Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Thông khí với áp lực đường thở dương liên tục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.77 KB, 11 trang )

THÔNG KHÍ VỚI ÁP LỰC ĐƯỜNG THỞ DƯƠNG
LIÊN TỤC (CPAP)
1. MỘT SỐ THUẬT NGỮ
Áp lực đường thở dương liên tục (CPAP) là kiểu thông khí ngày càng được sử
dụng rộng rãi như là một phương pháp hỗ trợ hô hấp cho trẻ sơ sinh.
- CPAP (continuons positive airway pressure) là sử dụng một áp lực dương ở
đường hô hấp cho trẻ vẫn còn tự thở được ở cả 2 thì hít vào và thở ra
- PEEP ( positive end – expiratory pressure) là sử dụng một áp lực dương ở thì
thở ra cho trẻ thở máy với các chế độ thở thông thường
- CDP (continuous distending pressure) là sử dụng một áp lực làm căng phồng
phổi liên tục trong thì thở ra.
- CPAP và PEEP là các kiểu làm căng phồng phổi liên tục.
2. LỊCH SỬ
Lần đầu tiên vào những năm 1930, áp lực dương đường hô hấp được sử
dụng trong lâm sàng cho người lớn bị tổn thương phổi như: Pulton và Oxon sử
dụng áp lực dương qua mask cho bệnh nhân suy hô hấp. Bullowa sử dụng cho
bệnh nhân viêm phổi còn Barach và cs sử dụng cho bệnh nhân phù phổi.
Trong những năm 1940 áp lực dương hô hấp được đưa vào sử dụng cho
những người bay trên cao. Tuy nhiên vì biết được những tác động bất lợi cho
các mạch máu lớn do đó trong khoảng gần 2 thập kỷ sau đó người ta chỉ tập
trung vào sử dụng trong lâm sàng mà thôi.
Năm 1967, PEEP được đưa vào sử dụng trong thông khí nhân tạo bằng
máy để điều trị hội chứng ARDS ở người lớn. Năm 1971 Gregory và cs đã sử
dụng CPAP qua ống nội khí quản hoặc qua Hood ( mũ chụp đầu và cổ) để điều
trị suy hô hấp ở trẻ sơ sinh đẻ non và kể từ đó trở đi trong suốt thập kỷ 1970,
CPAP được sử dụng rất rộng rãi trong điều trị suy hô hấp ở trẻ sơ sinh qua
canulla mũi 2 lỗ (binasal prongs). Trong những năm 1980 đến đầu năm 1990 do
phát hiện được nhiều biến chứng như tràn khí ngực, phình giãn dạ dày và các
hiện tượng không dung nạp canulla mũi ở trẻ sơ sinh do đó việc sử dụng CPAP
lại không được ưa dùng lắm. Đồng thời với việc sử dụng CPAP ít đi, người ta đã
tìm kiếm các phương pháp thông khí khác như IMV, HFO để thay thế CPAP,


tuy nhiên các biến chứng vẫn xảy ra.
Trong khoảng 10 năm gần đây người ta lại quay trở lại với CPAP nhưng
tập trung nhiều vào việc sử dụng CPAP sao cho vẫn phát huy được những ưu
điểm, đồng thời giảm được tối đa các biến chứng của nó
3. CHỈ ĐỊNH VÀ CHỐNG CHỈ ĐỊNH
3.1. Chỉ định
+ CPAP và PEEP đều được sử dụng để điều trị suy hô hấp cho trẻ đẻ non và đủ
tháng.
+ CPAP dùng để cai thở máy trước hoặc sau khi rút ống nội khí quản
+ Trẻ đẻ non có các cơn ngừng thở kéo dài và tái phát
+ Các rối loạn hô hấp khác có phối hợp với:
- Giảm thể tích cặn chức năng
- Xẹp phổi
- Shunt phải – trái ở tim hoặc trong phổi
- Mất cân bằng thông khí – tưới máu
- Phù phế nang
- Hít phải chất độc
- Tăng sức kháng đường hô hấp
- Tính không bền vững của thành ngực và đường hô hấp
- Cơn ngừng thở do tắc nghẽn
3.2.Chống chỉ định
- Trẻ còn bú có suy hô hấp tiến triển mà không thể duy trì được hiện tượng
oxygen hoá, PaCO2< 60mmHg và hoặc pH < 7,25.
- Trẻ bị một số tật bẩm sinh như: Thoát vị hoành, lỗ dò khí phế quản, teo lỗ
mũi sau, sứt môi hở hàm ếch, suy tim, trụy mạch, hạ huyết áp, chức năng
tâm thất kém...
4. CÁC PHƯƠNG PHÁP TẠO ÁP LỰC DƯƠNG
4.1. CPAP dòng liên tục (Continuous flow CPAP)
Cách 1:
Nguồn cấp khí tạo ra 1 dòng khí trực tiếp chống lại sức kháng ở thì thở ra. Sức

kháng này được tạo ra nhờ 1 van hiệu chỉnh thiết kế ở trong máy thở gọi là
CPAP tạo ra từ máy thở (ventilator - derived) hoặc được tạo ra bằng bong bóng
hoặc cột nước (bubble or waterseal CPAP). Với phương pháp này thì không khí
và oxy sau khi được trộn đều sẽ được đưa vào bộ làm ẩm và sưởi ấm trước khi
đưa vào mũi bệnh nhân bằng một bộ phận tiếp nối như canulla mũi hoặc ống nội
khí quản. Sau đó không khí thở ra được đưa vào 1 lọ nước cất vô trùng hoặc
acid acetic 2,25%. Độ sâu của cột nước là áp lực ở thì thở ra. Áp lực này có thể
đo được nếu ta gắn một đồng hồ đo áp lực ở đường thở ra của bệnh nhân
Cách 2:
Sử dụng van phụt khí bao gồm 2 ống đặt đồng trục nối với 1 cái vòng còn gọi là
van Benvenisde. Thiết bị này hoạt động theo kiểu nguyên tắc venturi để tạo ra
áp lực và hệ thống dòng CPAP liên tục. Van phụt khí Benveniste này được nối
với nguồn khí và đưa đến bệnh nhân qua canulla mũi 1 bên hoặc 2 bên (Hình
8.1).
Năm 1992, Nekvasil và cs nhận thấy rằng hiện tượng tạo bong bóng cũng
gây ra được các dao động (oscillation) khí. Năm 1998, quan sát độ rung của lồng
ngực ở trẻ thở CPAP bong bóng qua nội khí quản, Lee và cs nhận thấy độ rung
này cũng tương tự như khi thở máy tần số cao HFV nên làm tăng cường quá
trình trao đổi khí.
Hình 8.1: Van phụt khí Benveniste
4.2. CPAP dòng thay đổi (variable – Flow CPAP)
Kiểu CPAP này được Moa và cs phát triển nhằm làm giảm công thở của
bệnh nhân được sử dụng rộng rãi trong khoảng 10 năm gần đây.
CPAP dòng thay đổi tạo được áp lực dương ngay tại đường vào mũi bệnh nhân.
Thiết bị này sử dụng hiệu ứng Bernoulli qua vòi phun khí kép (dual injector jets)
trực tiếp vào 2 mũi bệnh nhân để duy trì áp lực hằng định. Nếu trẻ cần dòng thở
vào nhiều hơn thì nhờ tác động venturi, vòi bơm khí sẽ bơm thêm khí.Với hệ
thống này khi trẻ có nhịp thở ra tự nhiên sẽ có một cú “bung khí’’ (Fluidic flip)
để kéo luồng khí đẩy vào bệnh nhân sang ống thở ra. Đó là hiệu ứng Coanda. Cơ
sở của hiệu ứng này là các chất dịch hoặc khí có xu hướng chảy theo bề mặt

cong của thành ống nhờ hiện tượng tiếp xúc với thành ống. Điều đó có nghĩa là
một luồng khí hoặc dich chảy ra từ vòi hoặc ống sẽ tiếp tục chảy theo bề mặt
cong gần đó. Trong trường hợp CPAP dòng thay đổi, thì ngay khi trẻ bắt đầu thở
ra, luồng khí đưa vào bệnh nhân sẽ bị đổi hướng sang nhánh thở ra chứ không đi
vào mũi bệnh nhân. (Hình 8.2)
Ngay khi bắt đầu có nhịp thở ra thụ động sẽ làm cho tốc độ luồng khí thở
vào giảm xuống và chính sự giảm tốc độ luồng khí thở vào này dẫn tới hiện
tượng “bung khí’’ ở ống thở ra. Như vậy ích lợi chủ yếu của CPAP dòng thay
đổi là làm giảm công hô hấp của trẻ. Bởi vì nếu trẻ phải thở CPAP dòng liên tục
thì khi thở ra bản thân trẻ phải dùng toàn bộ lực để đẩy lùi được dòng khí đưa
vào, còn nếu trẻ được thở CPAP dòng thay đổi thì hiện tượng “ bung khí’’ có
trong thiết bị này sẽ hỗ trợ một phần trẻ khi thở ra.
Nghiên cứu của Klausner và cs vào năm 1996 cho thấy công hô hấp khi
thở CPAP dòng thay đổi qua canulla mũi chỉ bằng 1/4 so với thở CPAP dòng
liên tục. Pandid và cs năm 2001 khi nghiên cứu công hô hấp của các trẻ sơ sinh
đẻ non được điều trị bằng CPAP dòng liên tục và CPAP dòng thay đổi đã nhận
thấy rằng công của nhóm dùng CPAP dòng thay đổi giảm hơn có ý nghĩa và
đường cong áp lực ổn định hơn trẻ thở bằng CPAP dòng liên tục (hình 8.3A và
B).
Hình 8.2: Hiệu ứng Coanda
Phôt khÝ Bung khÝ
¸p lùc d­¬ng
¸p lùc d­¬ng
Th× hÝt vµo Th× thë ra
§­êng khÝ ra
KhÝ ra
5
0
Hình 8.3 A: Áp lực khi thở CPAP dòng thay đổi
B: Áp lực khi thở CPAP dòng liên tục

5. CÁC KỸ THUẬT SỬ DỤNG BỘ TIẾP NỐI VỚI BỆNH NHÂN
5.1.Các thiết bị tiếp nối qua mũi
5.1.1. Gọng mũi và gọng họng mũi (nasal and nasal pharyngeal prongs)
Thiết bị để đưa vào 2 bên lỗ mũi hoặc thiết bị dùng để đưa vào 1 bên lỗ
mũi (single nasopharyngeal prongs). Các thiết bị này có 2 loại: Loại ngắn có 2
nhánh vào mũi dài khoảng 6-15 mm và loại dài có 2 nhánh vào mũi dài khoảng
40-90mm. Loại ngắn dùng để đưa vào mũi ở mức vừa (nasal prongs) và loại dài
để đưa sâu vào mũi tới tận tỵ hầu (nasopharyngeal prongs).(Hình 8.4 A và B)
Áp lực
(cm H2O)
Áp lực
(cm H2O)
Thời gian
Thời gian
5
0
A B
Hình 8.4: A. Gọng họng mũi B: Gọng
mũi
A B
5

×