Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.36 KB, 13 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
GIẢNG VIÊN: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ LỚP: CH K32 -2 TT7 -A 212
HỌC VIÊN: NGUYỄN TIẾN DŨNG - 522202070674
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2023
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>2.1. Vận dụng của V.I.Lênin trong thực tiễn cách mạng Nga: ... 4 </small>
<small>2.2. Vận dụng của Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam: ... 5 </small>
<small>2.3. Vận dụng của Đảng Cộng sản Việt nam trong công cuộc đổi mới đất nước: ... 7 </small>
<small>2.4. Vận dụng của bản thân vào chuyên môn: ... 10 </small>
<small>3. Kết luận ... 11 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>1 </small>
Như chúng ta đã biết, mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng cũng như mọi lĩnh vực của đời sống. Từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy của con người… tất cả những lĩnh vực đó nếu thiếu đi mâu thuẫn cơ bản tạo thành sự vật, hiện tượng đó thì bản thân sự vật, hiện tượng khơng cịn khả năng tồn tại. Mâu thuẫn có từ khi sự vật, hiện tượng xuất hiện và chính nó là động lực cho sự phát triển, là nguồn gốc của sự vận động bên trong sự vật, hiện tượng. Chính vì vậy, việc nắm được sự kết hợp giữa các mặt đối lập để vận dụng vào cuộc sống đời thường và cơng việc chun mơn có một ý nghĩa rất quan trọng.
1. LÝ LUẬN: 1.1.1. Định nghĩa:
Nói về ba quy luật cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật, V.I Lênin đã phát biểu rằng quy luật của sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là “hạt nhân của phép biện chứng” bởi vì quy luật này đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển của sự vật, và là chìa khóa giúp chúng ta nắm vững thực chất của các quy luật cơ bản và các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
1.1.2. Nội dung
Mọi sự vật hiện tượng diễn ra trên thế giới đều có liên hệ lẫn nhau và luôn vận động, phát triển; sự vận động phát triển do các mâu thuẫn gây ra, các mâu thuẫn biện chứng khác nhau tác động khơng giống nhau đến q trình vận động, phát triển của sự vật. Mỗi mâu thuẫn biện chứng đều trải qua ba giai đoạn: hình thành (sự xuất hiện của các mặt đối lập) – hiện hữu (sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập) – giải quyết (sự chuyển hóa của các mặt đối lập).
Mâu thuẫn biện chứng được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời với những mâu thuẫn biện chứng mới hay thay đổi vai trò tác động của các mâu thuẫn biện chứng cũ.
Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển xảy ra trong thế gới vật chất. Vận động, phát triển mang tính tự thân.
Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập mang tính khách quan và phổ biến. Tất cả các sự vật hiện tượng xảy ra đều luôn khác nhau, nhưng đều tồn tại trong một
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>2 </small>
mối quan hệ phổ biến với nhau theo những cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nó có tính khách quan do đó là những thứ vốn có trong các sự vật hiện tượng và có tính phổ biến do sự thống nhất và đáu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong tất cả lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Vì những tính chất khách quan và phổ biến đó nên nó có tính đa dạng và phức tạp. Có thể nói các khác, trong mỗi sự vật hiện tượng khơng chỉ có một mẫu thuẫn mà có đa dạng các mâu thuẫn, sự đấu tranh đạt đến một mức độ nào đó thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới sẽ ra đời. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới ra đời và hình thành một quá trình mới, làm cho sự vật không ngừng vận động và phát triển.
Một số điều cần lưu ý khi xem xét các mặt đối lập:
- Tất cả những đối lập đều xuất phát từ sự đối lập giữa những thuộc tính nhất định. Ví dụ: sự đối lập giữa làm chủ và làm thuê, giữa áp bức và bị áp lực, thống trí và bị trị… Những thuộc tính này sở dĩ đối lập nhau vì chúng có những khuynh hướng vận động trái ngược nhau, bài trừ, chống đối nhau.
- Không phải là tất cả, mà chỉ có một số thuộc tính trong các bộ phận, sự vật, hệ thống đó đối lập với nhau. Ví dụ: sự đối lập giữa hai giai cấp khơng có nghĩa là tất cả những gì thuộc hai giai cấp đó đối lập nhau.
- Sự đối lập giữa hai sự vật, bộ phận, hệ thống có thể là sự đối lập giữa các thuộc tính cơ bản, cũng có thể là thuộc tính khơng cơ bản.
- Sự đối lập giữa hai sự vật, bộ phận, hệ thống có thể là sự đối lập giữa các thuộc tính tất nhiên, cũng có thể là sự đối lập giữa một số dấu hiệu khơng tất nhiên. 1.1.3. Vai trị:
Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt: thống nhất của các mặt đối lập và đâu tranh của hai mặt đối lập. Trong đó: thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối, còn đấu tranh giữa hai mặt đối lập là tuyệt đối. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vận động và phát triển của sự vật là tự thân và diễn ra liên tục. Tính tương đối của thống nhất giữa các mặt đối lập làm cho thế giới vật chất phân hóa thành các bộ phận, các sự vật đa dạng phức tạp, giai đoạn … Như vậy, mâu thuẫn là khách quan phổ biến, đa dạng. Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thống nhất của các mặt đối lập.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><small>3 </small>
Chính sự đấu tranh của các mặt đối lập và sự chuyển hóa giữa chúng là nguồn gốc, động lực của sù phát triển
1.1.4. Điều kiện của kết hợp các mặt đối lập:
Mâu thuẫn của sự vật, biêu rhienej ở cuộc đáu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát triển sự vật đó. Trong tư tưởng biện chứng của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin về mâu thuẫn, khi quan niệm nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của sự vật khách quan đề bắt nguồn từ mâu thuẫn bên trong, các tác giả luôn chú trọng giải quyết những vấn đề liên quan đến mâu thuẫn, đó là vấn đề thống nhất, vấn đề đấu tranh, các vấn đề kết hợp các mặt đối lập. Trong đó vấn đề kết hợp các mặt đối lập được các ơng xem xét với tính cách là một biểu hiện hoạt động của chủ thể con người trong việc giải quyết một số mâu thuẫn xã hội cụ thể nhất định, trên cơ sở nhận thức sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập trong mâu thuẫn này.
Chúng ta cần tiếp cập từ ba góc độ khi đề cập đến vấn đề thống nhất giữa các mặt đối lập trong một mâu thuẫn biện chứng:
- Xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ bản thể luận, tức là sự thống nhất khách quan vốn có của chúng. Sự thống nhất có tính tương đối, thống nhất trong sự khác biệt, kể cả sự đối lập.
- Xem xét dự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ nhận thức luận. Việc cần làm ở đây là vạch ra những mặt đối lập đang tồn tại, ẩn náu dưới vỏ bọc thống nhất hoàn chỉnh. Đứng dưới góc độ mâu thuẫn khơng tự bộc lộ ra mà nó tồn tại bên trong, điều này là không đơn giản, tùy thuộc vào nhân tố chủ quan của chủ thể.
- Xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ thực tiễn. Trên cơ sở nhận thức sự thống nhất giữa các mặt đối lập giữa một mâu thuẫn nhất định, chủ thể có thể thực hiện việc kết hợp các mặt đối lập để từ đó tạo điều kiện giải quyết mâu thuẫn được tốt. Dĩ nhiên vì đây là biểu hiện hoạt động của chủ thể cho nên việc kết hợp các mặt đối lập cũng xuất phát từ nhu cầu lợi ích của chủ thể. Có thể khẳng định sự kết hợp các mặt đối lập phản ánh mối quan hệ biện
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>4 </small>
chứng giữa điều kiện khách quan, tính tất yếu khách quan với nhân tố chủ quan. Một mặt, con người với tư cách chủ thể tiến hành hoạt động kết hợp các mặt đối lập nhằm giải quyết một mâu thuẫn xã hội cụ thể theo hướng có lợi cho bản thân, đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của bản thân; song mặt khác, đó lại khơng phải là hoạt động chủ quan tùy tiện, mà phải trên cơ sở nhận thức đúng và tuân theo những yêu cầu khách quan, cũng như những điều kiện khách quan của việc giải quyết mâu thuẫn đó.
Việc kết hợp các mặt đối lập không phải là hoạt động mang tính chủ quan thuần túy, tùy tiện vơ ngun tắc mà phải với tư cách là các hoạt động tích cực của hoạt động chủ quan, dựa trên cơ sở khách quan, có tính định hướng rõ ràng. Đảm bảo quá trình vừa thống nhất, vừa đáu tranh giwuax các mặt đối lập trong một chỉnh thể mâu thuẫn xã hội cụ thể, sự tiến bộ sẽ dần chiến thắng và thay thế cho sự lạc hậu.
Trong xã hội, cái mới và cái cũ luôn đan xen và gắn bó với nhau, vừa thống nhất vừa đấu tranh. Vai trò của các mới đối với sự phát triển chỉ được phát huy trên cơ sở phủ định biện chứng. Cái cũ dù là nhân tố về cơ bản là kìm hãm sự phát triển song khơng vì thế mà khơng chứa những yếu tố góp phần cho sự phát triển, cho nên cái mới cần biết kế thừa.
2. VẬN DỤNG:
2.1. Vận dụng của V.I.Lênin trong thực tiễn cách mạng Nga:
V.I.Lênin chính là người đầu tiên vận dụng tư tưởng kết hợp các mặt đối lập trong giải quyết mâu thuẫn xã hội vào thực tiễn của đất nước. Người đã cho thấy vấn đề kết hợp các mặt đối lập là một yêu cầu tất yếu khách quan đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước Nga lúc bấy giờ. Theo V.I.Lênin, trong quá trình giải quyết mâu thuẫn xã hội, một tư duy biện chứng phải thể hiện bằng khả năng biết kết hợp các mặt đối lập.
V.I.Lênin cho rằng việc kết hợp các măt đối lập không phải chỉ là một biểu hiện của tư duy biện chứng trong việc nhận thức, giải quyết mâu thuẫn nói chung, và
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>5 </small>
quan trọng hơn, đây phải được coi như một chính sách thực tiễn quan trọng của Đảng và nhà nước Xô viết. Mục đích của chính sách thực tiễn này chính là nhằm kết hợp được như thế nào đó các mặt đối lập đang tồn tại khách quan trong đời sống xã hội. Qua đó tạo điều kiện giải quyết mâu thuẫn tốt hơn, thúc đẩy nhanh quá trình phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng, đó là sự biểu hiện của việc vận dụng chủ nghĩa Mác, vận dụng phép biện chứng của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn cách mạng.
2.2. Vận dụng của Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam:
Trong khi mâu thuẫn dân tộc nổi lên gay gắt, vấn đề giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, thì phương pháp luận mà Hồ Chí Minh ln qn xuyến là phát huy những yếu tố tương đồng, khai thác cái giống nhau để loại bỏ cái khác nhau, tìm ra điểm chung của tồn dân tộc thay vì sự loại trừ lẫn nhau giữa các nhân tố cấu thành cộng đồng dân tộc. ở đây, vấn đề kết hợp các mặt đối lập của phép biện chứng được Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo trong đường lối cũng như trong phương pháp, trong chiến lược cũng như trong sách lược cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Khái niệm “kết hợp” có nghĩa là có sự khác nhau mà chúng ta cần phải kết hợp với nhau. Khái niệm “kết hợp” có nghĩa là phải biết vận dụng các biện pháp của chính quyền nhà nước để bảo vệ những lợi ích vật chất và tinh thần của giai cấp vô sản đã hồn tồn hợp lại để cho nó khỏi bị chính quyền nhà nước đó xâm phạm”.
Hồ Chí Minh chính là nhà chính trị rất thành thạo trong việc làm thế nào và khi nào có thể và cần phải kết hợp các mặt đối lập. Khi mà thực dân Pháp rồi đến phát xít Nhật xâm chiếm nước ta, mâu thuẫn dân tộc bao trùm lên xã hội Việt Nam; khi mà quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, Hồ Chí Minh kêu gọi “phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nịi ra khỏi nước sơi lửa bỏng”. Hồ Chí Minh ln đặt trung tâm sự chú ý của mình vào việc phát hiện ra sự đồng nhất, sự nhất trí, sự tương đồng giữa các tầng lớp, các giai cấp xã hội nhằm làm cho họ ngày càng xích lại gần nhau để đấu tranh vì quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy. Lúc này sự tương đồng lớn nhất của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam là
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><small>6 </small>
giải phóng dân tộc. Chính sự tương đồng lớn nhất đó là cơ sở khách quan để các giai cấp, các tầng lớp khác nhau cố kết, quy tụ lại thành khối đại đoàn kết dân tộc. Biết phát huy sự tương đồng, tạo ra sự kết hợp các mặt đối lập là phép biện chứng cách mạng, là bản lĩnh chính trị đặc biệt, là nghệ thuật ứng xử tuyệt vời của Hồ Chí Minh trong mỗi bước ngoặt lịch sử.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chiến lược sáng suốt lúc này là làm sao củng cố, giữ vững chính quyền cách mạng đang còn trong “trứng nước”. Tư duy chiến lược của Hồ Chí Minh là quy tụ cho được lực lượng tồn dân “khơng phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lịng u nước thương nịi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp tồn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đánh tan giặc Pháp – Nhật xâm chiếm nước ta. Sự liên minh tất cả lực lượng của các giai cấp, đảng phái, các nhóm cách mạng cứu nước, các tôn giáo các dân tộc kháng Nhật, đó là cơng việc cốt yếu của Đảng ta”.
Sau Cách mạng Tháng Tám, nhiều tổ chức và đảng phái chính trị phản động chống phá cách mạng quyết liệt, Hồ Chí Minh áp dụng sách lược thỏa hiệp và nhân nhượng với Tưởng để loại trừ một trong số kẻ địch nguy hiểm nhất.
Đối với bọn thực dân Pháp, kẻ thù cụ thể trước mắt, Hồ Chí Minh cũng vận dụng phép biện chứng kết hợp các mặt đối lập. Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 là một trường hợp điển hình về sự kết hợp đó. Trong tình hình mà ta và Pháp tìm thấy điểm chung là cần hịa hoãn để chuẩn bị lực lượng, lùi một bước để rồi lại tiến cơng mạnh hơn, do đó hai bên có nhu cầu phải ký Hiệp định 6-3-1946. ở đây, Hồ Chí Minh phân biệt rõ trong những trường hợp nào cần phải kết hợp các mặt đối lập, và trong trường hợp nào không thể kết hợp được. Đối với Người, điều đó tùy thuộc ở điều kiện khách quan, chứ không tùy thuộc ở nguyện vọng chủ quan muốn hay không muốn kết hợp. Và ngay trong những trường hợp không thể tránh được sự kết hợp các mặt đối lập, thì về phương diện chỉ đạo chiến lược và sách lược, Hồ Chí Minh phân tích tỉ mỉ hồn cảnh đặc thù cũng như những điều kiện cụ thể của mỗi
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><small>7 </small>
một sự kết hợp, hay của từng loại kết hợp đối với kẻ thù dân tộc và ý thức một cách đầy đủ rằng đó chỉ là một sự kết hợp tạm thời, để rồi chọn một lối đi khác, và bằng con đường có thể là quanh co, ngoắt ngoéo, đưa cách mạng chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, hoàn thành mục tiêu chiến lược cơ bản.
Trong nghệ thuật chỉ đạo cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta ln ln phân biệt lúc nào thì không thể kết hợp các mặt đối lập, biết suy xét kịp thời, quyết đoán mau lẹ những vấn đề mà trong đó biểu hiện ra sự kết hợp không thể dung thứ được, sự kết hợp mà hiện thân của nó là chủ nghĩa cơ hội nguy hại. Nhưng, ngay trong những trường hợp không tránh được sự kết hợp các mặt đối lập, thì Hồ Chí Minh bao giờ cũng trung thành với lời dặn của Lênin rằng, phải biết xuyên qua mọi sự kết hợp ấy mà “giữ lấy thái độ trung thành với những nguyên tắc của mình, với giai cấp của mình, với nhiệm vụ cách mạng của mình, với sự nghiệp của mình là chuẩn bị cuộc cách mạng và giáo dục quần chúng để đi đến cách mạng thành công”. Phép biện chứng chỉ rõ kết hợp các mặt đối lập mà không xa rời nguyên tắc, vẫn giữ được bản lĩnh và thanh danh chính trị của mình, đó là một sự kết hợp đúng đắn, có nguyên tắc, một sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong chiến lược và sách lược, trong phương pháp và nghệ thuật lãnh đạo của Đảng.
Không chỉ trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội... Hồ Chí Minh chủ trương kết hợp các mặt đối lập, mà trong quan hệ xã hội giữa người và người, kể cả những kẻ lầm đường lạc lối, Người quan tâm đến chữ “đồng” tìm ra cái chung, cái đồng nhất để chân thành hợp tác, cố kết họ lại vì lợi ích đại cục. Đức độ và nhân cách cao cả của Người thể hiện qua dòng tư tưởng lớn sau đây: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp lại nơi bàn tay.
2.3. Vận dụng của Đảng Cộng sản Việt nam trong công cuộc đổi mới đất nước:
Đại hội XII của Đảng (2016) khẳng định: “Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><small>8 </small>
chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”
Các mối quan hệ này đã được đề cập trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và được Đại hội XII tiếp tục bổ sung, có những mối quan hệ có mâu thuẫn, trong đó các mặt đối lập đều có tính tất yếu tồn tại và có vai trị nhất định trong sự phát triển của xã hội XHCN. Do vậy, việc tiếp cận và giải quyết chúng đòi hỏi phải có cơ sở lý luận khoa học. Đó chính là lý luận của V.I.Lênin về sự kết hợp các mặt đối lập.
Đại hội XII đã nêu những mối quan hệ lớn cần phải được quán triệt và xử lý. Chúng ta hiểu quán triệt nghĩa là hiểu thấu vai trò, lý do tồn tại của từng mặt và mối quan hệ tác động, bổ sung lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau giữa chúng. Xử lý nghĩa là tìm ra phương pháp tối ưu để giải quyết mâu thuẫn giữa chúng, bởi vì trong các mối quan hệ, có những mặt khơng chỉ có tác động cùng chiều, bổ sung, thúc đẩy lẫn nhau, mà cịn có tác động ngược chiều, nghĩa là mâu thuẫn với nhau. Trong trường hợp những mặt có mâu thuẫn với nhau thì vấn đề khơng phải là xóa bỏ một mặt, giữ lại mặt kia mà là phải biết “kết hợp các mặt đối lập”. Ở đây, xin đề cập hai trong số các mối quan hệ lớn:
Một là, mối quan hệ “giữa việc tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”
- Đây là sự cụ thể hóa mối quan hệ có mâu thuẫn giữa kinh tế với chính trị - xã hội trong điều kiện xây dựng CNXH. Kinh tế và quan hệ sản xuất là lĩnh vực vật chấtcủa xã hội - nó chỉ quan tâm đến “năng suất, chất lượng, hiệu quả”, vấn đề tình cảm, lương tâm trở thành thứ yếu. Còn mối quan tâm của lĩnh vực chính trị và xã hội lại là lợi ích cộng đồng, trong đó sự giúp đỡ những người nghèo, bệnh tật, người già cô đơn không nơi nương tựa... lại rất được coi trọng. Do
</div>