Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Lý luận về kết hợp giữa các mặt đối lập và sự vận dụng tư tưởng này trong các cuộc đấu tranh và đổi mới bằng chứng qua cuộc cách mạng tháng mười nga và cách mạng tháng tám năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA: KHOA HỌC XÃ HỘI

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài:

Lý luận về kết hợp giữa các mặt đối lập và sự vận dụng tư
tưởng này trong các cuộc đấu tranh và đổi mới: bằng
chứng qua cuộc Cách mạng tháng Mười Nga và Cách
mạng
tháng Tám năm 1945
Học viên:

Phạm Nguyễn Trang Anh

Giảng viên hướng dẫn:

TS. Trần Nguyên Ký

Lớp:

20C1PHI61000425

Khóa:

30.2-CH


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................1


PHẦN I. LÝ LUẬN VỀ SỰ KẾT HỢP CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP......................................2
1.

Quy luật thống nhất và mâu thuẫn giữa các mặt đối lập của phép biện chứng:..............................................2

2.

Ý nghĩa phương pháp luận:...............................................................................................................................4

PHẦN 2. VẬN DỤNG THỰC TIỄN....................................................................................5
1.

Sự vận dụng của Lenin về quy luật mâu thuẫn trong thời kỳ thực tiễn cách mạng Nga:............................................5

2.

Sự vận dụng của Hồ Chí Minh thể hiện trong thực tiễn cách mạng Việt Nam:.........................................................8

3.

Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong công cuộc đổi mới đất nước:.................................................11

KẾT....................................................................................................................................15
Tài liệu tham khảo:............................................................................................................16


LỜI MỞ ĐẦU
Trong mỗi một sự vật đều có các mặt đối lập. Các mặt đối lập vừa đấu tranh, phủ định
nhau, vừa thống nhất và cùng tồn tại song song để phát triển. Từ định nghĩa này, với mong muốn
tìm hiểu và làm rõ thêm những luận điểm của V.I.Lênin về kết hợp các mặt đối lập, bài tiểu

luận:” Lý luận về kết hợp giữa các mặt đối lập và sự vận dụng tư tưởng này trong các cuộc đấu
tranh và đổi mới” sẽ đi vào giải thích các định nghĩa, nêu rõ bản chất kết hợp của các mặt đối
lập, vai trò và điều kiện kết hợp của chúng được chứng minh qua cuộc Cách mạng tháng Mười
Nga và cơng cuộc đổi mới đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.
Qua đây em cũng xin chân thành cảm ơn thầy Trần Nguyên Ký và cuốn sách “SỰ KẾT
HỢP CÁC MẶT ĐỐI LẬP TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY” do thầy làm tác giả đã giúp ích em rất nhiều trong q trình làm tiểu luận.

Chân thành cảm ơn!


PHẦN I. LÝ LUẬN VỀ SỰ KẾT HỢP CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
1. Quy luật thống nhất và mâu thuẫn giữa các mặt đối lập của phép biện chứng:
Cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy - biện chứng và siêu hình là một phần quan trọng
trong lịch sử hình thành và phát triển quá trình tư duy triết học và được hoàn thiện dần với thắng
lợi của tư duy biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp, bao gồm hệ
thống các quy luật, phạm trù phản ánh đúng đắn thế giới khách quan và định hướng cho con
người trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Phép biện chứng duy vật không chỉ khái quát
những thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể, mà còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình
phát triển tư tưởng triết học của nhân loại.
Trong tư tưởng biện chứng của Các Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về mâu thuẫn, khi quan
niệm nguồn gốc của sự vận động, phát triển của sự vật khách quan đều bắt nguồn từ mâu thuẫn
bên trong, các ông luôn chú trọng giải quyết những vấn đề liên quan đến mâu thuẫn, đó là vấn
đề thống nhất, vấn đề đấu tranh và vấn đề kết hợp các mặt đối lập. Hay nói cách khác, mâu
thuẫn chính là hạt nhân của phép biện chứng.
Theo quan điểm biện chứng, mọi sự vật đều có các mặt, xu hướng trái ngược nhau, hồn tồn
đối lập. Khi nói mâu thuẫn biện chứng là nói đến mâu thuẫn tất yếu của những mặt trái ngược
nhau, ví dụ, nam châm có hai cực nam và bắc. Chính sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập
tạo nên mâu thuẫn sự vật. Một trong các phương thức giải quyết mâu thuẫn chính là đấu tranh.

Hình thức đấu tranh rất đa dạng, linh hoạt, tùy thuộc vào hoàn cảnh và bản chất của mâu thuẫn
đó.
Mâu thuẫn khơng chỉ được thể hiện ở việc đấu tranh giữa các mặt đối lập mà còn thể hiện
qua cách các mặt đối lập thống nhất, hòa quyện với nhau. Đấu tranh bắt nguồn từ bản chất mặt
này khác mặt kia. Nhưng không phải lúc nào sự khác nhau dẫn đến đấu tranh, mà các mặt đối
lập sẽ hòa quyện, tạo nên sự thống nhất. Thống nhất có nghĩa là cùng nhau tồn tại, phát triển, có


mặt này thì mới có mặt kia. Sự thống nhất tạo ràng buộc, làm điều kiện cho sự tồn tại của các
mặt đối lập. Ngồi ra, thống nhất cịn có nghĩa là mặt này bao hàm, chứa đựng mặt kia. Chính vì
vậy, chúng ta khơng nên tạo ra hàng rào tuyệt đối giữa các mặt đối lập mà phải thấy được có sự
chuyển hố giữa chúng. Ví dụ như khi cực bắc, cực nam của nam châm lại gần, chúng sẽ hút
nhau, dính chặt với nhau. Hoặc tạo hóa đã hình thành ngày, đêm, chia đều 24 giờ. Khơng thể
một mặt của Trái Đất chỉ có ban ngày và ngược lại. Như vậy, con người và sinh vật không thể
tồn tại lâu và phát triển bền vững.
Có thể nói khi đề cập tới vấn đề thống nhất giữa các mặt đối lập trong một mâu thuẫn biện
chứng, người ta có thể và cần phải tiếp cận từ ba góc độ cụ thể sau:
 Thứ nhất, ta cần xem xét trên góc độ bản thể luận, tức sự thống nhất khách quan vốn có
của chúng.
 Thứ hai, ta cần xem xét trên góc độ nhận thức luận, tức là dựa trên nhận thức của con
người. Con người có nhiệm vụ là phải phát hiện, vạch ra những mặt đối lập đang tồn tại,
ẩn náu bên dưới cái vỏ thống nhất hoàn chỉnh.
 Thứ ba, ta cần xem xét trên góc độ góc độ thực tiễn. Tức là ta áp dụng kết hợp các mặt
đối lập với nhau để từ đó tạo điều kiện giải quyết mâu thuẫn. Tuy nhiên, ta không phải
lúc nào cũng có thể kết hợp được và càng khơng nên làm theo chủ quan, cảm tính thuần
túy, dễ dẫn đến tùy tiện, vô nguyên tắc. ta phải kết hợp làm sao cho quá trình vừa thống
nhất vừa đấu tranh giữa các mặt đối lập trong một chỉnh thể mâu thuẫn xã hội cụ thể, mặt
đối lập đại diện cho sự tiến bộ sẽ dần dần chiến thắng được mặt đối lập đại diện cho sự
lạc hậu. Có như vậy việc giải quyết mâu thuẫn xã hội mới đem lại động lực thúc đẩy sự
phát triển của xã hội, phù hợp với quy luật khách quan của xã hội.

Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có vai trị chính yếu trong sư phát triển của
sự vật. Tuy nhiên, tùy từng giai đoạn và hoàn cảnh phát triển mà ta cần chọn lựa đúng giữa việc
thống nhất hay đấu tranh. Khi sự vật còn ở giai đoạn phát triển, khi mâu thuẫn chưa gay gắt thì


khi đó cách giải quyết là thống nhất, cịn khi mâu thuẫn trở nên gay gắt, thì khi đó cách giải
quyết là đấu tranh.
Trong sự phát triển của xã hội từ trước đến nay, không phải cái mới nào cũng thay hồn tồn
cho cái cũ. Có những cái mới khơng tách rời nhau mà gắn bó với cái cũ, đan xen nhau, vừa
thống nhất vừa đấu tranh với nhau. Cái mới phát triển trên nền tảng kế thừa từ cái cũ. Bởi vì,
bản thân cái cũ vẫn chứa đựng những yếu tố có thể góp phần vào sự phát triển của xã hội tương
lai. Do đó việc kết hợp các mặt đối lập – giữa cái cũ và cái mới cần phải tiến hành một cách thận
trọng, theo nguyên tắc, khơng theo cảm tính, tùy tiện.
Ngày nay, sự "thống nhất" của các mặt đối lập ngày càng mở rộng. Những giải pháp khoa
học và kỹ thuật tiên tiến, những vấn đề tồn cầu… tạo ra mơi trường thuận lợi cho sự mở rộng
đó. Vì vậy, bước chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội khơng thể
khơng mang những hình thái đặc thù: có thể cho phép các nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua một hay nhiều giai đoạn nào đó trong sự phát triển tư bản chủ nghĩa.
2. Ý nghĩa phương pháp luận:
Vì mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến, ta phải có ý thức tơn trọng mâu thuẫn,
tức là không được lẩn tránh mâu thuẫn cũng như không được tạo ra mâu thuẫn. Ta phải nhận
thức được mâu thuẫn và tìm cách giải quyết mâu thuẫn, từ đó giúp tạo ra điều kiện thúc đẩy sự
đấu tranh của các mặt đối lập theo chiều hướng phát triển vì mọi mâu thuẫn đều có q trình
phát sinh, phát triển và biến hoá. Sự vật khác nhau thì bản chất mâu thuẫn đó sẽ khác nhau. Do
đó phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và tìm cách giải quyết mâu thuẫn đúng đắn.


PHẦN 2. VẬN DỤNG THỰC TIỄN
1. Sự vận dụng của Lenin về quy luật mâu thuẫn trong thời kỳ thực tiễn cách mạng Nga:
Theo Lênin, cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự phát triển của sự vật. Đúng như vậy,

trong lịch sử loài người, nhiều cuộc cách mạng xảy ra. Tiêu biểu là cuộc cách mạng Tháng Mười
Nga nổ ra, đánh dấu sự thắng lợi của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở nước Nga.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới giành
thắng lợi, làm nền tảng và tạo động lực cho các quốc gia trên thế giới đấu tranh cách mạng vì
độc lập dân tộc. Cuộc cách mạng mở ra một trang mới trong lịch sử phát triển nhân loại, đánh
dấu một xu thế phát triển tất yếu, một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.
Cùng với việc dựng cột mốc cho thời đại mới, V.I. Lê-nin, với tư cách là lãnh đạo, bắt đầu sự
nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH) đầu tiên trong lịch sử ở nước Nga Xô-viết. Sự
nghiệp xây dựng CNXH ở nước Nga giai đoạn này diễn ra trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Về
bối cảnh chính trị, chính quyền Xơ-viết trong những tháng năm đầu tiên liên tục đối mặt với
những vụ nổi loạn, can thiệp của “thù trong, giặc ngoài” và bị bao vây bởi chủ nghĩa đế quốc.
Thêm vào đó, hệ thống chính trị Xơ-viết cịn mới và non yếu, kinh nghiệm cầm quyền cịn ít ỏi.
Vì vậy, giai cấp cơng nhân và hệ thống chính trị Xơ-viết gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ
chức và điều hành xã hội. V.I.Lê-nin đã nhận ra sự khác biệt căn bản là “giành chính quyền đã
khó nhưng xây dựng chính quyền cịn khó hơn nhiều”.
Về bối cảnh kinh tế, nước Nga Xô-viết bắt tay vào xây dựng CNXH khi nền kinh tế trong
điều kiện thấp kém: Chủ nghĩa tư bản (CNTB) ở Nga mới phát triển ở giai đoạn đầu, trình độ
sản xuất phổ biến của đất nước là tiểu nông, nhiều tàn tích của chế độ phong kiến nơng nơ, chế
độ chun chế chưa được xóa bỏ; nền kinh tế kiệt quệ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất; chế độ
mới lại bị CNTB bao vây kinh tế, cấm vận… Thêm vào đó, năng lực tổ chức quản lý cịn yếu
kém cũng khiến cho những năm đầu tiên gặp nhiều khó khăn.


Nhìn chung, bối cảnh và đặc điểm kinh tế xã hội của Nga đương thời cần rất nhiều đến sự
sáng tạo khi vận dụng lý luận của C.Mác về cách mạng XHCN. V.I. Lê-nin chính là con người
mà lịch sử cần đến và đã tạo ra trong sự nghiệp xây dựng CNXH hiện thực đầu tiên của nhân
loại.
Xây dựng CNXH trong thực tại liên quan đến rất nhiều lĩnh vực, cả về nhận thức lý luận và
hoạt động thực tiễn. Ở đây, ta chỉ tập trung vào hai điểm cơ bản nhất mà V.I. Lê-nin đã có nhiều

đóng góp, phát triển lý luận, đó là: (1) quan niệm về CNXH (dựa trên thay đổi và phát triển mơ
hình CNXH qua hai thời kỳ) và (2) biện pháp để xây dựng CNXH từ thực tiễn nước Nga.
Đầu tiên, ta xét đến bước chuyển biến từ “Chính sách cộng sản thời chiến” đến “Chính sách
kinh tế mới”. Những năm đầu của Cách mạng Tháng Mười, trong tình cảnh khó khăn, nhiều bất
cập, bảo vệ chính quyền Xơ-viết là mục tiêu hàng đầu. Chính sách “cộng sản thời chiến” đã
được áp dụng để đáp ứng những yêu cầu cấp bách ấy bằng cách trưng thu, tịch thu lương thực,
thực phẩm và các tư liệu sản xuất nhằm phục vụ cho nhu cầu quốc phịng và dân sinh. Chính
sách cộng sản thời chiến có thể xem như thử nghiệm đầu tiên về một mô hình CNXH, đã làm
trọn vai trị của nó và tất yếu sẽ phải thay đổi.
Tháng 3 năm 1921, Đại hội lần thứ X Đảng Cộng sản Nga, do V.I. Lê-nin lãnh đạo đã chuyển
từ “Chính sách cộng sản thời chiến” sang “Chính sách kinh tế mới” viết tắt là NEP, được thực
hiện trong quãng thời gian từ 1921-1927. Trước hết, chúng ta thấy sự điều chỉnh quan niệm về
CNXH, rằng “danh từ nước Cộng hịa Xơ-viết xã hội chủ nghĩa có nghĩa là Chính quyền Xơ-viết
quyết tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội, chứ hồn tồn khơng có nghĩa là đã
thừa nhận chế độ kinh tế mới là chế độ xã hội chủ nghĩa”, đúng như lý luận về quy luật mâu
thuẫn giữa hai mặt đối lập: cái cũ khơng hồn tồn thay thế cho cái mới mà tiếp thu và chuyển
biến thành cái mới tốt hơn, thông qua chuyển trọng tâm của cách mạng vào phát triển kinh tế và
văn hóa.
Theo V.I. Lê-nin, nước Nga thời bấy giờ còn lạc hậu, cần trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài,
trong đó nền kinh tế có “sự đan xen” giữa “những mảnh của CNXH” với “những mảnh của
CNTB”. Các yếu tố của CNXH và các yếu tố của CNTB vừa đấu tranh với nhau, vừa thống


nhất. Mối quan hệ chủ đạo giữa “các mảnh” hay các thành phần kinh tế đó, là quan hệ giữa sản
xuất, trao đổi, lưu thông trên cơ sở của trao đổi hàng hóa theo nguyên tắc thị trường…
Việc “chuyển trọng tâm cách mạng vào lĩnh vực phát triển văn hóa” là bước một bước tiến có
ý thức và có tính chất hiện thực để đi tới CNXH. Theo Lenin, chủ nghĩa xã hội có thể thực hiện
được hay khơng là “tùy ở kết quả của chúng ta có kết hợp được chính quyền Xơ-viết với những
tiến bộ mới nhất của chủ nghĩa tư bản”.
Thứ hai, V.I. Lê-nin cho rằng, để xây dựng CNXH ở nước Nga Xô-viết, cần tập trung vào thực

hiện “quá độ gián tiếp”, những “biện pháp trung gian”, “quá độ đặc biệt” của Chính sách kinh tế
mới qua 4 lập luận:
(i) Cần phải phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đối với một nước tiểu nông trong
thời kỳ quá độ lên CNXH. Những bất hợp lý của Chính sách “cộng sản thời chiến” bị bãi bỏ,
chế độ “trưng thu lương thực thừa” được thay bằng thuế lương thực với tư cách là khâu đầu tiên.
Thực hiện chế độ thuế, tự do buôn bán, trao đổi hàng hóa, sử dụng quan hệ hàng - tiền trong xây
dựng CNXH để phát triển kinh tế, tạo mối liên hệ kinh tế giữa công nghiệp với nền nông nghiệp
hàng hóa, giữa thành thị với nơng thơn.
(ii) Lenin cho rằng, việc tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của trao đổi tư
nhân, của CNTB “là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó”. Từ đó, Người
chủ trương: ...“chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con
đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa
xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất
lên”.

(iii) Phải học tập và sử dụng những giá trị của chủ nghĩa tư bản; kiên quyết phản đối việc “ đem
chủ nghĩa tư bản đối lập một cách trừu tượng với chủ nghĩa xã hội”. Theo V.I. Lê-nin: “lùi một
bước” và “thỏa hiệp” bằng việc thu phục và trả lương cao cho chuyên gia tư sản là giải pháp tốt
nhất xúc tiến CNXH. Người cho rằng, khơng có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh


vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm tổ chức quản lý, thì khơng thể nào chuyển lên CNXH
được.
(iv) Củng cố chính quyền Xơ-viết, tăng cường vai trị của quản lý, kết hợp chặt chẽ hành chính,
tổ chức và kinh tế là biện pháp tốt nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội. “Cần thực hiện ở khắp
mọi nơi và hết sức nghiêm ngặt sự kiểm kê và kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm ”
của nhà nước đối với đời sống kinh tế - xã hội, trên cơ sở liên minh kinh tế để tăng cường củng
cố liên minh cơng nơng về chính trị.
Những quan niệm mới mẻ và đúng đắn về CNXH từ NEP giúp thúc đẩy phát triển kinh tế
hàng hóa thơng qua áp dụng cơ chế và quy luật thị trường, tạo ra những địn bẩy kinh tế nhằm

kích thích sản xuất và khuyến khích cơng nhân tích cực lao động. Ngồi ra, những thành tựu
khoa học, kỹ thuật và công nghệ, kinh nghiệm quản lý của CNTB được vận dụng, các chuyên
gia tư sản có tài cũng được trọng dụng, những “sáng kiến vĩ đại” của quần chúng nhân dân được
phát huy vì lợi ích lâu dài của CNXH. Bằng cách đó, NEP đã tạo ra nguồn lực và động lực mới
cho sự phát triển của CNXH ở nước Nga.
Hiệu quả thực tế là, ở Liên Xô từ năm 1922, lương thực - thực phẩm được phân phối đủ cho
người dân, năm 1925 sản xuất nông nghiệp đạt 87%, công nghiệp đạt 75% sản lượng của năm
1913; thương nghiệp đã được tăng cường mạnh mẽ (về nội thương: tổng mức lưu chuyển hàng
hóa năm 1926 bằng hai lần năm 1924; về ngoại thương nhà nước mở rộng quan hệ buôn bán với
hơn 40 nước); ngân sách nhà nước tăng lên gần năm lần trong năm 1925 so với năm 1922; đời
sống nhân dân cải thiện rõ rệt, tình hình chính trị - xã hội ổn định, khối liên minh công nông
được củng cố, mối liên hệ thành thị nông thôn được khơi phục phát triển…
2. Sự vận dụng của Hồ Chí Minh thể hiện trong thực tiễn cách mạng Việt Nam:
Dưới ảnh hưởng to lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga và chế độ XHCN ở Liên Xô, sau
Chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống trên thế giới. tạo nên
làn sóng đấu tranh lớn mạnh trong thế kỷ XX. Nguyễn Ái Quốc đã từng viết: “Giống như mặt
trời chói lọi, cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu


người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử lồi người chưa từng có cuộc cách mạng nào
có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
Khi cuộc cách mạng tháng Mười tại Nga thành cơng, thì nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ vẫn
đang trong ách đô hộ bởi thực dân Pháp. Với truyền thống yêu nước bất khuất, nhân dân Việt
Nam luôn đấu tranh chống đế quốc và tay sai theo đường lối phong kiến hoặc theo khuynh
hướng tư sản, song đều thất bại. Giữa lúc đó, Nguyễn Ái Quốc, đã tìm ra con đường cứu nước
dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin, ánh sáng của cách mạng tháng Mười. Trong tác phẩm Đường
Kách mệnh, Người viết:“Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành cơng
thì phải dân chúng (cơng nơng) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh,
phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Người khẳng định rằng: “Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai

cấp cơng nhân, tồn tâm tồn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận
dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể
đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành
cơng”.
Vai trị lãnh đạo của Đảng đã được Mác, Ăng ghen, Lê-nin khẳng định và trong Cách mạng
Tháng Mười Nga, Lênin đã vận dụng rất thành công. Nhận thức về sứ mệnh của Đảng, ngay từ
tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927), Người đã chỉ rõ: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai
cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng
phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu
khơng có bàn chỉ nam”.
Nguyễn Ái Quốc cho rằng để xây dựng Đảng Cộng sản, trước hết phải giải quyết tốt vấn đề
nhận thức tư tưởng chính trị và phương pháp tổ chức cho những người yêu nước; phải giác ngộ
chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam theo lập trường cách mạng vơ
sản… Trong q trình huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không chỉ


truyền bá lý luận Mác-Lênin vào cơng nhân mà cịn truyền bá vào các tầng lớp trí thức yêu
nước. Ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm tới Trung Quốc, triệu tập đại biểu của Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng họp tại Hồng Công (ngày 06-01-1930) để
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc bằng uy tín và kinh nghiệm của mình, đưa
đến thành công của Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đầu năm 30 của thế kỷ
XX. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối của cách mạng
Việt Nam và là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Từ sự chuẩn bị mọi mặt cho cách mạng về Đảng, về lực lượng, về cách thức, phương pháp
tiến hành cách mạng, đến trình độ nhận thức nhạy bén, đánh giá xu thế chuyển biến của cục diện
chính trị quốc tế, khu vực trong thời đại mới; sự phát triển của các phong trào cách mạng, phong
trào hịa bình, dân chủ trên thế giới; thế và lực của cách mạng nước ta và đối phương, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc và Ban Chấp hành Trung ương Đảng có những nhận định ngay từ tháng 51941: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xơ, một nước xã hội chủ nghĩa thì

cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng
nhiều nước thành cơng”.
Trước tình hình như vậy, mặc dù đang ốm nặng, Người vẫn quyết định: “Lúc này thời cơ
thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết
giành cho được độc lập”. Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, trên cơ sở chọn lọc những yếu tố tích cực của mơ hình tổ chức nhà nước
Xơviết và các nhà nước dân chủ khác, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Một quan
điểm có ý nghĩa phương pháp luận mang tính chỉ đạo lâu dài đối với Đảng và nhân dân ta được
Hồ Chí Minh chỉ ra là: “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách
mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối
tình gắn bó và lịng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối
với Lê-nin vĩ đại và đối với nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc”.
Cách mạng Việt Nam thắng lợi chính nhờ sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng sáng
tạo mang tầm vóc thời đại của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, tiếp thụ và truyền bá những


mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của cách mạng tháng Mười Nga vào thực tiễn Việt Nam. Qua hơn
hơn 70 năm luôn đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vận dụng những kinh nghiệm từ Cách
mạng tháng Mười Nga kết hợp với khoa học, sáng tạo thời đại; vẫn kiên định lấy chủ nghĩa
Mác- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động; lãnh đạo
đất nước giành được nhiều thắng lợi vĩ đại, xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, hướng tới những lý tưởng cao đẹp của cách mạng tháng Mười Nga.

3. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong công cuộc đổi mới đất nước:

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước
dựa trên nhiều quyết sách đổi mới về lưu thông phân phối, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế
nông nghiệp, xây dựng Đảng, công tác quần chúng của Đảng…
Tuy nhiên, tình hình trong nước bấy giờ không thuận lợi do hậu quả của đợt điều chỉnh
Lương – Giá – Tiền năm 1985 còn rất nặng nề. Khủng hoảng kinh tế - xã hội chưa lắng xuống,

Chính vì vậy, những chủ trương mới của Đảng khơng thể đi ngay vào cuộc sống. Giá cả tăng
vọt, tiền lương thực tế giảm, bội chi ngân sách lớn. Nhiều cơ sở kinh doanh của nhà nước thua
lỗ, thậm chí phải đóng cửa. Đời sống của nhân dân giảm sút nghiêm trọng. Khó khăn chồng
chất, tưởng chừng như khơng thể vượt qua.
Ngồi ra, bối cảnh thế giới có nhiều yếu tố không thuận lợi tác động lên công cuộc đổi mới
của nước ta. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu càng ngày càng lún sâu vào sai
lầm, bế tắc. Những khuynh hướng lệch lạc đã bộc lộ ngày càng rõ (phủ định thành quả cách
mạng, đả kích và muốn xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản, xa rời mục tiêu CNXH…).
Tuy nhiên, trong tình cảnh khó khăn như ngàn cân treo sợi tóc ấy, Đảng vẫn vững vàng về bản
lĩnh chính trị, sáng suốt đề ra luận điểm: Giữ vững nguyên tắc trong quá trình đổi mới, vẫn
hướng đến Chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xem đó là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của Đảng, đồng thời đổi mới tư duy bằng vận dụng sáng tạo và phát
triển những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lê nin trong hoàn cảnh mới, chứ không phải xa rời


những nguyên lý ấy. Chủ nghĩa xã hội không thể đi đến thành cơng bằng mơ hình cũ vốn chứa
q nhiều khuyết tật và hạn chế.
Nước ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Đặc điểm của thời kỳ quá độ là nhiều thành phần kinh tế cũng tồn tại và xã hội nhiều giai cấp.
Nó khơng cịn là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Ngoài ra, cịn có phương thức sản xuất tàn dư của xã hội trước và phương thức sản
xuất mầm mống của xã hội tương lai.
Như vậy, phạm trù thành phần kinh tế và phương thức sản xuất đều phản ánh mối quan hệ
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nhưng không đồng nhất về nội dung.
Trong thời kỳ quá độ, mỗi phương thức sản xuất khi chưa hoặc khơng đóng vai trị thống trị, vừa
thống nhất "xen kẽ", vừa đấu tranh bài trừ gạt bỏ, phủ định lẫn nhau của kết cấu kinh tế xã hội,
thì đó là thành phần kinh tế. Khi một thành phần, một bộ phận nào đó giữ một vai trị thống trị
đối với các thành phần (bộ phận, hình thức kinh tế khác) thì nó là một phương thức sản xuất đại
diện cho hình thái kinh tế - xã hội đó. Mỗi thành phần kinh tế có kiểu tổ chức sản xuất kinh
doanh của nó hợp thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nền kinh tế - xã hội nước ta tồn

tại nhiều thành phần kinh tế là vì các lý do sau:
-

Chính quyền mới tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, gồm hai loại là tư hữu lớn (kinh tế tư bản chủ nghĩa) và tư hữu nhỏ (sản xuất nhỏ cá
thể). Phương thức sản xuất cũ chưa thể mất đi, do đó tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư
nhân, thành phần kinh tế cá thể, thành phần kinh tế hợp tác.

-

Các ngành, vùng kinh tế phát triển khơng đều về lực lượng sản xuất (ví dụ: thành thị nơng thơn).

-

Xu thế tồn cầu hố khiến các nước đều cần đầu tư của nước ngồi, hình thành thành
phần kinh tế tư bản Nhà nước.

-

Để giữ vững chính quyền cộng sản thì phải xây dựng thành phần kinh tế mới là kinh tế
quốc doanh hay kinh tế nhà nước. Thành phần kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo,


các thành phần kinh tế khác đóng vai trị tích cực trong quá trình phát triển nền kinh tế xã hội.
Nền kinh tế hàng hố q độ trong đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những kiểu sản
xuất hàng hố khơng cùng bản chất, vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn với nhau.
Các thành phần kinh tế trong q trình hoạt động khơng biệt lập nhau, mà đan xen nhau
thơng qua các mối quan hệ kinh tế, vì chúng đều là các bộ phận của hệ thống phân công lao
động xã hội thống nhất. Mỗi thành phần kinh tế có vai trị và chức năng của nó trong đời sống
kinh tế - xã hội và đều chịu sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Sự thống nhất của các thành

phần kinh tế cịn vì yếu tố điều tiết thống nhất của hệ thống các quy kinh tế đang tác động trong
thời kỳ quá độ và thị trường thống nhất.
Tuy nhiên, các thành phần kinh tế này tồn tại trong mâu thuẫn, thể hiện ở các mặt như:
-

Mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu.

-

Mâu thuẫn giữa tư nhân với tập thể, với Nhà nước.

-

Mâu thuẫn giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, theo như chủ nghĩa Mác-Lenin: Mâu thuẫn là động lực của mọi sự vận động và

phát triển. Nền kinh tế chứa đựng những sự đối lập phủ định lẫn nhau, cạnh tranh với nhau; song
lại thống nhất, hài hòa, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển thông qua hợp tác và cạnh
tranh, liên doanh, liên kết, từ đó giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển sản xuất và lưu thông, phát triển và mở rộng thị trường, tạo ra công ăn
việc làm, khối lượng sản phẩm cho xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác, từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị
sản xuất hàng hố để vươn lên tự khẳng định mình và phát triển theo quỹ đạo chung, chịu sự
quản lý của Nhà nước.


Các thành phần kinh tế đều có điểm khác biệt, xuất phát từ lịch sử hình thành và bản chất
vốn có. Chính vì vậy, cần phân biệt các thành phần kinh tế đúng đắn nhằm phát huy tác dụng
tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của chúng lên sự phát triển kinh tế - xã hội. Và chỉ có
đường lối, chính sách phân biệt như vậy mới có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế theo định

hướng xã hội chủ nghĩa. Lênin chỉ rõ "phải phân biệt và phân định rõ ranh giới giữa người
nông dân lao động với người nông dân con buôn, giữa người nông dân cần lao động với người
nông dân đầu cơ. Tất cả thực chất của chủ nghĩa xã hội nằm trong sự phân định ranh giới đó".
Như vậy, tồn bộ hoạt động của Nhà nước thực hiện trước hết bằng pháp luật, các văn bản
pháp luật, các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội, cơ chế quản lý, các biện pháp, phương tổ
chức thực hiện… Không thể không tính đến sự nhất quán giữa các thành phần kinh tế và sự
phân biệt giữa chúng. Sự thống nhất và phủ định phải bổ trợ nhau, khơng hồn tồn bài trừ cái
cũ và cũng khơng thiên hồn tồn về cái mới.


KẾT
Các mặt đối lập hiện diện trong tự nhiên, trong sự vật, sự việc và trong tư duy con người.
Chúng phát triển bằng cách phủ định nhau, bài trừ các mặt hại, mặt xấu, nhưng cũng hòa hợp,
thống nhất, bổ trợ lẫn nhau, cùng nhau tồn tại. Ta có thể thấy điều này qua các cuộc đấu tranh
giành độc lập của giai cấp vô sản, tiêu biểu là cuộc Cách mạng tháng Mười Nga. Cuộc Cách
mạng xóa bỏ chế độ quân chủ chuyên chế, đem lại bình đẳng, tự do và công bằng cho giai cấp
vô sản. Người đứng đầu cuộc Cách mạng chính là V.I.Lenin. Dưới sự lãnh đạo của ông, Liên Xô
trở thành một nhà nước độc đảng theo chủ nghĩa Mác-Lenin do Đảng Cộng sản Liên Xô điều
hành. Ông được coi lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Nga cũng như của giai cấp vô sản
thế giới. Tuy nhiên, ơng khơng hồn tồn bài trừ chế độ tư sản cũ, mà ông vẫn giữ lại những
thành tựu khoa học, kỹ thuật cũng như những người tài giỏi của chế độ tư sản phục vụ xây dựng
đất nước. Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười tạo nên làn sóng đấu tranh giành độc lập
trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Dưới sự đơ hộ của thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã lên
đường cứu nước, nhận ra được lời giải trong các luận điểm của V.I.Lenin, Người đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác-Lenin và lãnh đạo cuộc đấu tranh dân tộc, dẫn đến thắng lợi lớn trong cuộc Cách
mạng tháng Tám năm 1945. Từ đó, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, được
dẫn dắt bởi Đảng Cộng sản Việt Nam. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
trải qua nhiều công cuộc đổi mới. Tuy gặp nhiều trở ngại ban đầu từ những mâu thuẫn giữa cũ
và mới, song ta vẫn đang từng bước phát triển, học tập từ những kinh nghiệm đi trước, và tiến
đến XHCN.



Tài liệu tham khảo:
1. TS. Trần Nguyên Ký (2021), “Sự kết hợp các mặt đối lập trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Nhà xuất bản Kinh tế TP.Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí
Minh.
2. GS, TS. Nguyễn Xuân Thắng, “V.I.Lê-nin với sự vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác
trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga” , Báo điện tử Nhân Dân, ngày 22/4/2018.
3. PGS, TS. Nguyễn Xuân Trung, “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào nghiên cứu, phát
triển sáng tạo lý luận ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản điện tử,
ngày 15/12/2020.
4. Lê Trung Thành, “Cách mạng Tháng Mười Nga với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc

và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 26/11/2020.



×