BÀI TẬP 3
A làm nghề chăn bò thuê, khoảng 15h ngày 9/2/2018, trong lúc đang chăn bò,
A thấy một con bị đực khơng rõ của ai đến ăn chung với bị của A, đến chiều
khơng thấy chủ bị đến lùa về, nên A đã đưa con bò này về cột ở trại của A.
Đến ngày 12/2/2018, A dẫn bò đi giấu ở nơi khác và đến ngày 17/2/2018, A
thuê xe vận chuyển con bị đó đi tiêu thụ. Trên đường đi chưa kịp tiêu thụ thì
bị phát hiện. Tài sản bị thiệt hại là con bò đực được định giá 25.500.000đ.
Câu hỏi:
1. Để xác định đúng tội danh trong vụ án này, cần thực hiện các bước nào?
Tóm tắt nội dung của từng bước.
2. Tình tiết thực tế nào trong vụ án có giá trị định tội?
-
-
9/2/2018, A chăn bị thì thấy con bị đực khác đến ăn chung với bị của mình,
A khơng biết con bị đực đó là của ai. A đã đợi chủ nhân của con bò đực đến
dắt bị về. Khơng thấy chủ của con bị đực đến, A cột con bị đực ở trại của
mình.
12/2/2018. A dẫn bò đi giấu ở nơi khác.
17/2/2018, A thuê xe vận chuyển con bị đó đi tiêu thụ nhưng c hưa tiêu thụ
được con bị đực thì A đã bị cơ quan chức năng phát hiện.
3. Nêu những cấu thành tội phạm (với các tội danh cụ thể) mà người tiến hành
tố tụng cần dự kiến trước khi đưa ra kết luận về tội danh đối với hành vi của
A trong vụ án này.
Dự kiến tội danh đối với A:
- Tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS 2015): A có hành vi lén lút giấu con
bị đi lạc và không thông báo cho người khác cũng như các cơ quan chức năng.
- Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 BLHS 2015): A có hành vi
chiếm giữ con bò đực đi lạc, cột con bò ở trại của mình.
- Khơng phạm tội
Trường hợp này khơng dự kiến tội cơng nhiên chiếm đoạt tài sản vì đã dự
kiến tội trộm cắp tài sản mà dự kiến công nhiên thì gây mâu thuẫn nhau. Cơng
nhiên là lấy tài sản trước sự chứng kiến của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản,
còn trộm cắp là lén lút lấy bị khơng để họ phát hiện. Đặc trưng của trộm cắp tài
sản là lén lút chiếm đoạt đối với tài sản phải đang có người quản lý chứ khơng phải
tài sản đã thốt ly khỏi sự quản lý nên loại bỏ Tội trộm cắp. Chiếm giữ trái phép tài
sản là ngẫu nhiên có được và không giao trả cho người chủ sở hữu, người quản lý
tài sản hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có u cầu, cịn nếu như trong
trường hợp ngẫu nhiên có được nhưng khơng ai u cầu trả lại thì chưa phạm tội.
Trong trưng hợp trên A khơng nhận được yêu cầu giao trả tài sản của ai nên A chưa
phạm tội.
=> A không phạm tội.
4. Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A trong vụ án.
● Ý kiến thứ nhất: A phạm tội trộm cắp tài sản
● Ý kiến thứ hai: A phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
● Ý kiến thứ ba: A phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản
Trong trường hợp này khơng xử A theo tội trộm cắp vì xét về đối tượng tác
động của tội trộm cắp là tài sản đang nằm trong sự quản lý của người khác mà
trường hợp trên là con bò tự đi đến chỗ A đang cho bị mình ăn có nghĩa là đã thoát
ly khỏi sự quản lý hoặc xét về hành vi khách quan của tội trộm cắp là lén lút
chiếm đoạt tài sản đang nằm trong sự quản lý của người khác thành của mình
nhưng A khơng có hành vi chiếm đoạt này. Không xử A theo tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản vì xét về đối tượng tác động thì con bị khơng nằm trong sự quản lý
của người khác mà thoát ly ra khỏi sự quản lý và tự đi đến chỗ A đang cho bò ăn,
nếu xét về hành vi khách quan thì A khơng cơng khai chiếm đoạt con bò trước
mặt người quản lý con bò. A khơng phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản vì trong
thời gian A giữ con bị thì chủ sở hữu, người quản lý hay cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khơng u cầu A trả lại con bị.
=> A khơng phạm tội.
5. Xác định cơ sở lý thuyết dùng để giải quyết tranh chấp tội danh đối với
hành vi của A.
Trong vụ án trên có sự tranh chấp tội danh giữa Tội trộm cắp tài sản
(Điều 173 BLHS 2015), Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 BLHS
2015) và trường hợp không phạm tội là định tội danh theo mặt khách quan
của tội phạm và định tội danh theo đối tượng tác động của tội phạm.
Bài tập 6:
Sau nhiều lần gửi xe để vào chợ huyện mua sắm, A nhận thấy việc giữ xe
tại bãi này rất lỏng lẻo, lúc đơng đúc có nhiều người lấy xe ra nhưng người giữ xe
khơng sốt vé. Cho rằng có thể lợi dụng tình hình này để “làm tiền” bãi xe nên A
đã hành động.
Đầu năm 2021, A đến gửi xe vào bãi. Chờ đến khi người ra vào lộn xộn, A
lẳng lặng dắt xe ra mà không ai phát hiện để soát vé. Ra khỏi bãi, A nổ máy
phóng về nhà. Sau khi cất giấu xe máy, A chậm rãi quay trở lại bãi xe. Giả vờ
như vừa từ trong chợ ra, A đi đi lại lại để tìm xe. Một người giữ xe chạy đến hỏi,
A bảo rằng xe gửi đây nhưng giờ không thấy. Cả bãi dị thẻ xe của A rồi nháo
nhào tìm. Một hồi, chủ bãi xe thừa nhận: Xe máy của A đã mất. A yêu cầu chủ
bãi giữ xe phải bồi thường cho mình 5 triệu đồng. Tưởng là yêu cầu của mình sẽ
nhanh chóng được thực hiện nhưng A khơng ngờ chủ bãi xe dùng dằng: “Chuyện
này phải báo công an rồi mới tính”.
Sự việc được đến Cơng an huyện T. Sau khi ghi nhận diễn biến sự việc và
tiến hành điều tra, cơ quan điều tra mời A lên làm việc. Ban đầu A quanh co chối
cãi, nhưng trước những chứng cứ của cơ quan điều tra đưa ra, A đã phải khai ra
toàn bộ sự thật như nêu trên.
2. Những tình tiết thực tế nào trong vụ án trên có giá trị pháp lý trong việc
định tội?
- A đến gửi xe vào bãi, chờ đến khi người ra vào lộn xộn A lẳng lặng dắt xe ra để
không ai phát hiện sốt vé mình.
- Sau khi đem xe về nhà cất thì A quay lại giả vờ bị mất xe.
- Sau khi bãi giữ thừa nhận xe A mất thì A địi bồi thường cho mình 5 triệu đồng.
3. Nêu những cấu thành tội phạm cụ thể mà người định tội danh cần dự
kiến áp dụng khi định tội danh trong vụ án này
Các tội danh dự kiến bao gồm:
-
Tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS 2015: A lợi dụng tình hình đang
đơng đúng khơng ai để ý thì lén lút dắt xe của mình ra khỏi bãi để khơng ai sốt
vé.
-
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS 2015: A đưa ra thông tin
gian dối làm nạn nhân tin tưởng để đưa tiền bồi thường là 5 triệu đồng.
A không phạm tội và khơng bị truy cứu TNHS: vì A chưa lấy được 5 triệu
đồng từ người giữ xe.
-
4) Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A trong vụ án trên?
- A phạm tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 vì A đã trộm được chiếc xe từ
người quản lý là người giữ xe, A không phạm tội lừa đảo vì A vẫn chưa nhận được số
tiền 5 triệu đồng từ người giữ xe dù đã đưa ra thông tin gian dối.
5) Xác định cơ sở lý thuyết dùng để giải quyết tranh chấp tội danh đối với
hành vi của A trong vụ án trên:
Trong vụ án trên có sự tranh chấp tội danh giữa Trộm cắp tài sản (Điều
173 BLHS 2015), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS 2015) và
không phạm tội.
-
Giữa trộm cắp tài sản với Lừa đảo chiếm đoạt tài sản: dùng lý thuyết định tội
danh theo mặt khách quan gồm: hành vi khách quan (hai tội này giống nhau
về chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, chỉ khác nhau về hành vi) và hậu quả A
lấy được chiếc xe từ người quản lý tài sản nhưng chưa lấy được 5 triệu từ họ.
Bài tập 11:
Biết nhà ơng M trong xã có cây lộc vừng rất có giá trị, A rủ B, C, D đi lấy
trộm. Khi tới nhà ông M, A giao hẹn với cả bọn: "Chúng mày cứ lấy, 15 phút t lại
cho xe chạy qua một lần, nếu lấy được thì chở đi ln". Nói xong A phóng xe đi.
B nói D đứng ngồi canh gác để cho B và C vào trong nhà lấy tài sản. Do
cây lộc vừng quá nặng và quá lớn nên B và C phải đào đất, xén bớt cành lá và rễ
của cây để khiêng ra ngồi. Trong khi đang đào rễ thì bị chủ nhà phát hiện nên
cả bọn chạy thoát.
Khoảng 2 tuần sau, A lại cùng A, B, C, D quay lại nhà ơng M lấy cây lộc
vừng. Để có thể lấy được tài sản, chúng mang theo kìm cộng lực, dây thừng, kìm
điện và bút thử điện. A chở cả bọn bằng xe máy đến tập trung tại ngôi nhà bỏ
hoang (gần nhà ông M). B và C cùng vào lấy cây lộc vừng, những người khác
đứng ngoài canh chừng và có nhiệm vụ buộc chặt cánh cửa cổng nhà ơng M, chờ
tín hiệu của B và C để cùng khiêng cây lộc vừng ra ngoài. Khoảng nửa tiếng sau,
khi đang khiêng cây lộc vừng ra ngồi thì bọn chúng lại bị phát hiện. B và C bị
bắt quả tang cùng tang vật, những người cịn lại chạy thốt.
Hội đồng giám định tài sản kết luận: Cây lộc vừng khi chưa bị xén cành, lá,
rễ có giá trị 140 triệu đồng. Sau lần lấy trộm thứ nhất, giá trị của cây lộc vừng
này cịn 30 triệu đồng.
2. Những tình tiết thực tế nào trong vụ án trên có giá trị pháp lý trong việc
định tội ?
- Lần 1:
+ A rủ B, C, D đi lấy trộm cây lộc vừng nhà ông M.
+ Khi tới nhà ông M, A giao hẹn với cả bọn, để B, C và D vào lấy trộm
cây lộc vừng còn A phụ trách chạy xe đến chờ sau mỗi 15 phút.
+ D được phân cơng đứng ngồi canh gác, B và C vào trong nhà lấy tài
sản. Do cây lộc vừng quá nặng và quá lớn nên B và C phải đào đất, xén
bớt cành lá và rễ của cây để khiêng ra ngồi.
+ Trộm khơng thành vì chủ nhà phát hiện, cả bọn chạy thoát.
- Lần 2 (khoảng 2 tuần sau lần 1):
+ A lại cùng B, C , D quay lại nhà ông M lấy cây lộc vừng.
+ B và C vào lấy cây lộc vừng, những người cịn lại đứng ngồi canh
chừng và có nhiệm vụ buộc chặt cánh cửa cổng nhà ơng M và chờ tín
hiệu từ B và C.
+ Công cụ được bọn chúng đem theo: kìm cộng lực, dây thừng, kìm điện,
bút thử điện.
+ Khoảng 30 phút sau, bị chủ nhà phát hiện, B và C bị bắt quả tang cùng
tang vật, những người cịn lại chạy thốt.
+ Hội đồng giám định tài sản kết luận: Cây lộc vừng khi chưa bị xén cành,
lá, rễ có giá trị 140 triệu đồng. Sau lần lấy trộm thứ nhất, giá trị của cây
lộc vừng này chỉ còn 30 triệu đồng.
3. Nêu những cấu thành tội phạm cụ thể mà người định tội danh cần dự
kiến áp dụng khi định tội danh trong vụ án này?
Dự kiến tội danh đối với A, B, C, D:
- Tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 BL15: Các đối tượng biết nhà ơng M
có cây lộc vừng nên nảy sinh ý định trộm cắp. Họ có hành vi lén lút, bí mật, khơng
muốn để bị phát hiện.
- Tội hủy hoại tài sản quy định tại Điều 178 BLHS 2015: cây lộc vừng khi chưa
bị cắt xén cành, lá rễ có giá trị 140 triệu đồng, sau khi bị A,B,C và D tác động đến làm
thay đổi mất đi giá trị ban đầu của cây lộc vừng thì chỉ còn 30 triệu đồng.
- Tội cố ý làm hư hỏng tài sản quy định tại Điều 178 BLHS 2015: Tình huống trên
trong quá trình chiếm đoạt tài sản, B và C đã cố ý làm hư hỏng đáng kể tài sản là cây
lộc vừng, cụ thể đã cắt xén lá và rễ của cây lộc vừng.
4. Về việc định tội danh đối với hành vi của A, B, C, D trong vụ án trên có 3
ý kiến như sau:
- Ý kiến thứ nhất: A, B, C, D phạm tội trộm cắp tài sản
- Ý kiến thứ hai: A, B, C, D phạm tội trộm cắp tài sản và tội hủy hoại tài sản
- Ý kiến thứ ba: A, B, C, D phạm tội trộm cắp tài sản và tội cố ý làm hư
hỏng tài sản
Trả lời:
Ý kiến thứ ba hợp lý nhất.
- Trường hợp này vẫn có thể chọn ý kiến 1 vì mục đích tỉa cành lá rễ là để vận
chuyển dễ dàng và bản chất cây lộc vừng vẫn có thể phục hồi sau một thời gian
chăm sóc nên chỉ xử theo Tội trộm cắp (Điều 173).
- Nhưng nếu so về hậu quả trong trường hợp này thì tội cố ý làm hư hỏng tài sản
gây thiệt hại lớn hơn so với tội trộm cắp tài sản. Ban đầu cây lộc vừng có trị giá
140 triệu nhưng sau khi bị cắt tỉa thì chỉ cịn 30 triệu vậy thiệt hại là 110 triệu (hậu
quả của cố ý làm hư hỏng tài sản là 110 triệu), còn nếu là trộm cắp thì chỉ là trộm
cắp cây lộc vừng trị giá 30 triệu. Mặt khác, theo nguyên tắc có bao nhiêu tội cứ xử
bấy nhiêu trừ khi nó mâu thuẫn nhau. Trong trường hợp này hai hành vi khác nhau
nên có thể xử hai tội. Vậy có thể xử theo hai tội là trộm cắp và cố ý làm hư hỏng
tài sản.
5. Xác định cơ sở lý thuyết dùng để giải quyết tranh chấp tội danh đối với
hành vi của A, B, C, D trong vụ án trên?
- Cơ sở lý thuyết dùng để giải quyết tranh chấp tội danh A, B, C, D theo cả hai
tội danh thì lý thuyết được dùng là tổng hợp tội phạm thực tế.
Bài tập 19: A (20 tuổi) là đối tượng sống lang thang, không nghề nghiệp. Ngày
30/4, quan sát thấy ơng N để xe ở khu đất trống (chìa khóa xe đang cắm ở cổ
xe) trèo lên cột điện để nối dây điện bị đứt nên A nảy sinh ý định chiếm đoạt
chiếc xe của ông N. A đi lại chỗ cột điện đạp đổ chiếc thang mà ông N dùng để
trèo lên cột điện rồi ngang nhiên ngồi lên chiếc xe máy (trị giá 25 triệu đồng)
của ông N nổ máy phóng đi. Ơng N mặc dù biết A lấy chiếc xe của mình
nhưng do chiếc thang đã bị A đạp đổ nên không thể xuống để ngăn cản hành
vi của A. Vụ việc sau đó bị phát giác.
2. Những tình tiết thực tế nào trong vụ án có giá trị định tội đối với hành vi của
A?
Tình tiết thực tế trong vụ án có giá trị định tội đối với hành vi của A là:
- A thấy ông N lúc trèo lên cột điện đã đi lại chỗ cột điện đạp đổ chiếc thang mà
ông N dùng để trèo lên cột điện rồi ngồi lên chiếc xe máy (trị giá 25 triệu đồng)
của ơng N nổ máy phóng đi.
- Ông N mặc dù thấy A lấy chiếc xe của mình nhưng do chiếc thang đã bị A đạp
đổ nên không thể xuống để ngăn cản.
3. Nêu những cấu thành tội phạm (với các tội danh cụ thể) mà người tiến hành
tố tụng cần dự kiến áp dụng trước khi đưa ra kết luận về tội danh đối với hành vi
của A trong vụ án này?
Các tội danh dự kiến đối với A:
- Tội cướp tài sản (Điều 168): A có hành vi đạp đổ cái thang khiến cho ông N lâm
vào tình trạng không thể chống cự được và công khai chiếm đoạt tài sản của ông N
(hành vi khác làm cho nạn nhân lầm vào tình trạng không thể kháng cự được);
- Tội cướp giật tài sản (Điều 171): A công khai chiếm đoạt tài sản của ông N.
- Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172): với hành vi A chiếm đoạt chiếc
xe máy trị giá 25 triệu đồng của ông N một cách công khai, ngang nhiên và ông N
mặc dù biết A lấy chiếc xe của mình nhưng do chiếc thang đã bị A đạp đổ nên không
thể xuống để ngăn cản hành vi của A.
Note: Đối với cơng nhiên thì tình huống khơng thể ngăn cản hành vi chiếm
đoạt tài sản là do nạn nhân tự tạo ra chứ không phải do người phạm tội tạo ra
4. Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A trong vụ án này?
A không phạm tội cướp giật vì A khơng chiếm đoạt tài sản một cách cơng khai
nhanh chóng (đặc trưng của tội cướp giật), trong tội cướp có thể xâm hại hai quyền là
quyền sở hữu và quyền nhân thân của nạn nhân nên cần phải xem trong trường hợp
này có hành vi có thể gây thiệt hại đến quyền nhân thân của nạn nhân hay không
(cướp không nhất thiết cứ phải tác động lên thân thể mà tác động lên đâu có thể gây
thiệt hại đến quyền nhân thân của nạn nhân), trường hợp này hành vi của A là lấy cái
thang khơng có gây thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng của ông N, như vậy không thỏa
mãn về khách thể của tội cướp, cướp không xử được nên quay lại xử vào tội cơng
nhiên.
Note: Nếu có hai tội lập lửng thì nên chọn tội nào có lợi cho người phạm tội
Trong tội cướp không nhất thiết cứ phải tác động lên thân thể mà tác động
lên đâu có thể gây thiệt hại đến quyền nhân thân của nạn nhân
5. Xác định cơ sở lý thuyết dùng để giải quyết tranh chấp tội danh đối với
hành vi phạm tội của A.
Cơ sở lý thuyết dùng để giải quyết tranh chấp tội danh giữa Tội cướp tài sản,
Tội cướp giật tài sản, Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản dựa vào hành vi khách quan.
Bài tập 20: Ông N thuê T và H mang máy đến nhà mình xay xát cà phê
khô lấy cà phê nhân. Buổi sáng, sau khi xay xát hết 6 bao cà phê thì T và H xin
ơng N cho nghỉ và kéo máy về nhà mình. Đầu giờ chiều, T và H lại kéo máy trở
lại làm tiếp. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, do sợ trời tối, đường xa, T và H lại xin
nghỉ sớm, kéo máy về và hẹn hôm sau lại đến. Việc T và H bỏ công kéo máy đi và
về rất vất vả, cộng với số lượng cà phê nhân thu được ít hơn bình thường làm
ơng N sinh nghi nên đã kiên quyết giữ máy lại, tháo thùng ra thì thấy 38kg (trị
giá khoảng 1.520.000 đồng) cà phê nhân trong một ngăn bí mật dưới đáy thùng.
Chuyện bại lộ, T khai buổi sáng hơm đó đã lấy được của ơng N 80kg
(3.200.000 đồng) cà phê nhân đang cất giữ ở nhà và năn nỉ xin chủ nhà tha thứ. T
bỏ máy lại, về nhà chở toàn bộ số cà phê lấy được buổi sáng trả cho ông N. Tại
công an xã, T khai H chỉ là người làm thuê cho mình và khơng biết về việc T lén
bớt xén cà phê xay được của khách hàng. (Biết rằng tại thời điểm T thực hiện
hành vi trên, giá cà phê nhân là 40.000/kg).
2. Nêu các tình tiết thực tế trong vụ án có giá trị định tội danh đối với hành
vi của T?
- Ông N thuê T và H mang máy đến nhà mình xay xát cà phê khơ lấy cà phê
nhân.
- Thấy T bỏ công kéo máy đi và về rất vất vả, cộng với số lượng cà phê nhân thu
được ít hơn bình thường;
- Ơng N giữ máy lại, tháo thùng ra thì thấy 38kg cà phê nhân giấu trong một
ngăn bí mật dưới đáy thùng.
- Chuyện bại lộ, T khai buổi sáng hơm đó đã lấy được của ơng N 80kg cà phê
nhân đang cất giữ ở nhà.
3. Nêu những cấu thành tội phạm (với các tội danh cụ thể) mà người tiến
hành tố tụng cần dự kiến áp dụng trước khi đưa ra kết luận về tội danh đối với
hành vi của T trong vụ án này?
Dự kiến tội danh đối với T:
- Tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS 2015: T có hành vi lén lút giấu số
cà phê nhân ở ngăn bí mật trong máy kéo của mình.
- Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 BLHS 2015: với
hành vi được giao xay xát số cà phê thông qua hợp đồng gia cơng của ơng N vs T. Sau
đó, bằng thủ đoạn gian dối là làm 1 ngăn bí mật trong thùng máy để giấu cà phê của
ơng N hịng chiếm đoạt.
4. Hãy xác định tội danh đối với hành vi của T trong vụ án trên và giải
thích vì sao?
- A khơng phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vì trong trường hợp
này giữa ơng N và T có hợp đồng th khốn xay xát cà phê, việc T đem máy đến nhà
ông N xay xát cà phê là ông N chỉ thuê T xay xát cà phê thơi cịn cà phê vẫn cịn đang
nằm trong sự quản lý của ông N nên không thỏa mãn dấu hiệu của tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản vì đối tượng tác động của tội này phải là tài sản đã được
người quản lý giao cho người phạm tội quyền quản lý.
- A phạm tội trộm cắp vì lén lút để cà phê vào trong ngăn kéo bí mật của máy
xay xát khơng cho ơng N biết.
Note: đặc thù của tội lạm dụng tín nhiệm là có được tài sản một cách hợp
pháp sau đó mới nảy sinh ý định chiếm đoạt, sau khi nảy sinh ý định chiếm đoạt rồi
mới dùng các thủ đoạn khác nhau chiếm đoạt tài sản đó.
5. Xác định cơ sở lý thuyết dùng để giải quyết tranh chấp tội danh đối với
hành vi của T.
Cơ sở lý thuyết dùng để giải quyết tranh chấp giữa tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản và trộm cắp tài sản là dựa vào đối tượng tác động, trong trường hợp
này ông N vẫn chưa giao cho A sự quản lý đối với số cà phê và đối với hành vi trộm
thì khơng thể xử theo tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Cơ sở lý thuyết dùng để giải quyết tranh chấp giữa tội trộm và tội lừa đảo thì
dựa vào hành vi khách quan, tội trộm là lén lút chuyển dịch tài sản một cách bất hợp
pháp còn lừa đảo là đưa ra thông tin gian dối làm cho nạn nhân tin tưởng giao tài sản
mà A khơng có hành vi đưa ra thông tin gian dối.
Bài tập 21:
Chiều ngày 17/1/2020, A gặp anh B ngoài bến xe, thấy anh B giữ chiếc túi
du lịch khá cẩn thận nên A đã đốn được trong đó có tài sản. Sau khi bắt chuyện,
nhận đồng hương và biết anh B cần chỗ nghỉ để sáng mai đi tiếp, A mời anh B về
phòng trọ mà A mới thuê nghỉ qua đêm. Về phòng trọ, A rủ anh B uống rượu
mừng tái ngộ và hai người cùng uống hết gần 1 lít rượu trắng. Nửa đêm, A cho
rằng anh B đã ngủ say, A lẻn dậy lấy túi du lịch của anh B và bỏ trốn, khi B kiểm
tra túi của A thì trong túi có 50 triệu đồng. Sáng hơm sau B cơng an trình báo và
A bị bắt ngay sau đó.
Tại trụ sở cơng an anh B cịn khai thêm: Khi A lẻn dậy lấy chiếc túi du lịch
của mình, mặc dù anh B có biết nhưng do quá say nên anh khơng có biện pháp
kháng cự.
2. Những tình tiết thực tế nào trong vụ án có giá trị định tội đối với hành vi
của A?
- Biết anh B cần chỗ nghỉ nên A mời B về phòng trọ A mới thuê nghỉ qua đêm.
- Về phòng, A rủ B uống rượu.
- Nửa đêm, A thấy B đã ngủ say nên lẻn dậy lấy túi của B và bỏ trốn, trong túi có
50 triệu đồng.
3. Nêu những cấu thành tội phạm (với các tội danh cụ thể) mà người tiến
hành tố tụng cần dự kiến áp dụng trước khi đưa ra kết luận về tội danh
đối với hành vi của A trong vụ án này?
Các tội danh dự kiến đối với A:
- Tội cướp tài sản (Điều 168): A cố tình chuốc rượu để B ngủ say (hành vi khác
làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được) nhằm
chiếm đoạt tài sản.
- Tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS 2015): Khi B đã ngủ say, A lẻn dậy lấy
túi du lịch của anh B và bỏ trốn, khi B kiểm tra túi của A thì trong túi có 50
triệu đồng.
Lưu ý: Khi đã dự kiến trộm cắp thì khơng dự kiến cơng nhiên.
Hành vi khác làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng
thể kháng cự được trong tội cướp tài sản có thể là cho uống thuốc mê, thuốc
độc (cho uống nhưng nạn nhân khơng biết) chứ cịn uống rượu thì nạn
nhân đã biết đó là rượu rồi nạn nhân tự nguyện uống chứ khơng ai ép thì
khơng xử cướp.
4. Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A trong vụ án này?
A khơng phạm tội cướp tài sản vì tình trạng say sỉn không thể kháng cự
được là do B tự tạo nên (hành vi khác làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng
khơng thể kháng cự được), B biết đó là rượu uống sẽ say mà vẫn uống chứ
không phải do A ép B uống. Mặt khác A có hành vi lén lút lấy túi của B chứ
không hề biết B cịn nhận thức (định tội danh theo ý chí chủ quan của người
phạm tội) nên A phạm tội trộm cắp (Điều 173).
Lưu ý: Trường hợp này không dự kiến tội lừa đảo vì nạn nhân khơng có
hành vi giao tài sản cho người phạm tội, tội lừa đảo là khi nào nạn nhân
đưa tin tưởng về thông tin gian dối của người phạm tội đưa ra mà giao tài
sản.
5. Xác định cơ sở lý thuyết dùng để giải quyết tranh chấp tội danh đối với
hành vi phạm tội của A.
Trong vụ án trên có sự tranh chấp tội danh giữa Tội cướp tài sản (Điều
168 BLHS 2015) và Tội trộm cắp tài sản (Điều 173), cơ sở lý thuyết giải
quyết tranh chấp hai tội danh này là dựa vào hành vi khách quan và ý chỉ chủ
quan của người phạm tội.
Bài tập 22: Khoảng 11 giờ ngày 20/11, A chở B đến bãi giữ xe khu du lịch
X chiếm đoạt xe máy. Quan sát thấy bãi giữ xe máy dùng phấn ghi số trên xe
khách, cả hai bàn nhau đem xe máy của A vào bãi gửi, sau đó thấy xe nào xịn
hơn thì xố số ghi trên xe đó rồi dùng phấn ghi số lại giống với số thẻ xe mình để
lấy xe đem ra ngồi.
A chạy xe máy của mình đến gửi tại bãi giữ xe và nhận thẻ giữ xe số 3219
rồi đưa cho B. Khoảng 15 phút sau, B quay lại bãi giữ xe xoá số 3371 trên một xe
máy hiệu Yamaha (trị giá mười năm triệu đồng) của anh D, ghi lại số 3219 giống
như số thẻ xe mà B cầm. Tiếp đó, B ung dung trình thẻ cho nhân viên giữ xe và
dắt xe ra, đến tiệm sửa khóa làm lại chìa khóa xe, rồi cùng A đem xe đi bán. Xong
xuôi, A quay lại bãi giữ xe và báo với người giữ xe là bị mất thẻ xe và đề nghị
người này cho lấy lại xe gắn máy. Vụ việc sau đó bị phát giác.
2. Tình tiết thực tế nào trong vụ án này có giá trị định tội đối với hành vi
của A và B?
Những tình tiết có giá trị định tội:
+ A chở B đến bãi giữ xe khu du lịch X, cả hai bàn nhau đem xe máy
của A vào bãi gửi, sau đó thấy xe nào xịn hơn thì xố số ghi trên xe đó rồi dùng
phấn ghi số lại giống với số thẻ xe của mình để lấy xe đem ra ngồi.
+ A chạy xe của mình đến bãi giữ xe và nhận thẻ giữ xe số 3219 rồi đưa
cho B để B xoá số 3371 trên một xe máy khác có giá là mười năm triệu của anh
D rồi ghi lại số 3219 cho giống thẻ xe mà B cầm. B dắt xe ra rồi đến tiệm sửa
khóa làm lại chìa mới và cùng A đem xe đi bán.
3. Dựa trên các tình tiết của vụ án, hãy nêu những cấu thành tội phạm (với
các tội danh cụ thể) mà người tiến hành tố tụng cần dự kiến trước khi đưa
ra kết luận về tội danh đối với hành vi của A và B trong vụ việc này.
Các tội danh dự kiến:
- Tội trộm cắp tài sản (Điều 173): B có hành vi lén lút sửa số trên chiếc xe máy
của anh D và ghi lại số thẻ xe mà mình cầm với mục đích chiếm đoạt.
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174): hành vi B đưa ra thơng tin gian
dối là xuất trình vé xe giả để người quản lý tài sản là nhân viên giữ xe tin đó là
sự thật mà tự nguyện giao xe cho B dắt ra.
4. Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A và B trong vụ việc này và
giải thích tại sao?
Trường hợp trên xe máy Yamaha không phải của A và B nhưng hai người họ
vẫn đưa ra thông tin gian dối là thẻ xe giả làm cho người kiểm soát vé tin tưởng giao
xe sau đó ung dung đi ra, thỏa mãn về dấu hiệu hành vi về tội lừa đảo. Khơng có hành
vi lén lút lấy xe mà là đưa ra thông tin gian dối nhằm làm cho người quản lý xe tin
tưởng giao xe nên khơng xử tội trộm cắp vì không thỏa mãn về mặt hành vi.
5. Xác định cơ sở lý thuyết dùng để giải quyết tranh chấp tội danh đối với
hành vi phạm tội của A và B.
Trong vụ án trên có sự tranh chấp tội danh giữa Tội trộm cắp tài sản (Điều
173) và Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS 2015). Cơ sở lý thuyết dùng
để giải quyết tranh chấp tội danh đối với hành vi của A và B là dựa vào hành vi khách
quan.