoạt động, trang phục Công an cũng đa dạng,
phong phú về kiểu loại và chất liệu: có trang phục thường ngày, trang
phục dã chiến, trang phục dự lễ (lễ phục), trang phục nghiệp vụ, trang
phục xuân hè, trang phục thu đông, mũ cứng, mũ mềm, mũ bảo hiểm…
Mỗi mơi trường sống có trang phục riêng phù hợp được sản xuất theo
chuẩn mực quy định của Nhà nước và Bộ Công an trong từng giai đoạn
lịch sử. Có nghĩa là các chủng loại trang phục đều được nghiên cứu, thiết
kế theo quy cách nhất định về hình dáng, kích thước, màu sắc. Q trình
phát triển của lực lượng CAND có những thay đổi hoặc bổ sung về trang
16
phục, nhưng mọi thay đổi hoặc bổ sung đó đều được thống nhất sử dụng,
không ai được phép tự ý thay đổi theo sở thích cá nhân của riêng mình.
1.1.3. Khái niệm sưu tập và giá trị sưu tập hiện vật bảo tàng
Khái niệm giá trị: xét về mặt lý thuyết, giá trị là cái có ý nghĩa được
chia sẻ trong cộng đồng và xã hội, nó khơng chỉ là cái được mong muốn,
mà còn là cái đáng mong muốn. Đối với văn hóa, hệ thống giá trị được coi
là chuẩn mực để đánh giá một nền văn hóa của một dân tộc ở góc độ hẹp
hơn, cũng có thể xem xét hệ thống giá trị văn hóa đạo đức trong gia đình và
xã hội, văn hóa nghệ thuật, văn hóa kinh doanh, văn hóa giao
thơng...[7,tr.17].
Trong từ điển tiếng Việt định nghĩa “Giá trị là cái làm cho một vật có
lợi ích, có ý nghĩa, là đáng q về một mặt nào đó”[22.tr.407]. Giá trị là
một phạm trù triết học, văn hóa học, xã hội học... chỉ tính có ích, có ý
nghĩa của những sự kiện, hiện tượng tự nhiên và xã hội; có khả năng thỏa
mãn nhu cầu, lợi ích của con người. Giá trị nói lên ý nghĩa, tính biểu tượng,
tính có ích của những sự vật tự nhiên hay xã hội có khả năng thỏa mãn lợi
ích của con người [7,tr.18]. Giá trị là một hiện tượng chức năng, chức năng
đánh giá, cho nên tính người, tính nhân văn là nhân tố quan trọng hàng đầu,
con người là giá trị cao nhất, sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần
của xã hội, là những hiện tượng xã hội đặc thù, là một số biểu hiện của các
quan hệ xã hội [7,tr.18].
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử thường có một hệ thống
và thang bậc giá trị nhất định, được xã hội ấy cơng nhận; các giá trị văn
hóa đó có vai trò định hướng cho mọi hoạt động của xã hội, cho cộng đồng
và cá nhân. Bên cạnh đó, khái niệm giá trị cịn được sử dụng trong một số
mơn học như: tốn, ngơn ngữ, kinh tế học...
17
Sưu tập và giá trị sưu tập hiện vật bảo tàng:
Trong bảo tàng, công tác xây dựng sưu tập hiện vật là một trong
những hoạt động thường xuyên mang tính khoa học và là hoạt động
khoa học đặc trưng. Đối tượng để xây dựng sưu tập là hiện vật bảo
tàng. Tuy nhiên không phải nghiễm nhiên tất cả hiện vật bảo tàng đều
được hệ thống hóa đưa vào sưu tập, mà mỗi bảo tàng phải nghiên cứu,
lựa chọn, phân loại chúng dựa trên cơ sở những tiêu chí xây dựng sưu
tập của mình để thực hiện.
Vì vậy đối với bảo tàng, sưu tập hiện vật là “vốn quí” là tài sản văn
hóa của từng bảo tàng, là sự biểu hiện nét riêng đặc trưng, giá trị đích thực
của từng bảo tàng. Sưu tập hiện vật trong bảo tàng có vai trò rất quan trọng
tạo nên vị thế xã hội của bảo tàng trong hiện tại và tương lai.
Khái niệm sưu tập hiện vật được giải thích trong Luật di sản văn
hóa như sau: “Sưu tập là một tập hợp các di vật, cổ vật, bảo vật quốc
gia hoặc di sản văn hóa phi vật thể, được thu thập gìn giữ, sắp xếp có
hệ thống theo những dấu hiệu chung về hình thức, nội dung và chất liệu
để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử tự nhiên và xã hội”.
Như vậy theo nội dung của khái niệm này chúng ta thấy đối tượng
lựa chọn để xây dựng sưu tập không chỉ là những di sản văn hóa vật thể
như di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia mà còn cả di sản văn hóa phi vật thể đã
được tư liệu hóa và vật thể hóa (ghi âm, chữ viết, hình ảnh) để phục vụ cho
hoạt động nghiên cứu khoa học, giáo dục phổ biến tri thức lịch sử, văn hóa,
khoa học hoặc nghệ thuật... cho mọi tầng lớp công chúng đến tham quan,
nghiên cứu học tập tại bảo tàng. Từ đó sưu tập hiện vật trong bảo tàng
được khẳng định vừa là cơ sở vật chất, vừa là phương tiện thơng tin có hiệu
quả trong việc thực hiện các chức năng xã hội của bảo tàng, bởi vì nó cung
18
cấp thơng tin gốc tập trung, nhanh, chính xác và phong phú thông qua công
tác trưng bày- triển lãm của bảo tàng.
1.2. Khái quát chung về Bảo tàng Công an nhân dân
1.2.1. Khái quát lịch sử truyền thống Công an nhân dân
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, cùng với sự ra đời của
chính quyền cách mạng, lực lượng CAND được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, được nhân dân thương yêu đùm bọc
giúp đỡ, CAND đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đồn kết, tận tụy
trong cơng tác, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu, góp phần đập tan
âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị và
giữ gìn trật tự an tồn xã hội trong mọi tình hình, hồn thành xuất sắc nhiệm vụ
mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Lịch sử hình thành, phát triển của lực
lượng CAND có thể khái quát thành các giai đoạn phát triển như sau:
* Công an nhân dân ra đời, bảo vệ chính quyền cách mạng và tham gia
kháng chiến chống thực dân Pháp (giai đoạn 1945 - 1954)
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã có quan điểm, tư tưởng đúng đắn về
cách mạng và phương pháp bạo lực cách mạng. Quan điểm này đặt nền móng
cho việc thành lập các lực lượng vũ trang cách mạng, trong đó có lực lượng
CAND. Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945) cũng là lúc CAND
Việt Nam ra đời với các tổ chức đầu tiên: Sở Liêm phóng, Sở Trinh sát, Quốc
gia tự vệ cuộc… Các tổ chức này có chung nhiệm vụ trấn áp phản cách mạng,
bảo vệ Đảng, bảo vệ Bác Hồ, bảo vệ chính quyền. Đây cũng là những lực
lượng trực tiếp bảo vệ an tồn cho lễ Độc lập (2/9/1945) và cuộc mít tinh
mừng ngày độc lập ở các địa phương trong cả nước.
Lực lượng CAND là công cục sắc bén, tin cậy của Đảng để trấn áp kẻ
thù, đảm bảo dân chủ cho nhân dân. Bộ máy Công an được tổ chức theo sự
19
thiết lập của chính quyền ở từng địa phương, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy
Đảng và có chung nhiệm vụ đấu tranh chống phản cách mạng và bọn tội phạm,
bảo vệ tính mạng, tài sản và cuộc sống bình n của nhân dân, bảo vệ an ninh
chính trị và giữ gìn trật tự an tồn xã hội. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ngay từ khi ra đời đã phải đối phó với hàng loạt những nguy cơ, thách
thức, vì vậy ngày 25/11/1945 ban chỉ huy Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng
chiến kiến quốc” xác định nhiệm vụ trọng yếu của cách mạng Việt Nam trong
tình hình mới, đặt ra yêu cầu chỉ đạo thống nhất của Đảng, Chính phủ đối với
Cơng an. Ngày 21/2/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23/SL hợp
nhất các tổ chức Liêm phóng và Cảnh sát thành Việt Nam Công an vụ. Đây là
sự kiện quan trọng mở đầu cho quá trình xây dựng và phát triển của CAND.
Ngay từ khi thành lập, lực lượng CAND đã dũng cảm mưu trí, đấu
tranh làm thất bại âm mưu, làm tan rã các tổ chức đảng phái phản động trong
nước, bảo vệ an tồn các hoạt động của Đảng, Chính phủ.
Những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng CAND
chủ động lập vành đai an toàn, bảo vệ việc di chuyển các cơ quan đầu não của
Đảng, Chính phủ lên căn cứ chỉ đạo kháng chiến và phối hợp chiến đấu kìm
chân địch. Tại khu ATK (an tồn khu), Nha Cơng an Trung ương chỉ đạo
cơng tác chính trị tư tưởng, xây dựng lực lượng, huấn luyện nghiệp vụ công
an cho cả nước. Trên mặt trận ngoại giao, lực lượng CAND đã bảo vệ phái
đồn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hịa suốt q trình diễn ra hội nghị
Giơnever, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
* Công an nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954 - 1975).
Sau hiệp định Giơnever (7/1954), lực lượng CAND đã tiếp quản thành
phố, thị xã, tiến hành các biện pháp quản lý hành chính về trật tự xã hội, đấu
20
tranh làm thất bại kế hoạch hậu chiến của địch, đấu tranh với âm mưu gây
phỉ, gây bạo loạn, ngăn chặn một phần âm mưu địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng
bào ta di cư vào Nam (1954-1955), CAND còn đấu tranh chống bọn phản cách
mạng trên mặt trận văn hóa tư tưởng, đấu tranh chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo phá hoại an ninh trật tự. Nhằm củng cố về tổ chức đáp ứng yêu cầu tình
hình mới, Chính phủ thành lập CAND vũ trang (1959) và đã ban hành pháp lệnh
Cảnh sát nhân dân (1962). Thời kỳ này, đế quốc Mỹ gây chiến ra miền Bắc, lực
lượng CAND đã xây dựng mạng lưới an ninh nhân dân sâu rộng, vận động, hướng
dẫn quần chúng tham gia đấu tranh làm thất bại âm mưu của đế quốc Mỹ.
Ở miền Nam, đế quốc Mỹ dựng lên chính quyền tay sai Ngơ Đình Diệm.
Trước tình hình đó, dưới sự chỉ đạo của Đảng, đầu năm 1965, Ban Địch tình được
thành lập làm nhiệm vụ tổ chức, xây dựng và chỉ đạo các cơ sở nghiệp đoàn trong
các cơ quan tình báo, gián điệp của ngụy quân, ngụy quyền, phát hiện âm mưu và
hoạt động của địch.
Tháng 10/1961, Ban Bảo vệ an ninh Trung ương Cục được thành lập, chỉ
đạo hoạt động an ninh toàn miền: Chống gián điệp, đấu tranh chống chiến tranh tâm
lý, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam…
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 hồn tồn thắng lợi với
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Tổ quốc sạch bóng quân thù. Trong thắng lợi này,
lực lượng CAND đã có những đóng góp xứng đáng, vinh dự được Đảng, Nhà nước
tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Nhiều đơn vị, cá nhân được phong tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho những thành tích xuất sắc đã
đạt được trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc.
* Công an nhân dân trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN (từ 1975 đến nay)
21
Sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng, tình hình an ninh trật tự vơ
cùng phức tạp. Đại hội tồn quốc lần thứ IV (1976) đã xác định nhiệm vụ bảo
vệ an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng.
Đồng thời lực lượng Công an tổ chức Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 30
thống nhất tổ chức và các hoạt động của CAND trong cả nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dựa vào nhân dân và được quân đội nhân
dân hỗ trợ, lực lượng CAND đã đấu tranh chống phản cách mạng, phục vụ
nhiệm vụ tiếp quản, triển khai các biện pháp quản lý hành chính, khám phá,
đập tan các chức phản động lợi dụng dân tộc, tôn giáo. Lực lượng Cơng an
cịn phối hợp với các lực lượng vũ trang truy qt các tốn, nhóm FULRO vũ
trang (tổ chức chính trị phản động), bảo vệ biên giới phía Tây Nam và biên
giới phía Bắc…, làm thất bại kiểu “chiến tranh phá hoại nhiều mặt” của bọn
phản động quốc tế, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Những thắng lợi ở giai đoạn này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không
chỉ giữ vững ổn định về an ninh chính trị mà cịn tạo địa bàn an ninh thuận lợi
phục vụ đắc lực đường lối đổi mới đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đề ra đường lối
đổi mới toàn diện và được Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) bổ
sung, hồn chỉnh. Lực lượng CAND đã có nhiều đổi mới trong lãnh đạo, chỉ
đạo hoạt động, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ
gìn trật tự an tồn xã hội. Lực lượng CAND đã làm tốt nhiệm vụ bảo vệ an toàn
tuyệt đối các hoạt động của Đảng, Nhà nước, đảm bảo Việt Nam là địa chỉ tin
cậy cho các sự kiện lớn của quốc tế và khu vực, góp phần mở rộng, giao lưu
hội nhập, hợp tác quốc tế đa phương, đa dạng hóa của Đảng, Nhà nước.
Từ cuối những năm 1980, tình hình thế giới có nhiều biến động, trong
nước tình hình kinh tế - xã hội phức tạp. Lực lượng CAND đã thực hiện thành
22
công nhiều kế hoạch, biện pháp nghiệp vụ, phối hợp với các ban ngành, đoàn
thể, nêu cao tinh thần đoàn kết, cảnh giác, lần lượt làm thất bại mọi âm mưu
và hoạt động phá hoại của địch.
Trên lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… lực lượng
CAND đã điều tra, khám phá nhiều vụ án lớn, thu hồi nhiều tài sản cho Nhà
nước và nhân dân, từng bước lập lại kỷ cương trong sản xuất kinh doanh.
Trên lĩnh vực trật tự an toàn xã hội, lực lượng CAND đã truy quét, triệt phá
hàng trăm băng, ổ, nhóm tội phạm hình sự nguy hiểm để đưa ra xét xử.
Với quyết tâm kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, vận động, giáo dục trong
cộng đồng, điều tra, khám phá hàng chục vụ buôn bán, tàng trữ, vận chuyển trái
phép chất ma túy ở trong nước, trong khu vực và đa quốc gia. Đồng thời nhằm
đảm bảo trật tự công cộng, lực lượng CAND cịn đảm bảo trật tự an tồn giao
thơng đường bộ, đường thủy với những đợt cao điểm thực hiện Nghị định 36/CP
của Chính phủ, tuyên truyền, giáo dục tại cộng đồng về luật lệ giao thơng, an
tồn giao thơng trong nhân dân góp phần nâng cao dân trí và ý thức chấp hành
pháp luật.
Hoạt động hợp tác quốc tế của CAND được xây dựng từ những mối
quan hệ truyền thống với các nước XHCN trước đây và hiện nay thực hiện
đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng, Nhà nước ta mối quan hệ này mở
rộng ra rất nhiều lĩnh vực với các tổ chức An ninh và Cảnh sát trong khu vực
và các nước trên thế giới nhằm trao đổi tin tức, kinh nghiệm, chuyển giao tiến
bộ kỹ thuật, hợp tác đào tạo nghiệp vụ… Đặc biệt là lực lượng cảnh sát Việt
Nam đã ra nhập tổ chức Cảnh sát quốc tế để tăng cường công tác đấu tranh
phịng chống tội phạm trong tình hình mới. Đây là bước phát triển mới của
lực lượng CAND, trong quá trình hội nhập nhằm nâng cao hiệu quả phịng
ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm.
23
Công cuộc đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn rất
quan trọng, nhưng cũng còn tiềm ẩn khơng ít nguy cơ và thách thức phía
trước, địi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải nỗ lực phấn đấu hơn
nữa để đạt được những thành tựu mới. Là lực lượng nịng cốt xung kích trên
mặt trận bảo vệ ANTT, hơn bao giờ hết lực lượng CAND phải tiếp tục kiện
toàn tổ chức, đổi mới hoạt động và mở rộng hợp tác quốc tế nhằm xây dựng
lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đáp ứng yêu cầu
bảo vệ Tổ quốc.
Ghi nhận những thành tích, chiến cơng của lực lượng CAND 66 năm
chiến đấu xây dựng và trưởng thành, Đảng, Nhà nước đã tặng toàn lực lượng
những phần thưởng cao quý. Tự hào với những thành tựu đã đạt được, phát
huy truyền thống vẻ vang, lực lượng CAND quyết tâm vươn lên giành những
thắng lợi mới, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN tươi
đẹp mãi mãi, xứng đáng là CAND của dân tộc Việt Nam anh hùng.
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển Bảo tàng Cơng an nhân dân
Lịch sử gần 70 năm của CAND khẳng định sự lãnh đạo sáng suốt, đúng
đắn của Đảng trong việc vận dụng những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự và
xây dựng lực lượng CAND giành nhiều thắng lợi. Đó là niềm tự hào của toàn
Đảng, toàn dân ta và của các thế hệ CAND trong cuộc đấu tranh chống phản
cách mạng và các loại tội phạm khác, đập tan những âm mưu, thủ đoạn thâm
độc và xảo quyệt của các cơ quan tình báo, gián điệp thực dân, đế quốc và các
thế lực thù địch câu kết với bọn phản động tay sai, góp phần to lớn trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Bề dày truyền thống vẻ vang và oanh liệt của lực lượng CAND là tài
sản vật chất và tinh thần vô cùng quý giá của lực lượng CAND và của toàn
24
Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ
gìn trật tự an tồn xã hội và cần được gìn giữ, kế thừa, phát huy từ thế hệ này
qua thế hệ khác.
Xuất phát từ ý nghĩa đó, để ghi nhận cơng lao to lớn của các thế hệ cán
bộ chiến sỹ Công an, lưu giữ lâu dài các hình ảnh, tài liệu, hiện vật lịch sử về
Công an, để làm tốt công tác giáo dục truyền thống, bồi dưỡng kiến thức và
tình cảm cách mạng cho các thế hệ cán bộ chiến sỹ Cơng an, phục vụ u cầu
chính trị trước mắt và lâu dài, việc xây dựng bảo tàng của lực lượng CAND
là một yêu cầu bức thiết đã được lãnh đạo Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an)
quan tâm chỉ đạo, chuẩn bị từ nhiều năm.
Ngay từ đầu những năm 1950, ngành Cơng an đã có những hoạt động
mang tính chất bảo tàng. Đó là trong nội dung các Chỉ thị 1662 ngày
10/3/1950, Chỉ thị 3371 ngày 18/10/1950 của Nha Công an Trung ương đã
chỉ rõ cần phải “Sưu tầm tài liệu hiện vật phá tề trừ gian, thực hiện Công an
nhân dân”, Chỉ thị số 378/VP ngày 3/2/1956 của Văn phịng Bộ Cơng an nêu
rõ phải “Sưu tầm tài liệu hiện vật của bọn gián điệp cài lại và bọn phá hoại
hiện hành, đồng thời tổ chức triển lãm phục vụ cán bộ chiến sỹ và nhân dân”.
Năm 1956, ngành Bảo tàng Việt Nam được thành lập, Đảng Đoàn Bộ
Công an (nay là Đảng ủy Công an Trung ương) đã mời đồng chí VămPiLopChun gia bảo tàng Liên Xơ (cũ) giúp tìm hiểu nội dung và phương hướng
xây dựng bảo tàng của lực lượng CAND.
Năm 1960, thực hiện nghị quyết Hội nghị Cơng an tồn quốc lần thứ
14, ngày 6/12/1960, Bộ Công an đã ra Chỉ thị số 1442 về “Triển khai công tác
bảo tàng, giáo dục truyền thống trong tồn lực lượng”. Chỉ thị nêu rõ: “Bảo
tàng Cơng an nhân dân là cuốn sách mở, là những bài học tốt về nghiệp vụ
cho cán bộ chiến sỹ đến học tập một cách có hệ thống và thiết thực”.
25
Từ năm 1961 đến giữa năm 1967, trong ngành Công an đã có biên chế
cán bộ chăm lo cơng tác bảo tàng.
Giai đoạn 1961 -1962, biên chế 04 cán bộ thuộc Phòng Bảo tàng -Tổng
kết, trực thuộc Văn phòng Bộ Công an.
Giai đoạn 1962 - 1964, biên chế 04 cán bộ thuộc Vụ Tổ chức.
Giai đoạn 1965 - 1967, biên chế 02 cán bộ thuộc trường Công an Trung
ương. Ngày 16/6/1967 Bộ Công an ra Quyết định số 405 CA/QĐ thành lập
Cục Tun huấn trong đó có Phịng Bảo tàng, đây là mốc đánh dấu sự ra đời
của Bảo tàng CAND. Tuy tổ chức của bảo tàng chỉ là đơn vị mang tính chất
hành chính, sự nghiệp chung nhưng kể từ đây biên chế cán bộ làm công tác
bảo tàng đã được tăng lên và hoạt động chủ yếu là công tác sưu tầm hiện vật.
Đồng thời nhân dịp những ngày lễ, ngày kỷ niệm của đất nước, của ngành
Công an, phòng Bảo tàng đã tổ chức được những cuộc triển lãm ở các đơn vị,
địa phương và các trường Công an. Thông qua các cuộc triển lãm này, Bảo
tàng đã thu thập, sưu tầm được nhiều hiện vật có giá trị về lịch sử, truyền
thống của lực lượng CAND, góp phần xây dựng, bổ sung và làm phong phú
thêm kho cơ sở của Bảo tàng.
Năm 1980, Bảo tàng CAND được hình thành một phịng độc lập, trực
thuộc Cục Cơng tác chính trị, Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND.
Năm 1985, kỷ niệm 45 năm ngày truyền thống lực lượng CAND, Bảo
tàng CAND đã tổ chức trưng bày hiện vật trên diện tích 200m2 tại số 66 phố
Thợ Nhuộm - Hoàn Kiếm - Hà Nội để phục vụ cán bộ chiến sỹ trong lực
lượng CAND đến tham quan và học tập.
Ngày 18/12/1992 Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã ra Chỉ thị số
25/CT-BNV về công tác bảo tàng truyền thống trong lực lượng CAND. Để
đẩy mạnh việc thực hiện chỉ thị này, ngày 1/12/1995 Bộ Nội vụ có Quyết định