Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Bài giảng: Bệnh do leptospira

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.53 KB, 7 trang )

BỆNH DO LEPTOSPIRA
Ths BSCKII Nguyễn Hồng Hà
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong bài này, người học phải có khả năng:
1. Chẩn đoán được bệnh do Leptospira
2. Điều trị được bệnh do Leptospira
3. Trình bày được cách phòng bệnh do Leptospira
NỘI DUNG
1. Đại cương:
Nhiễm Leptospira là một bệnh nhiễm trùng cấp tính toàn thân do
xoắn khuẩn Leptospira gây nên. Trên lâm sàng bệnh có nhiều thể khác
nhau từ nhiễm trùng không có biểu hiện lâm sàng đến bệnh tối cấp gây tử
vong. Nhiễm Leptospira biểu hiện giống như bệnh Cúm với sốt đau đầu
và đau cơ. Thể nặng của nhiễm Leptospira biểu hiện vàng da viêm gan,
suy chức năng thận và xuất huyết còn gọi là Hội chứng Weil (Weil's
Syndrome).
2. Tác nhân gây bệnh:
Xoắn khuẩn Leptospira thuộc giống Leptospira họ Leptospiraceae.
Leptospira có 2 chủng: Chủng gây bệnh L. interrogans và chủng tự do L.
biflexa.
Hơn 200 typ huyết thanh đã được tìm ra. Có 23 nhóm huyết thanh
(Serogroups) gây bệnh ví dụ như L. icterohaemorhagiae, L.
grippotyphosa, L. canicola, L. australis, L. pomona, L. ballum v.v…
Leptospira có hình xoắn đều, mảnh, di động nhanh có móc ở đuôi
và 2 cơ quan trông giống cái roi để vi khuẩn dễ dàng xuyên sâu vào tổ
chức. Nó dài 6 - 20 µm rộng 0,1 µm có thể nhìn thấy vi khuẩn qua kính
hiển vi nền đen thấy vi khuẩn có màu ánh bạc. Leptospira cần môi trường
nuôi cấy đặc biệt, đủ điều kiện, vi khuẩn mọc sau nhiều tuần nuôi cấy.
3. Dịch tế học:
Nhiễm Leptospira là bệnh của súc vật truyền sang người phân bố
trên toàn thế giới, được ghi nhận ít nhất ở 160 nước.


Loài gặm nhấm đặc biệt chuột nhiễm bệnh quan trọng nhất. Chó,
lợn, động vật hoang dã, cá, chim cũng bị nhiễm bệnh. Có một mối liên
quan giữa một số nhóm Leptospira với vật chủ ví dụ L.
icterohaemorhagiae/copenhageni với chuột, L. grippotyphosa với chuột
đồng, L. hardjo với gia súc, L. canicola với chó, L. pomona với lợn.
Leptospira có thể tồn tại trong ống thận các loài này trong nhiều năm.
1
Nhiễm Leptospira có thể lây truyền do tiếp xúc trực tiếp với nước
tiểu, máu, tổ chức của động vật bị nhiễm bệnh. Leptospira được thải qua
nước tiểu ra môi trường, có thể sống trong nước, bùn nhiều tháng. Bệnh
có thể phát triển thành dịch do nước bị nhiễm xoắn khuẩn. Sự lây truyền
từ người sang người rất hiếm. Bệnh Leptospira thường xảy ra ở các nước
nhiệt đới - nơi khí hậu cũng như điều kiện vệ sinh thấp kém thích hợp cho
xoắn khuẩn sống và phát triển.
Nhóm người có nguy cơ mắc bệnh cao như những người nông dân
làm ruộng, trồng rau, chăn nuôi, những công nhân làm vệ sinh nạo vét
cống, giết mổ gia súc, cá, trẻ em hay tắm ở ao hồ do tiếp xúc với nước,
bùn bị nhiễm Leptospira. Trong mùa mưa do tình trạng úng ngập xảy ra
thường xuyên và ở nhiều nơi bất kỳ ai cũng có thể nhiễm bệnh.
4. Cơ chế bệnh sinh:
Cơ chế bệnh sinh của nhiễm Leptospira còn chưa được hiểu biết
một cách hoàn toàn.
Leptospira có thể xâm nhập vào cơ thể qua da, niêm mạc đặc biệt là
kết mạc mắt, niêm mạc mũi họng khi uống nước bị nhiễm Leptospira có
thể xâm nhập qua miệng họng hoặc thực quản. Sau khi vào cơ thể
Leptospira phát triển trong máu rồi xâm nhập vào các cơ quan. Người ta
có thể phân lập Leptospira từ máu và dịch não tuỷ từ 4 đến 10 ngày đầu
của bệnh. Có một điều còn chưa thể giải thích được là tại sao Leptospira
có mặt trong dịch não tuỷ mà không gây nên viêm màng não trong giai
đoạn này. Vai trò quan trọng của một độc tố trong cơ chế bệnh sinh của

bệnh đã được đề cấp đến nhưng còn chưa được chứng minh. Leptospira
gây tổn thương tế bào nội mạch dẫn đến viêm mạch máu đặc biệt là mao
mạch. Điều này giải thích hầu hết các biểu hiện quan trọng của bệnh. Ở
thận Leptospira xâm nhập vào khoảng kẽ, ống thận gây viêm khoảng kẽ
và hoại tử ống thận. Giảm thể tích tuần hoàn do thiếu nước hoặc tăng
thấm thành mạch cũng có thể dẫn đến suy thận. Ở gan người ta nhận thấy
hoại tử trung tâm tiểu thuỳ, xâm nhập tế bào Kupffer. Tuy nhiên ít thấy
hoại tử tế bào gan nặng. Tổn thương phổi là hậu quả của xuất huyết. Tổn
thương cơ bao gồm sưng phình sợi cơ và hoại tử từng ổ. Trong nhiễm
Leptospira thể nặng viêm mạch đặc biệt là mao mạch gây tăng thấm thành
mạch, rối loạn vi tuần hoàn dẫn đến thoát dịch giảm thể tích tuần hoàn
hậu quả là sốc và truỵ mạch.
Khi kháng thể đã hình thành, Leptospira bị loại trừ ở mọi nơi trong
cơ thể trừ mắt, ống thận nơi chúng có thể tồn tại hàng tuần, hàng tháng.
Sự tồn tại của Leptospira ở mắt gây viêm mống mắt cấp và mãn tính. Đáp
ứng miễn dịch toàn thân có tác dụng loại trừ xoắn khuẩn nhưng cũng gây
nên phản ứng viêm mạnh. Tăng hiệu giá kháng thể thường xuất hiện cùng
2
với phát triển viêm màng não. Điều này cho thấy viêm màng não có thể
do cơ chế miễn dịch.
5. Biểu hiện lâm sàng:
Các nghiên cứu huyết thanh học cho thấy khoảng 15 - 40% số người
bị nhiễm không có biểu hiện lâm sàng. Trong những trường hợp bị bệnh,
biểu hiện lâm sàng rất khác nhau từ nhẹ đến nặng thậm chí tử vong. Hơn
90% bị bệnh là thể nhẹ không có vàng da, có hoặc không viêm màng não,
khoảng 5% - 10% biểu hiện nặng với vàng da đậm (Weil' s syndrome).
Thời kỳ ủ bệnh thường kéo dài từ 1 đến 2 tuần nhưng thay đổi từ 2
đến 26 ngày.
Nhiễm Leptospira có thể diễn biến hai pha. Nhiễm Leptospira điển
hình thường khởi đầu bằng giai đoạn nhiễm Leptospira huyết thường kéo

dài từ 4 đến 7 ngày. Trong giai đoạn này biểu hiện bệnh không đặc hiệu
giống như cúm có thể phân lập Leptospira từ máu, dịch não tuỷ và hầu hết
tổ chức. Sau giai đoạn này bệnh nhân hết sốt từ 1 đến 2 ngày tiếp theo là
giai đoạn 2 "Giai đoạn miễn dịch" kéo dài từ 4 đến 30 ngày, đôi khi dài
hơn. Xoắn khuẩn bị loại trừ trong máu và dịch não tuỷ nhưng vẫn còn
trong thận, nước tiểu. Giai đoạn này có sự hiện diện của kháng thể trong
máu và xuất hiện viêm màng não, viêm mống mắt, phát ban và trong
những thể nặng có viêm gan thận.
5.1. Nhiễm Leptospira thể không vàng da
Bệnh biểu hiện cấp giống như cúm với sốt. Rét run đau đầu nhiều,
buồn nôn, nôn và đau cơ kéo dài 4 - 7 ngày. Trong thể này giai đoạn 2 có
thể không xảy ra.
Trong giai đoạn miễn dịch của bệnh sốt thường nhẹ hơn và kéo dài
từ 1 - 3 ngày. Đau đầu thường dữ dội thường ở vùng trán hoặc hai hốc
mắt có khi là khởi đầu của viêm màng não có sảng nhưng rối loạn tâm
thần nặng hiếm gặp. Đau cơ đặc biệt cơ bắp chân, lưng và bụng là một
dấu hiệu quan trọng giúp cho chẩn đoán. Thăm khám lâm sàng thấy đau
cơ, xung huyết kết mạc, hạch to, gan lách to và phát ban. Hầu hết bệnh
nhân có tim nhanh đối khi có cơn nhịp nhanh, xung huyết mắt và xuất
huyết củng mạc mắt, nhìn đôi, đau hốc mắt thường gợi ý cho chẩn đoán.
Biểu hiện hô hấp như ho, đau ngực, đờm có dính máu gặp trong hầu hết
các ca bệnh một vài trường hợp có thể ho ra máu. Khoảng 15% số bệnh
nhân có biểu hiện viêm màng não nước trong vô khuẩn tồn tại vài ngày
nhưng cũng có thể kéo dài hàng tuần.
5.2. Thể vàng da của nhiễm Leptospira (HC Weil)
Thể nặng của nhiễm Leptospira thường gặp trong nhiễm L.
interohaemorhagiae nhưng cũng có thể gặp trong bất kỳ nhóm huyết
thanh nào, biểu hiện vàng da suy chức năng gan thận, xuất huyết truỵ
3
mạch hôn mê và tử vong cao 5 - 10% có khi còn cao hơn. Bệnh khởi đầu

cũng như thể không vàng da, sau 4 - 9 ngày vàng da cũng như suy thận và
viêm mạch máu phát triển.
Vàng da tăng dần có màu vàng da cam thường không kết hợp với
hoại tử tế bào gan nặng. Bệnh nhân ít khi tử vng do suy gan. Thăm khám
thấy gan to và đau ở hạ sườn phải, 20% số bệnh nhân có lách to.
Suy thận thường xuất hiện vào tuần thứ 2 của bệnh do xoắn khuẩn
xâm nhập gây viêm thận kẽ và ống thận. Hạ thể tích máu và giảm tưới
máu thận dẫn đến hoại tử ống thận cấp biểu hiện bằng thiểu niệu và vô
niệu. Một số bệnh nhân cần được lọc thận, chức năng thận có thể hồi phục
hoàn toàn. Biểu hiện hô hấp bao gồm ho, khó thở, đau ngực, đờm dính
máu đôi khi ho ra máu thậm chí suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS).
Biểu hiện xuất huyết bao gồm chảy máu cam chẩm và nốt xuất
huyết có thể gặp bầm tím ngoài da. Đôi khi bệnh nhân bị xuất huyết nặng
ở đường tiêu hoá. Hiếm khi xuất huyết thượng thận và dưới màng nhện.
Tiêu cơ vân, tán huyết, viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim, suy tim,
sốc do tim, suy đa phủ tạng có thể gặp trong nhiễm Leptospira thể nặng.
6. Cận lâm sàng:
Nước tiểu có hồng cầu, bạch cầu, trụ hạt và trụ trong, tăng protein
nhẹ trong nhiễm Leptospira thể nhẹ. Suy thận với tăng Ure, Creatin, Kali
và toan chuyển hoá gặp trong thể nặng.
Số lượng bạch cầu thay đổi từ 3.000 đến 26.000. Hạ tiểu cầu gặp
trong một nửa các trường hợp. Tốc độ máu lắng tăng.
Bilirubin, phospatase kiềm cũng như men Transaminase tăng vừa
phải so với viêm gan siêu vi trùng. Tỷ lệ Prothrombin có thể giảm nhưng
đáp ứng tốt với điều trị bằng Vitamin K.
Men Creatine phosphokinase (CPK) tăng trong hơn 50% số bệnh
nhân ở tuần đầu của bệnh có thể giúp cho chẩn đoán.
Nước não tuỷ biến đổi như viêm màng não nước trong, trong giai
đoạn đầu thành phần tế bào thường là bạch cầu đa nhân sau đó chuyển
thành Monocyte, protein tăng nhẹ, glucose bình thường.

Trong bệnh do Leptospira nặng chụp phổi có thể thấy mờ ở nhu mô,
thường ở thuỳ dưới phía lưng do chảy máu.
7. Chẩn đoán xác định:
Xác định chẩn đoán Leptospira có thể dựa vào chẩn đoán huyết
thanh học.
Phản ứng Martin Petit là phản ứng ngưng kết tan (Reaction
d'agglutination Lyse-RAL) và thử nghiệm vi ngưng kết (Microscopie
4
Agglutination Test-MAT) thường được áp dụng cho chẩn đoán thường
quy. Hiệu giá kháng thể ≥ 1: 100 vào tuần thứ 2 hoặc tăng hiệu giá kháng
thể ở lần 2 và sau 2 tuần. Đáp ứng kháng thể có thể bị ảnh hưởng nếu điều
trị kháng sinh sớm. Các thử nghiệm khác như thử nghiệm miễn dịch hấp
phụ gắn men (Enzym Linked immunosorbent Assay) ELISA, Mac-ELISA,
dot-ELISA, ngưng kết hồng cầu gián tiếp chỉ có thể làm ở các phòng xét
nghiệm chuyên sâu.
Phản ứng chuỗi khuyếch đại gen (Polymerase Chain Reation) PCR
rất chính xác để xác định chủng nhưng còn chưa được áp dụng thường
quy.
Có thể phân lập Leptospira từ máu, nước não tuỷ trong 10 ngày đầu
và từ nước tiểu sau vài tuần, đôi khi cấy nước tiểu còn dương tính hàng
tháng tới hàng năm sau khi bị bệnh. Môi trường thường dùng để phân lập
vi khuẩn là Ellinghausen - Mc. Cullongh - Johnson Haris (EMJH) hoặc
Fletcher hoặc Korthoff giữ 5 - 6 tuần ở nhiệt độ 28 - 30
0
C trong tối.
Phân lập Leptospira có ý nghĩa trong xác định chủng.
8. Chẩn đoán phân biệt:
Nhiễm Leptospira cần được chẩn đoán phân biệt với những bệnh có
sốt, đau đầu, đau cơ như cúm, sốt rét, viêm gan virut, sốt dengue, bệnh do
Hanta virut và bệnh do Ricketsia.

Nhiễm Leptospira thể nặng (HC Weil) cần được phân biệt với các
bệnh sau:
- Sốt rét nặng và biến chứng.
- Viêm gan siêu vi trùng thể nặng có xuất huyết.
- Sốt xuất huyết Dengue.
- Bệnh do Hanta virut
- Bệnh do Ricketsia
- Bệnh Thương hàn
- Viêm đường dẫn mật tăng ure huyết (Angiocholite Uremigene).
- Nhiễm trùng huyết các loại.
- Ngộ độc các loại
9. Điều trị:
9.1. Điều trị đặc hiệu
Điều trị kháng sinh nên bắt đầu sớm nhất nếu có thể.
a. Thể nhẹ:
5

×