ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
Tên đề tài :
Tạo dựng tên thương hiệu chiến lược dựa vào
ngôn ngữ học tâm lý.
Môn : Ngôn ngữ học ứng dụng *
Giảng viên : PGS.TS Nguyễn Văn Chính
Sinh viên : Nguyễn Bá Thắng
Lớp : K60 Ngôn ngữ học Chất lượng cao
Mã số sinh viên : 15034444
MỤC LỤC
I)
Phần mở đầu:
1)
Tên đề tài : Tạo dựng tên thương hiệu chiến lược dựa vào ngôn ngữ học
tâm lý.
Lý do chọn đề tài :
2)
Thương hiệu là một khái niệm, một từ ngữ gắn với hàng hóa, dịch vụ hoặc tên
nhãn hiệu của một hoặc nhóm người nhằm mục đích giành ưu thế trong cuộc cạnh
tranh. Thương hiệu là trung tâm đứng giữa một bên là nhà sản xuất( công ty) và
một bên là khách hàng. Tiếp thị là mối điều hòa giữa hai đối tác đó nhằm phân chia
các lợi ích, trong đó có lợi nhuận.
2
Trong khi thiết kế nhãn hiệu, ngôn ngữ là những dấu hiệu để phân biệt hàng hóa,
dịch vụ nhằm khu biệt những sản phẩm tốt hơn đồng loại cạnh tranh. Thoạt đầu nó
chỉ là một cái tên, sau đó cái tên đó thành nổi tiếng trong chiến lược chiếm lĩnh thị
trường. Quy trình đặt tên thương hiệu, chiến lược và những nguyên tắc cơ bản để
đặt tên cho các thương hiệu nói chung và thương hiệu Việt nói riêng là nội dung
liên quan đến ngôn ngữ học ứng dụng. Một cái tên liệu có thành công hay không
phụ thuộc rất lớn vào tâm lý, suy nghĩ của khách hàng với thương hiệu.
3)
Mục đích nghiên cứu :
Ở đây chúng ta thấy rằng khẩu hiệu trong truyền thông chính trị xã hội cũng như
một biểu ngôn của quảng cáo đều hướng tới sự hoàn hảo, hướng tới cái đẹp, nhưng
rõ ràng có nguyên tắc của nó. Đó là phải đảm bảo dễ nhớ, phải gợi lên tâm trí
người ta bất cứ lúc nào và tạo nên tác động sâu sắc bằng sự hấp dẫn của nghệ thuật
đích thực.
Bản sắc của thương hiệu và các biểu ngôn phải được sử dụng nhiều lần và mỗi lần
đều phải mang lại cái mới để thắp sâu vào tâm trí khách hàng, các nhóm đối tượng
đích lặp đi lặp lại để gây ấn tượng mà không nhàm chán và nếu làm “tốt” thì khả
năng quảng bá càng rộng và mật độ tiếp cận với khách hàng ngày càng dày đặc. Đó
là mục đích nghiên cứu của đề tài này.
4)
Phương pháp nghiên cứu : nghiên cứu tài liệu, quan sát.
II)
1)
Phần hai : Nội dung nghiên cứu
Tên thương hiệu nên được đơn giản hóa :
3
Việc tạo dựng một nhãn hiệu mang sự đơn giản thường được nhắc đến trong
những tài liệu marketing[8], [10],[ 26]. Những đặc tính xuất hiện ở đây gồm : dễ
để nói , dễ để đọc và dễ hiểu. Và thường người tiêu dùng cũng sẽ đơn giản hóa
những nhãn hiểu mà họ cảm thấy phức tạp. Ví dụ, một chiếc Chevrolet trở thành
một chiếc Chevy, một Corvette trở thành một Vette, Coca-Cola trở thành Coke và
Pan American Airlines trở thành Pan Am. Chính vì sự mong muốn đơn giản hóa
nhãn hiệu liên quan trực tiếp đến nguyên tắc tâm lý này mà hàng loạt các nhãn hiệu
xuất hiện với việc áp dụng nó. Ví dụ về tên thương hiệu đơn giản như Nike, Tide,
KFC, Youtube, Google, … Lợi ích của một tên thương hiệu đơn giản trong bộ nhớ
được cho là kết quả của hai quá trình nhận thức cơ bản. Đầu tiên, người tiêu dùng
bị hạn chế năng lực trong việc tập trung. Vì họ sẽ dùng ít năng lực tập trung này
hơn đối với các thông tin đơn giản, và sẽ có một tỷ lệ cao hơn trong cả việc thu hút
và duy trì sự chú ý của người tiêu dùng với một thương hiệu đơn giản.[ 3] Ảnh
hưởng của sự chú ý này, lần lượt sẽ cải thiện khả năng đặt hàng cao hơn , và khả
năng ghi nhớ thương hiệu đó được giữ lại lâu hơn. Thứ hai, một khi đã đặt sự chú ý
vào đó, một thông tin thực sự đơn giản sẽ được dễ dàng mã hóa vào hệ thống bộ
nhớ , một lần nữa nâng cao khả năng ghi nhớ. Khi người tiêu dùng xử lý thông tin
trong điều kiện này quá nhiều ở thời đại hiện nay, sẽ thật khó cho họ nếu phải tiếp
nhận một thông tin phức tạp. Ở Việt Nam có xu hướng sử dụng từ song tiết để đặt
tên nhãn hiệu nhằm hướng đến sự cân đối, hài hòa (Ví dụ: Vàng Bảo tín, lụa Hà
Đông, Inox Sơn Hà,…). Như vậy, xây dựng một nhãn hiệu, thương hiệu với sự đơn
giản đang là xu hướng các nhà khởi nghiệp hay giám đốc marketing hướng đến.
2)
Tên thương hiệu phải có tính khu biệt :
4
Ngôn ngữ tham gia vào biểu đạt thương hiệu,nhãn hiệu như một điều tất yếu vì
thương hiệu phải tồn tại như một thực thể, một cái người ta có thể tri giac được,
tiếp xúc được. Và đó là vật truyền tin, tức là ký hiệu, qua đó người ta nhận biết
được một thông tin. Nó phải có tính khu biệt trong cạnh tranh. Vấn đề là thương
biệt không chỉ là sự nổi trội mà còn là nét khu biệt.
Khả năng phân biệt cũng như một đặc tính trong một tên thương hiệu cũng thường
xuyên được đề cập trong tài liệu nghiên cứu marketing. [5], [15], [23] Trong thực
tế, một số quan điểm coi đây là những đặc điểm quan trọng nhất bởi vì bộ nhớ, luật
pháp, và định hướng của thương hiệu.[5] Ví dụ về tên thương hiệu đặc biệt thường
được đề cập Apple, Samsung, Lotte, Google, Canon, … Thực sự có một sự tăng
cường trí nhớ cho những cái tên riêng biệt, một lần đó là do hai quá trình nhận thực
cơ bản của bộ nhớ. Đầu tiên là sự gia tăng sức thu hút sự chú ý của sự mới lạ,
không bình thường, hoặc tên thương hiệu độc đáo. Nguyên nhân cơ bản thứ hai của
việc tăng cường bộ nhớ là có liên quan đến một thành phần động lực kích hoạt bởi
sự tò mò. đối với thu hút sự chú ý với, nó đã từ lâu đã được công nhận là bất
thường, đặc biệt, tương phản, hoặc kích thích sự mới lạ và dễ dàng nắm bắt sự chú
ý. [19] Lưu ý rằng tên thương hiệu riêng của mình không cần phải là duy nhất để
túm lấy được sự chú ý, miễn là nó là khác biệt trong bối cảnh của các loại sản
phẩm cụ thể mà nó xuất hiện hoặc cùng xuất hiện. Trong một loạt tên nhãn hiệu mà
tương tự nhau, cái tên mà gây sự khác biệt dễ dụ dỗ sự chú ý chúng ta và do đó mà
làm tăng xác suất của quá trình nhận thức nhiều hơn nữa dẫn đến trí nhớ dài hạn.
Ví dụ, từ rất phổ biến "quả táo" đã trở nên khá đặc biệt khi nó lần đầu tiên được áp
dụng cho các loại sản phẩm máy tính laptop , được gắn với thương hiệu Apple nổi
tiếng.
Các nhà tiếp thị phải xác định ý nghĩa của tên và phù hợp với ý nghĩa này với
mong muốn định hướng thương hiệu.
Một cách rõ ràng để tạo ra một thương hiệu đặc biệt và thu hút sự chú ý khác là
thông qua việc sử dụng ngữ âm trong nhãn hiệu mà những ngôn ngữ học gọi là âm
bật hơi. Các nhà nghiên cứu đã ghi nhận rằng một số lượng lớn trong số 200
thương hiệu hàng đầu được liệt kê muốn cách tiếp thị và truyền thông với người
tiêu dùng bằng quyết định bắt đầu với một âm bật hơi. [31], [35] . Âm bật hơi là
5
phụ âm như b, c, d, g, k, p, và t, trong đó, khi phát âm, như tiếng nổ, bộc phát. Tên
thương hiệu bắt đầu với âm bật hơi đã được tìm thấy và thực hiện làm tăng khả
năng nhớ tốt hơn đáng kể và đã được công nhận. Mặc dù không được đề cập cụ
thể, các nhà nghiên cứu ngụ ý rằng nguyên nhân có liên quan đến sự khác biệt,
những âm thanh "vui vẻ" được tạo ra bởi âm bật hơi.
Cách thứ hai, trong đó các đặc tính khác biệt tăng cường trí nhớ cho một tên
thương hiệu có liên quan đến sự tò mò kích thích tạo ra bởi các cái tên mới lạ. Sự
tò mò này cung cấp động lực có ý thức cần thiết, gây quan hệ tích cực với bộ nhớ.
Không bình thường, đặc biệt, tương phản, hoặc kích thích sự mới lạ dễ dàng nắm
bắt sự chú ý.
Là một lưu ý cuối cùng về các đặc tính khác biệt, nó là đáng giá để xem xét các
mối nguy hiểm mà một kích thích vô cùng mới lạ có thể tạo ra một hiệu ứng
"không chắc chắn ", và kết quả là một cảm giác khó chịu xuất hiện[ 3 ]Ví dụ, hầu
hết các thương hiệu vodka có một cái tên tiếng Nga như Smirnoff, Skol, Popov,
Wolfschmidt, v.v… Một vodka hiệu Timberline với tên tiếng Anh chắc chắn sẽ là
đặc biệt trong lớp sản phẩm này và đạt được một lợi thế trong bộ nhớ người tiêu
dùng do khác biệt này. Tuy nhiên, cái tên có thể là rất độc đáo mà người tiêu dùng
có thể không chắc chắn liệu nó thực sự là vodka. Do đó, thương hiệu Timberline có
thể được loại trừ khỏi của người tiêu dùng mặc dù nó được dễ dàng ghi nhớ .
3)
Tên thương hiệu nên gợi ra một hình ảnh trong tâm trí :
"Hình ảnh" ở đây đề cập đến khả năng của tên để tạo ra một vật ám ảnh trong tâm
trí của người tiêu dùng. Lời đánh giá cao về giá trị hình ảnh đã luôn thể hiện một
6
lợi thế trong việc thu hồi về từ ngữ, hình ảnh, cả hai nói chung và thiết lập thương
hiệu cụ thể. [1], [24], [29] Danh từ cụ thể, với hữu hình(ví dụ, "con chó") dễ dàng
gợi ra hơn những hình ảnh tinh thần hơn là danh từ trừu tượng (ví dụ, "công lý").
Do đó, các thương hiệu cụ thể như Dove, Rabbit, và Apple đã được dễ dàng thu
nhận và lấy từ bộ nhớ hơn tên trừu tượng như LG, Tempo, Samsung hoặc Bold.
Nhưng không có nghĩa thương hiệu như Samsung lại không gợi ra hình ảnh trong
tâm trí, nhắc đến Samsung, chúng ta liên tưởng liền đến những chiếc điện thoại,
tivi thông minh,… với những nhà máy, công nghệ hiện đại do họ tự gây dựng nên.
Ở Việt Nam, thương hiệu có kiểu kèm hình ảnh chưa nhiều, chưa đặc sắc. Ví dụ:
Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) nay đã có hình ảnh bông sen vàng.
4)
Tên thương hiệu tạo sức hút bằng từ tượng thanh :
Khi nghĩ về một loại sản phẩm đặc biệt, một người tiêu dùng có khả năng truy cập
bộ nhớ đến thông tin đã được phân loại rằng đó là một sản phẩm đẳng cấp. Sự liên
kết lời nói tự nhiên vào các loại sản phẩm, khi được sử dụng như là một tên thương
hiệu, có thể nhận thức và đã được lưu trữ trong não như là một sự đại diện .Do đó,
lời nói tự nhiên khi đã là một tên thương hiệu, và tinh thần kết nối tên đó với các
loại sản phẩm, trở nên dễ dàng hơn. Cần lưu ý rằng không có chỉ từ vựng (từ) là
cộng sự tự nhiên của loại sản phẩm, mà còn có những lúc, liên kết âm thanh tự
nhiên cũng được sử dụng. Cộng hưởng âm thanh hiện nay được sử dụng phổ biến,
7
khiến các nhà marketing có thể nâng cao tên thương hiệu vào bộ nhớ thông qua
việc sử dụng các từ tượng thanh vào tên thương hiệu. Từ tượng thanh là những từ
gồm âm tiết khi phát âm, tạo một âm thanh mạnh mẽ gợi về ý nghĩa từ (ví dụ, gag,
pop, cú đập). Thương hiệu kết hợp từ tượng thanh tự nhiên kết hợp với các loại sản
phẩm một cách độc đáo như: Cap'n Crunch (ngũ cốc), Woof n'Chirp (cửa hàng vật
nuôi), và Ping (câu lạc bộ golf), Pizza Hut ( cửa hàng đồ ăn nhanh ),…
5)
Tên thương hiệu nên là một từ mang cảm xúc:
Cảm xúc là điều chi phối hầu hết người tiêu dùng trong việc chọn lựa các mặt
hàng, từ phổ thông, hằng ngày đến xa xỉ, sang trọng. Việc mang lại cảm xúc tốt đẹp
cho người tiêu dùng sẽ tạo động lực, kích thích người mua chọn sản phẩm. Càng
ngày, các nhà nghiên cứu học thuật trong cả tâm lý và marketing hay cả ngôn ngữ
học ứng dụng càng quan tâm đến sự tương tác của cảm xúc và nhận thức. Cả ba
8
nghiên cứu tâm lý và tiếp thị, ngôn ngữ trong dòng này ngày càng tăng của nghiên
cứu đã kết luận rằng bộ nhớ được tăng cường cho tình cảm, rất thông cảm, lời nói
và tên thương hiệu [1], [14], [28]tài liệu nghiên cứu về marketing thực tế dường
như nhận ra sự cần thiết của tên cảm xúc bằng cách tham khảo việc đặt tên như tên
có tích cực mạnh mẽ hay ý nghĩa, phát sinh đối với cảm giác và có hiệu quả tốt,
khơi dậy những cảm xúc dễ chịu, nhưng dễ thương âm, và có biểu tượng mạnh mẽ.
[5],[ 15], [21], [26] Ví dụ về tên cảm xúc này là Joy, Kiss, Love, Johnson baby, …
Ngoài các thương hiệu cung cấp các kích thích cảm giác đơn thuần, họ có thể cũng
gợi lên tâm trạng tích cực hay tiêu cực và làm cho người tiêu dùng cảm thấy vui vẻ
và hạnh phúc hay tức giận và buồn chán. Trong quản lý thương hiệu và quảng cáo,
"xây dựng thương hiệu cảm xúc" đã nổi lên như là một sự thay thế mạnh mẽ với
các phương pháp tiếp thị trước đó, tập trung hoàn toàn vào các slogan bán hàng
độc đáo.
Một từ cảm xúc được sử dụng như một thương hiệu có vẻ đặc biệt nên khi các loại
sản phẩm chính là một cảm xúc. Đó là, người có nhiều khả năng nhớ lại những suy
nghĩ hạnh phúc khi ở trong một tâm trạng hạnh phúc, những kỉ niệm lãng mạn khi
trong một tâm trạng lãng mạn. Vì vậy, khi một khách hàng đang nghĩ về một loại
sản phẩm cảm xúc như nước hoa, nó sẽ dễ dàng để nhớ lại phù hợp với tên thương
hiệu cảm xúc, chẳng hạn như Kiss hay Love.
Cuối cùng, cần lưu ý rằng cảm xúc là một phản ứng rất cơ bản. Nó đã được nói
rằng "ý nghĩa tình cảm của một sản phẩm, hay của bất kỳ kích thích, đại diện cho
các mẫu số chung nhỏ nhất của phản ứng nhận thức để sản phẩm." [22] Hơn nữa,
bất kỳ phản ứng cảm xúc được tạo ra bởi một tên có xu hướng tự động hoá cao hơn
là dưới sự kiểm soát ý thức . Thực tế này ngụ ý rằng các phản ứng tình cảm với
một từ không thể bị ức chế và đòi hỏi ít hoặc không có khả năng xử lý hoặc sự chú
ý có ý thức. Do đó, lợi thế thu hồi tên có cảm xúc sẽ xuất hiện ngay tức thì.
6) Thương hiệu được xây dựng áp dụng với những âm thanh lặp lại :
Điệp âm, hòa âm, nhịp điệu, vần điệp là những đặc tính của ngôn ngữ học phản
ánh sự lặp đi lặp lại tự nhiên của âm thanh ( âm điệu) trong một tên thương hiệu.
Sự hiện diện của những âm thanh lặp lại này gây sự thích thú cho người nghe đem
9
lại cảm giác êm dịu, thú vị cùng một lúc mà nó góp phần mang lại ý nghĩa cho tên
thương hiệu. [5],[34]
Điệp âm( tiếng Anh) và từ láy( tiếng Việt) đề cập đến việc lặp lại của các phụ âm .
Ví dụ: Coca-Cola, Mường Thương,… Có rất nhiều tên thương hiệu kết hợp một số
loại âm thanh lặp đi lặp lại. Một số ví dụ về các tên như vậy bao gồm: Cascade,
Solo, Crispy Critters, Rolls-Royce, Pampers, Deep Dish Danish, Max-Pax, Lean
Cuisine, Gloss 'n Toss, and Shake 'n Bake, Coca Cola; M&M; Katchi-katchi;
Kicket; raft&roll.
7) Thương hiệu được xây dựng áp dụng với âm vị :
Âm vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ hơn về kích thước so với hình vị, chẳng hạn như
thư riêng âm thanh. Hầu hết các nhà ngôn ngữ chủ đạo không coi âm vị như truyền
đạt ý nghĩa phù hợp .[12] Tuy nhiên, vấn đề của biểu tượng ngữ âm (nghĩa) tiếp tục
được đưa ra bởi các nhà nghiên cứu. Bằng chứng hiện tại cho thấy rằng có một sự
tương quan rất thấp giữa các cấu trúc ngữ âm của từ hiện và ý nghĩa của những từ
này. Tuy nhiên, nếu trình bày với “nonwords” và một chiều hướng ngữ nghĩa trên
đó để đặt lời như vậy, đối tượng có thể hiển thị thỏa thuận đáng kể trong các bài
tập ý nghĩa của chúng. Ví dụ, khi được hỏi tới "mal" và "mil" (chỉ khác nhau ở các
âm vị nguyên âm / a / hay / i /) dọc theo chiều ngữ nghĩa của kích thước, khoảng
80 phần trăm của các đối tượng nghiên cứu đồng ý rằng "mal" đại diện cho một đối
tượng lớn và "mil" một đối tượng nhỏ hơn.
Từ một góc nhìn thương hiệu, sau đó, ý nghĩa ngữ âm có nhiều khả năng phù hợp
khi một tên thương hiệu nonword được sử dụng, và người tiêu dùng được đưa ra
10
một chiều ngữ nghĩa trên đó để tạo ra ý nghĩa. Điều này, tất nhiên, là khá phổ biến
trong các tình huống tiếp thị, nơi một chủ đề quảng cáo hay khẩu hiệu phục vụ để
tạo ra một không gian ngữ nghĩa thích hợp khi mà các nhà tiếp thị muốn một
thương hiệu được đánh giá. Ví dụ, khẩu hiệu "chúng tôi bán bánh mì kẹp thịt lớn
nhất trong nơi" khuyến khích đánh giá theo chiều hướng ngữ nghĩa của kích thước.
Nếu hình ảnh thương hiệu mong muốn là một trong bánh mì kẹp thịt lớn, một
thương hiệu như Mal Burgers có nhiều khả năng để hỗ trợ cho rằng hình ảnh đó
hơn là tên Mil Burgers.
Giữ trong tâm trí hai yêu cầu cơ bản cần thiết cho việc giải thích ý nghĩa phù hợp,
ý nghĩa âm vị sau đây đã được đề xuất trong ngôn ngữ và tài liệu nghiên cứu
marketing : (1)Kích thước: cao, nguyên âm trước âm thanh (i, e) bao hàm một kích
thước nhỏ trong khi thấp, trở lại nguyên âm (a, o, u) chỉ ra một kích thước lớn (ví
dụ như, Zee so với Koss); (2) Phong trào: cao, phía trước nguyên âm cho thấy
chuyển động năng động; (3) Hình dạng: các cấp âm thanh có độ cao, nguyên âm
trước chỉ sắc nét, hình khối góc cạnh trong khi nguyên âm phẳng kết hợp với thấp
trở xuống cho thấy hình dạng tròn (4) Giống: giống đực được kết hợp với âm
thanh âm bật và yết hầu (như trong "tiger" hay "lion"), trong khi giống cái được kết
hợp với âm xát mềm s và x, âm thanh yếu và cao, (ví dụ, Sunsilk , Zepher, và
Cerissa. )
III)
Tổng kết và kết luận :
Các nhà quản lý phải đối mặt với nhiệm vụ lựa chọn một cái tên đủ "tốt" cho một
sản phẩm, dịch vụ, hoặc công ty nên được hướng dẫn bởi các khái quát sau đây:
1.Tên thương hiệu phải là một từ đơn giản.
2. Tên thương hiệu phải là một từ có tính khu biệt.
3. Tên thương hiệu phải khơi gợi hình ảnh trong tâm trí.
4. Tên thương hiệu tạo sức hút bằng từ tượng thanh :
5. Tên thương hiệu nên là một từ mang cảm xúc:
6. Các thương hiệu nên áp dụng những âm thanh lặp lại.
11
7. Tên thương hiệu nên áp dụng nghiên cứu về âm vị.
Các khái quát trên đây dựa trên tiền đề rằng tên thương hiệu đủ “tốt” sẽ hỗ trợ các
hình ảnh mong muốn cho các sản phẩm và sẽ dễ dàng nhớ lại bởi người tiêu dùng.
Có thể có những tiêu chí khác mà trên đó để đánh giá giá trị của một thương hiệu
(ví dụ, có hoặc không có tên được lựa chọn được bảo hộ hợp pháp hoặc nếu tên
"phù hợp" với các mảng của các tên đã được sử dụng bởi các công ty) và cũng xem
xét các tiêu chí lựa chọn cuối cùng trước khi lựa chọn một thương hiệu thích hợp.
Tất nhiên, người quản lý cũng phải tận dụng đầy đủ các nghiên cứu có sẵn mà
tránh vấp phải những khó khăn họ có thể đối mặt.
IV)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Văn Đức, Nguyễn Văn Chính, Đinh Kiều Châu, “ Ngôn ngữ học ứng dụng” ,
(2016), 160-168.
2. Bower, G. H., "Mood and Memory," American Psychologist, (1981), 129-148.
3. Britt, Stuart Henderson, Psychological Principles of Marketing and Consumer
Behavior. Lexington, Mass .: Lexington Books, 1978.
4. Chaffin, Tom, "What's In a Name," Madison Avenue, 1985, 66-70.
5. Charmasson, Henri,” The Name is the Game”. Homewood, Ill .: Dow Jones-Irwin,
1988.
6. Cohen, Dorothy, "Trademark Strategy," Journal of Marketing, (1986), 61-74.
7. Bock, Michael, and Eric Klinger, "Interaction of Emotion and Cognition in Word
Recall," Psychological Research, (1986), 99-106.
8. Doeden, Daniel L., "How to Select a Brand Name," Marketing Communications, 1981,
58-61.
9. Dogana, Fernando, "Psycholinguistic Contribution to the Problem of Brand
Names, "European Marketing Research Review", (1967), 50-58.
12
10. Gershman, Michael, "The New Product Name Game," Management Review, " 1986 ,
20-21.
11. Hemnes, Thomas M. S., "Perspectives of a Trademark Attorney on the Branding of
Innovative Products, "Journal of Product Innovation Management, (1987), 217-224.
12. Jakobson, R., Six Lectures on Sound and Meaning. Cambridge, Mass .: MIT Press,
1978.
13. Kanungo, Rabindra N., "Brand Awareness: Effects of Fittingness, meaningfulness,
and Product Utility, "Journal of Applied Psychology, (1968), 290-295.
14. Kanungo, Rabindra N., "Retention of Affective Material," Journal of Personality and
Social Psychology, ( 1968), 63-68.
15. Katze, Helen M., "Get Tough When Choosing a Name for Your Product," Marketing
News, (1986), 26-27.
16. Langacker, R. W., Fundamentals of Linguistic Analysis. New York: Harcourt Brace
Jovanovich, 1972.
17. Lass, N. J., G. A. DiCola, A. S. Beverly, C. Barbera, Henry G. K., and M. K. Badali,
"The Effect Complexity of phonetic Height and Weight on Speaker Identification,
"Language and Speech, (1979), 297-309.
18. Leff, Suzanne, "Checklist: Dos and Don'ts of Naming 10," Public Relations Journal,
1987, 37-38.
19. Mandler, George, George O. Goodman and Deanna L. Wilkes-Gibbs, "The WordFrequency Recognition printing Paradox, "Memory and Cognition, (1982), 33-42.
20. Martineau, Pierre, Motivation in Advertising. New York: McGraw-Hill, 1957.
21. McGuire, William J., "Some Psychological Factors Influencing Consumer Choice
Internal" Journal of Consumer Research, (1976), 302-319.
22. Mehrabian, Albert, and Robert deWetter, "Experimental Test of an Emotion-Based
Approach Brand Names to Fitting to Products, "Journal of Applied Psychology, (1987),
125-130.
23. Oliver, Brian, "Hungry for Names," Marketing, 1987, 39-40.
24. Paivio, A., Imagery and Verbal Processes. New York: Holt, Rinehart, and Winston,
1971.
13
25. Peterson, Robert A., and Ivan Ross, "How to Name New Brands," Journal of
Advertising Research, (1972), 29-34.
26. Pope, Jeffrey L., Practical Marketing Research. New York: AMACOM, 1981.
27. Ries, Al, and Jack Trout, Positioning: The Battle for Your Mind. New York: McGrawHill, 1981.
28. Robertson, Kim R., "Cognitive Processing of Brand Names," Dissertation Abstracts
International, (1983), 4022A.
29. Robertson, Kim R., "Recall Effects of Brand Name Recognition and Imagery,"
Psychology and Marketing, (1987), 3-15.
30. Sapir, E., "A Study in phonetic symbolism," Journal of Experimental Psychology,
(1929), 225-239.
31. Schloss, Ira, "Chickens and Pickles: Choosing a Brand Name," Journal of Advertising
Research, (1981), 47-49.
32. TARTE, R. D., and L. S. Barritt, "phonetic symbolism in Adult Native Speakers of
English: Three Studies, "Language and Speech, (1971), 158-168.
33. Trachtenberg, Jeffrey A., "Name That Brand," Forbes, 1985, 128- 130.
34. Vanden Bergh, Bruce G., Janay Collins, Myrna Schultz, and Keith Adler, "Sound
Advice on Brand Names, "Journalism Quarterly, (1984), 835-840.
35. Vanden Bergh, G. Bruce, Keith Adler, and Lauren Oliver, "Linguistic Distinction
Among Top Brand Names, "Journal of Advertising Research, 1987, 39-44.
14