Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Địa vị pháp lý của giám đốc (tổng giám đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
------------------

PHAN NGỌC KIẾN LINH

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA GIÁM ĐỐC (TỔNG GIÁM ĐỐC)
TRONG BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ
CÔNG TY CỔ PHẦN
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
-------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA GIÁM ĐỐC (TỔNG GIÁM ĐỐC)
TRONG BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ
CÔNG TY CỔ PHẦN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: PHAN NGỌC KIẾN LINH
KHÓA: 43
MSSV:1853801011099
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THẠC SĨ NGUYỄN TUẤN VŨ

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Khóa luận tốt nghiệp
này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học
của Thạc sĩ Nguyễn Tuấn Vũ. Khóa luận tốt nghiệp này đảm bảo tính trung thực và
tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu hồn
tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả khóa luận

PHAN NGỌC KIẾN LINH


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
BKS
Ban kiểm soát
BLDS 2015
Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015.
BLTTDS 2015
Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày
25/11/2015
BLHS
Bộ luật Hình sự
CTCP
Cơng ty cổ phần
CA 2006
Companies Act (United Kingdom) 2006
CA 2001
Corporations Act (Australia) 2001

CA 1967
Companies Act (The Statutes of The Republic of
Singapore) 1967 (2020 revised edition)
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
ĐHĐCĐ
Đại hội đồng cổ đơng

Giám đốc
GDCNCTL
Giao dịch có nguy cơ tư lợi
HĐQT
Hội đồng quản trị
HĐLĐ
Hợp đồng lao động
LDN
Luật Doanh nghiệp
LDN 2020 (sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 ngày
năm 2022)
17/6/2020, được sửa đổi bổ sung bởi Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật
Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu
tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật
Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật
Thi hành án dân sự của Quốc hội số 03/2022/QH15
LCK 2019
Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14 ngày
26/11/2019
Nghị định 155
Nghị định số 155/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày

31/12/2020 quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Chứng khoán
NLHVDS
Năng lực hành vi dân sự
NQLCT
Người quản lý công ty
NĐD
Người đại diện
NLĐ
Người lao động
OECD
The Organisation of Economic Co-operation and
Development (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh
tế)
RMBCA
Revised Model Business Corporation Act 2016
Thông tư 116
Thông tư số 116/2020/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ
Tài chính ngày 31/12/2020 hướng dẫn một số điều
về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại
chúng tại Nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày 31
tháng 12 năm 2020 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Chứng khoán
CHỮ VIẾT TẮT


TGĐ
TAND

Tổng Giám đốc

Tòa án nhân dân


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM ĐỐC (TỔNG GIÁM
ĐỐC) TRONG BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN ...........6
1.1 Khát quát về bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ phần ......................................6
1.2 Khát quát về Giám Đốc (Tổng Giám Đốc) trong công ty cổ phần....................8
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm về Giám Đốc (Tổng Giám Đốc) ...............................8
1.2.2 Tiêu chuẩn, điều kiện làm Giám đốc (Tổng giám đốc) của công ty cổ phần
............................................................................................................................11
1.2.3 Vai trò của Giám Đốc (Tổng Giám Đốc) trong cơng ty cổ phần ..............14
1.3 Cơ sở hình thành mối quan hệ giữa Giám Đốc (Tổng Giám Đốc) với bộ máy
tổ chức quản lý công ty cổ phần ............................................................................16
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
GIÁM ĐỐC (TỔNG GIÁM ĐỐC) TRONG BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ
CÔNG TY CỔ PHẦN .............................................................................................19
2.1 Chức năng của Giám Đốc (Tổng Giám Đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý
công ty cổ phần ......................................................................................................19
2.2 Quyền và nghĩa vụ của Giám Đốc (Tổng Giám Đốc) trong bộ máy tổ chức
quản lý công ty cổ phần .........................................................................................20
2.2.1 Quyền và nghĩa vụ của Giám Đốc (Tổng Giám Đốc) trong hoạt động tổ
chức, quản lý nguồn nhân lực.............................................................................20
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của Giám Đốc (Tổng Giám Đốc) trong hoạt động điều
hành quản lý công ty ..........................................................................................22
2.2.3. Quyền và nghĩa vụ của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong hoạt động
quyết định và thực hiện các giao dịch ................................................................23
2.3 Trách nhiệm của Giám Đốc (Tổng Giám Đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý

công ty cổ phần ......................................................................................................27
2.3.1 Trách nhiệm trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm đảm bảo lợi ích hợp
pháp tối đa của công ty .......................................................................................27
2.3.2 Trách nhiệm trung thành với lợi ích của cơng ty ......................................30
2.3.3 Trách nhiệm thông báo và công khai thông tin .........................................32
2.4 Mối quan hệ giữa Giám đốc (Tổng Giám đốc) với các cơ quan khác trong bộ
máy tổ chức quản lý công ty cổ phần ....................................................................33
2.4.1 Mối quan hệ giữa Giám đốc (Tổng Giám đốc) với Đại hội đồng cổ đông
............................................................................................................................33
2.4.2 Mối quan hệ giữa Giám đốc (Tổng Giám đốc) với Hội đồng quản trị .....34


2.4.3 Mối quan hệ giữa Giám đốc (Tổng Giám đốc) với Ban kiểm soát ...........36
2.4.4 Mối quan hệ giữa Giám đốc (Tổng Giám đốc) với Ban điều hành ...........37
2.5 Kiểm soát và bảo đảm chức năng của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong tổ
chức, quản lý công ty cổ phần ...............................................................................38
2.5.1 Cơ chế khởi kiện........................................................................................38
2.5.2 Trách nhiệm pháp lý ..................................................................................40
2.5.3 Chế độ đãi ngộ ...........................................................................................42
2.5.4 Cơ chế giám sát và kiểm sốt nội bộ cơng ty cổ phần ..............................44
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................48
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA GIÁM
ĐỐC (TỔNG GIÁM ĐỐC) TRONG BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG
TY CỔ PHẦN ..........................................................................................................49
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của
Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ phần ........49
3.2 Các gợi mở, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Giám đốc
(Tổng Giám đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ phần .........................49
3.2.1 Về khái niệm “người có liên quan” trong pháp luật..................................49
3.2.2 Hướng dẫn và giải thích cụ thể về các trách nhiệm trung thực, cẩn trọng,

trung thành ..........................................................................................................50
3.2.3 Về quy chế trả lương, thù lao, tiền thưởng đối với Giám đốc (Tổng Giám
đốc) .....................................................................................................................52
3.2.4 Về cơ chế khởi kiện phái sinh theo quy định tố tụng dân sự ....................52
3.2.5 Bổ sung quy định điều khoản miễn trách nhiệm pháp lý cho Giám đốc
(Tổng Giám đốc) ................................................................................................53
3.2.6 Về vai trò giám sát Giám đốc (Tổng Giám đốc) của thành viên HĐQT độc
lập và Ban Kiểm soát..........................................................................................54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................55
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Doanh nghiệp là một trong những nhân tố đóng vai trị quan trọng trong nền
kinh tế thị trường. Trong các loại hình doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp (LDN)
thì Cơng ty cổ phần (CTCP) là một trong những loại hình quen thuộc, phổ biến và
ngày càng đóng vai trị quan trọng trong q trình phát triển kinh tế của các quốc gia.
Tuy nhiên, CTCP muốn vận hành và hoạt động có hiệu quả thì yếu tố trình độ quản
trị cơng ty của bộ máy tổ chức quản lý phải được chú trọng. Lịch sử hình thành và
phát triển của CTCP cho thấy sự thành bại của công ty hầu hết phụ thuộc vào sự dẫn
dắt và điều hành tận tâm của bộ máy tổ chức quản lý cơng ty nói chung và Giám đốc
(Tổng Giám đốc) (GĐ/TGĐ) nói riêng. Nếu GĐ/TGĐ cơng ty không tận tâm, trung
thành đối với công ty khi thực hiện nhiệm vụ của mình, thì rủi ro về vốn của các chủ
sở hữu công ty sẽ xuất hiện, công ty chịu tổn thất cũng như thị trường và nền kinh tế
bị ảnh hưởng nặng nề. Nhận thức được điều đó, từ lâu, quản trị cơng ty (corporate
governance) đã trở thành một vấn đề quan trọng trên toàn thế giới, được đánh giá như
là yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của công ty. Những quy định hoặc chuẩn
mực về địa vị pháp lý của GĐ/TGĐ CTCP vì thế cũng trở thành một phần không thể

tách rời của hoạt động quản trị công ty.
Ở Việt Nam, ngay từ Luật Công ty năm 1990, các nhà làm luật đã ghi nhận vai
trò, nhiệm vụ của GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP. Bởi lẽ, vị trí, quyền
hạn và trách nhiệm của GĐ/TGĐ chính là điều kiện tiên quyết để cho chất lượng của
hoạt động quản trị công ty cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công ty và cổ
đông được bảo đảm tối đa. Sau đó, trải qua nhiều lần sửa đổi, ban hành mới, từ LDN
1999, LDN 2005, đến LDN 2014 và gần đây là LDN 2020 (sửa đổi, bổ sung năm
2022), pháp luật về địa vị pháp lý của GĐ/TGĐ CTCP đã dần được hoàn thiện, những
quy định pháp lý đã cụ thể hơn giúp các chủ thể trong xã hội dễ dang thực hiện, đảm
bảo quyền và lợi ích trong q trình áp dụng, đáp ứng tốt hơn trước những đòi hỏi
khách quan của nền kinh tế thị trường và nhu cầu của thực tiễn kinh doanh.
Mặc dù các quy định của pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của GĐ/TGĐ
trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP đã có những bước tư duy đột phá, thế nhưng
chúng vẫn còn mang một số bất cập:
Thứ nhất, các quy định của luật vẫn chủ yếu mang tính chất ghi nhận địa vị pháp
lý của GĐ/TGĐ trong cơ cấu tổ chức quản lý CTCP mà chưa có hướng dẫn cụ thể
đối với việc giám sát, đơn đốc, kiểm sốt chặt chẽ hoạt động điều hành công ty của
GĐ/TGĐ. Hơn nữa, các quy định về trách nhiệm của GĐ/TGĐ vẫn chỉ mang tính
hình thức, thiếu những hướng dẫn, giải thích cụ thể. Do vậy, tính khả thi của các quy
định này khơng cao. Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, những vi phạm trong quản
trị cơng ty có rất nhiều, trong đó nổi bật là các GĐ/TGĐ CTCP có gian ý, thiếu trung
thực, dựa vào kẽ hở của pháp luật hiện hành để tiến hành tư lợi, xâm phạm lợi ích
chủ sở hữu và cơng ty.
Thứ hai, các cơ chế kiểm sốt và bảo đảm chức năng của GĐ/TGĐ vẫn còn một
số hạn chế, chưa thật sự phù hợp với thông lệ quốc tế về quản trị tốt. Chẳng hạn như
các quy định về cơ chế khởi kiện phái sinh khi GĐ/TGĐ có hành vi vi phạm chưa
thống nhất, chưa xuất phát từ bản chất pháp lý quyền khởi kiện của cổ đông theo
LDN, Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015) và Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS
2015). Thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc các nguồn luật điều chỉnh
quan hệ pháp luật về quản trị công ty (nhất là vấn đề bảo vệ cổ đông) phải hỗ trợ

1


nhau, có thứ bậc hiệu lực hợp lý bảo đảm sự thống nhất trong điều chỉnh các quan hệ
pháp luật này. Tuy nhiên, thực tiễn ở Việt Nam lại thấy nguồn luật điều chỉnh quan
hệ pháp luật về quản trị cơng ty vừa khơng đầy đủ lại cịn chồng chéo, mâu thuẫn,
thiếu tính hỗ trợ nhau.
Những bất cập trên của pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng như những
tiếng chng báo động, cảnh báo về tình trạng quản trị cơng ty cịn nhiều thiếu sót.
Từ đó địi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản
trị cơng ty nói chung, về địa vị pháp lý của GĐ/TGĐ trong CTCP nói riêng. Chính vì
lẽ trên, tác giả quyết định chọn để tài “Địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám đốc)
trong bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ phần” cho Khố luận tốt nghiệp cử nhân
Luật học của mình. Thơng qua đề tài, tác giả mong muốn đi sâu phân tích các quy
định pháp luật trong nước và quốc tế liên quan đến địa vị pháp lý của GĐ/TGĐ trong
CTCP, giới thiệu những nguyên tắc và chuẩn mực chủ yếu của quản trị công ty tốt
(good corporate governance), đưa ra những kiến nghị thực tế nhằm thúc đẩy việc thực
hiện quản trị công ty tốt và minh bạch, giúp nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành
doanh nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về chức danh GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP
không phải là vấn đề mới mẻ vì đây là một trong những chức danh quản lý trong cơ
cấu tổ chức của công ty. Qua quá trình khảo sát, cho đến thời điểm hiện nay đã có
một số cơng trình nghiên cứu khoa học về người quản lý cơng ty (NQLCT) nói chung
và GĐ/TGĐ CTCP nói riêng được cơng bố dưới nhiều hình thức khác nhau, cụ thể
có các nghiên cứu tiêu biểu sau:
Jeremy Seymour Pearce (2009), Director’s Powers and Duties in Vietnam,
Luận án tiến sỹ, Bond University. Luận án nghiên cứu về quyền hạn và nghĩa vụ của
NQLCT theo LDN Việt Nam, và so sánh các quyền và nghĩa vụ này với pháp luật
Úc. Cơng trình nghiên cứu cung cấp các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chế

định này. Tuy nhiên cơng trình nghiên cứu này được thực hiện theo LDN 2005 hiện
tại đã hết hiệu lực thi hành và chỉ còn giá trị tham khảo.
Adams, R. B., Almeida, H., & Ferreira, D. (2005), “Powerful CEOs and their
impact on corporate performance”, Review of Financial Studies, Vol. 18 (4)/2005,
pg. 1403 – 1432. Bài viết đứng từ góc nhìn kinh tế phân tích về quyền lực của TGĐ
và sự ảnh hưởng của chức danh này lên HĐQT và các GĐ khác. Các tác giả phát triển
và kiểm tra nhiều giả thuyết, từ đó kết luận rằng trong cơng ty mà TGĐ có nhiều
quyền ra quyết định hơn thì hoạt động của công ty sẽ dễ bị biến động và lợi nhuận cổ
phiếu thay đổi nhiều hơn. Nhưng, bài viết cũng chỉ tập trung vào vấn đề quyền lực
của TGĐ, chứ không làm rõ thêm các vấn đề khác của TGĐ như nghĩa vụ, trách
nhiệm đối với công ty.
Institute of Directors (2009), The handbook of international corporate
governance – A definitive guide, 2nd edition. Cuốn sách cho người đọc cái nhìn tổng
quan về các vấn đề quản trị công ty xảy ra trên thế giới, trong đó có một phần nghiên
cứu về trách nhiệm của GĐ điều hành cũng như cơ chế đãi ngộ của chức danh này.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là một khía cạnh trong địa vị pháp lý của GĐ điều hành trong
bộ máy tổ chức quản lý CTCP.
Tại Việt Nam cũng có một số cơng trình nghiên cứu về chế định này, cụ thể như
sau:

2


Ngô Viễn Phú (2005), “Địa vị pháp lý của Tổng Giám đốc cơng ty cổ phần”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2005, tr. 33 – 39. Tác giả tập trung phân tích các
vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của TGĐ CTCP theo pháp luật Việt Nam, kết hợp so
sánh với pháp luật Trung Quốc. Tác giả còn nhận diện và đưa ra hướng giải quyết
cho các vấn đề thực tế nảy sinh trong quá trình TGĐ điều hành công ty. Tuy nhiên,
bài viết được nghiên cứu trên cơ sở quy định của LDN năm 1999, nên một số nhận
định đã khơng cịn phù hợp trong thời điểm hiện tại.

Bùi Xuân Hải (2005), “Người quản lý cơng ty theo LDN 1999 – Nhìn từ góc độ
luật so sánh”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 04 (29)/2005, tr. 14 – 20. Ở bài viết này,
tác giả không nghiên cứu riêng về GĐ/TGĐ CTCP mà lại nghiên cứu về những
NQLCT nói chung. Trong bài viết, tác giả đã nghiên cứu về việc xác định ai là
NQLCT theo pháp luật Việt Nam, xem xét đối chiếu với các hệ thống pháp luật trên
thế giới. Từ đó đưa ra các kiến nghị hữu ích cho việc sửa đổi pháp luật doanh nghiệp.
Mặc dù vậy, đề tài cũng chỉ dừng lại ở việc xác định đúng ai là NQLCT, còn các vấn
đề về nghĩa vụ của NQLCT, cũng như cấu trúc quản trị và mối quan hệ giữa nó với
NQLCT thì chưa được phân tích trong đề tài.
Phạm Trí Hùng, Nguyễn Trung Thẳng (2012), CEO và Hội đồng quản trị, Nhà
xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. Sách tập trung phân tích những vấn đề xung
quanh chức danh CEO và HĐQT, cũng như đưa ra những nguyên tắc và chuẩn mực
chủ yếu của quản trị công ty. Các tác giả đã bước đầu đưa ra khái niệm về chức danh
GĐ/TGĐ. Hơn nữa, còn đưa ra những gợi mở để giúp CEO và HĐQT điều hành và
quản trị công ty một cách chuyên nghiệp, bài bản. Tuy nhiên, cuốn sách chỉ phân tích
khái quát về các quy định của pháp luật Việt Nam về chức danh GĐ/TGĐ CTCP,
chưa làm nổi bật được những vấn đề còn đang gây tranh cãi.
Đỗ Minh Tuấn (2017), Pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý công ty cổ phần
Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội. Luận án cung cấp cái nhìn
tổng quan về vấn đề lý luận và thực tiễn về khái niệm, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý
của NQLCTCP, đồng thời đề cập một số vấn đề cịn có ý kiến đa chiều và đề xuất
một số giải pháp cần thực hiện để hoàn thiện các quy định của Việt Nam về nghĩa vụ
của NQLCTCP. Tuy nhiên, luận án chỉ tập trung nghiên cứu đến một khía cạnh là
nghĩa vụ của NQLCTCP mà khơng đề cập đến khía cạnh khác như quyền hạn và trách
nhiệm với các chủ thể khác của NQLCTCP nói chung, GĐ/TGĐ CTCP nói riêng.
Tựu trung lại, các nghiên cứu về NQLCT nói chung và GĐ/TGĐ nói riêng trong
tổ chức, quản lý CTCP khơng cịn là chủ đề nghiên cứu mới của khoa học pháp lý.
Tuy nhiên, các nghiên cứu toàn diện về địa vị pháp lý của GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ
chức quản lý của CTCP còn khá hạn chế. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay khi pháp
luật doanh nghiệp vừa được sửa đổi, bổ sung, các đòi hỏi mới từ thực tiễn cũng như

nhu cầu cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng tăng cao; cần có nghiên
cứu toàn diện và chuyên sâu về địa vị pháp lý của của GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức
quản lý CTCP.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Thơng qua việc nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới đạt được các mục đích
nghiên cứu quan trọng sau:
Thứ nhất, hệ thống và phát triển những vấn đề lý luận quan trọng về địa vị pháp
lý của GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP.
Thứ hai, làm rõ, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của
GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP; thông qua đó, tác giả đưa ra các đánh
3


giá về bất cập, vướng mắc và khó khăn liên quan đến áp dụng pháp luật trong thực
tiễn.
Thứ ba, đánh giá thực tiễn tài phán liên quan đến địa vị pháp lý của GĐ/TGĐ
trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP từ một số vụ án, vụ việc điển hình.
Thứ tư, đưa ra một số gợi mở, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về địa vị
pháp lý của GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP trên cơ sở lý luận và thực
tiễn đã nghiên cứu trong đề tài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Địa vị pháp lý của GĐ/TGĐ trong bộ máy
tổ chức quản lý CTCP”, trong đó, đề tài tập trung nghiên cứu:
Thứ nhất, những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ
chức quản lý CTCP.
Thứ hai, các quy định của pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của GĐ/TGĐ
trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP.
Thứ ba, thực tiễn tài phán và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về địa vị
pháp lý của GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP.

Thứ tư, kinh nghiệm pháp luật điều chỉnh đối với quyền hạn, nghĩa vụ và trách
nhiệm pháp lý của GĐ/TGĐ CTCP ở các nước trên thế giới có lịch sử và kinh nghiệm
về quản trị cơng ty như Hoa Kỳ, Anh, Úc… và chuẩn mực quản trị công ty do Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ban hành.
4.2 Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu các quyền
hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của GĐ/TGĐ CTCP, cũng như nghiên cứu cấu
trúc quản trị và mối quan hệ giữa nó với GĐ/TGĐ CTCP trong các văn bản pháp luật
Việt Nam đang có hiệu lực như: LDN năm 2020 (được sửa đổi, bổ sung năm 2022),
Luật Chứng khoán (LCK) năm 2019, Nghị định số 155/2020/NĐ-CP (Nghị định 155),
Thông tư số 116/2020/TT-BTC quy định về quản trị công ty áp dụng cho các công ty
đại chúng (Thông tư 116) và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Đồng thời,
tác giả còn nghiên cứu các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật của một
số nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Úc, Anh, Singapore… và chuẩn mực quản trị
doanh nghiệp do OECD ban hành về NQLCTCP, để gợi mở việc tiếp thu các kinh
nghiệm tốt cho Việt Nam.
Đề tài sẽ không đi sâu vào nghiên cứu các thành viên trong Ban Giám đốc (gồm
GĐ, thư ký công ty); các trách nhiệm pháp lý như trách nhiệm hình sự, trách nhiệm
hành chính, trách nhiệm kỷ luật. Các vấn đề khác như trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp, trách nhiệm của GĐ/TGĐ đối với bên thứ ba (như đối tác, khách hàng, chủ
nợ) cũng không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Thứ nhất, phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp: Hai phương pháp
này được dùng để phân tích và đánh giá một cách tổng quan và chuyên sâu về các
vấn đề lý luận, các quy định pháp luật về GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý
CTCP. Bên cạnh đó, hai phương pháp này cịn được dùng để nghiên cứu thực tiễn xét
xử và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan. Ngoài ra, phương pháp tổng hợp được
dùng để tổng hợp và kết luận về kết quả nghiên cứu.


4


Thứ hai, phương pháp so sánh: phương pháp này được sử dụng để so sánh, đối
chiếu thực trạng pháp luật doanh nghiệp Việt Nam với thực trạng pháp luật một số
quốc gia, khu vực khác trên thế giới về quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý
của GĐ/TGĐ trong CTCP; từ đó, đánh giá mức độ tương đồng, khác biệt và điểm
tiến bộ để gợi mở, kiến nghị cho Việt Nam. Phương pháp này cịn được dùng để tìm
ra sự thay đổi của LDN hiện hành so với LDN năm 2014 về các quy định chức danh
GĐ/TGĐ.
Thứ ba, phương pháp phân tích bản án, vụ việc: sử dụng khi đề cập đến tình
hình thực thi các quy định pháp luật về quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý
của GĐ/TGĐ CTCP trên thực tế, qua đó tạo góc nhìn tồn diện hơn trong nghiên cứu
pháp luật về địa vị pháp lý của GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP.
6. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi lời mở đầu và kết luận, khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong bộ máy
tổ chức quản lý công ty cổ phần
Chương 2: Thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám
đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ phần
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám
đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ phần
Trong mỗi chương, tác giả kết hợp các phương pháp nghiên cứu để phân tích,
bình luận và tổng hợp những vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến địa vị pháp
lý của GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP, cũng như so sánh và tiếp thu
kinh nghiệm từ các quốc gia, khu vực trên thế giới có khung pháp lý phát triển về vấn
đề này. Sau cùng, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam.

5



CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM ĐỐC (TỔNG GIÁM
ĐỐC) TRONG BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1 Khát quát về bộ máy tổ chức quản lý cơng ty cổ phần
Hình thức CTCP đã được phôi thai từ thời La Mã cổ đại1. Sự sáng tạo ban đầu
của người La Mã về “corpora”2 là một trong những phát minh vĩ đại trong lịch sử loài
người, “nhất là ý tưởng một nhóm người họp lại với nhau tạo nên một thực thể tách
rời với họ”3. Nhưng phải đến đầu thế kỉ XVII, sau khi xuất hiện CTCP đầu tiên là
“British East India Company”4, các CTCP mới lần lượt được thành lập. Và từ đó cho
đến nay, CTCP ln là loại hình cơng ty phổ biến và cơ bản nhất, tồn tại ở hầu hết
các nước trên thế giới, nếu khơng muốn nói là ở tất cả các hệ thống pháp luật trên thế
giới5. Nhiều trong số chúng đã đạt đến quy mô rất lớn cả về tài sản, kinh doanh, cũng
như nhân lực... Vì vậy khả năng chủ sở hữu đồng thời giữ vai trò người quản lý như
trong các mơ hình doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh là không khả thi. Sự
phân tách giữa sở hữu và quản trị (the separation of ownership and control) này dẫn
đến địi hỏi CTCP phải có bộ máy tổ chức quản lý chuyên nghiệp, đảm bảo trách
nhiệm giải trình. Chính địi hỏi này khiến cho bộ máy tổ chức quản lý CTCP trở nên
được chú trọng và mang lại nhiều khác biệt.
“Bộ máy tổ chức quản lý” của CTCP được hiểu là tập hợp những người có
nhiệm vụ kiểm sốt hoạt động kinh doanh và tài sản của công ty theo quy định của
pháp luật6. Xuất phát từ những đặc điểm của quản trị, bộ máy tổ chức quản lý CTCP
không chỉ là cơ sở nền tảng giúp công ty tổ chức hoạt động một cách hiệu quả, an
toàn, hướng đến đạt được các mục tiêu đầu tư kinh doanh của chủ sở hữu; mà còn có
vai trị hết sức quan trọng, quyết định sự sống cịn của cơng ty. Đặc biệt, CTCP là
loại hình cơng ty thường có quy mơ hoạt động lớn và có cơ cấu tổ chức quản lý phức
tạp, nơi mà vai trò của bộ máy tổ chức quản lý được thể hiện rõ nét hơn cả. Hiện nay,
bộ máy tổ chức quản lý CTCP theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam gồm có những
cơ quan quan trọng sau:
Thứ nhất, Cơ quan quyền lực cao nhất – Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ): Đây

là cơ quan tập hợp tất cả các cổ đông của công ty. ĐHĐCĐ là cơ quan quyền lực cao
nhất và có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của cơng ty7. Tuy nhiên,
do tính chất đơng đảo và không chuyên nghiệp của cổ đông, ĐHĐCĐ không thể là
cơ quan hoạt động thường xuyên, quản lý các hoạt động thường ngày của cơng ty mà
chỉ có thể gián tiếp quản lý công ty thông qua hoạt động biểu quyết tại các cuộc họp
ĐHĐCĐ. Nhưng ĐHĐCĐ thường chỉ họp một năm một lần, cơ quan này cũng có thể
họp bất thường nhưng các cuộc họp bất thường cũng khơng diễn ra thường xun. Vì
lẽ đó, LDN chỉ quy định ĐHĐCĐ có thẩm quyền quyết định những vấn đề căn bản
Ngơ Huy Cương (2013), Giáo trình luật thương mại (phần chung và thương nhân), Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, tr. 217.
2
Trong thời kỳ La Mã cổ đại có tồn tại hai loại tổ chức đó là “societas” của các quý tộc và “corpora” (công
ty). “Societas” là những nhóm tập hợp những cá nhân với các hợp đồng thu thuế ngắn hạn. Còn “corpora” do
những thợ thủ công và thương gia lập ra. (Xem thêm: Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), Cơng ty
– vốn, quản lý & tranh chấp theo Luật doanh nghiệp năm 2005, Nhà xuất bản Tri thức, tr. 32).
3
Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), tlđd (2), tr. 32.
4
Trường Đại học Luật TP.HCM (2021), Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh (tái bản lần 2, có sửa đổi
và bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 266.
5
Nguyễn Ngọc Bích (2004), Luật Doanh nghiệp: Vốn và quản lý trong CTCP, Nhà xuất bản Trẻ, tr. 26.
6
Michael C. Jensen & William H. Meckling (1976), “The Theory of the Firm: Managerial Behavior, Agency
Costs, and Ownership Structure”, Journal of Financial Economics, Vol. 3/1976, pg. 312.
7
Trường Đại học Luật TP.HCM (2021), tlđd (4), tr. 326.
1

6



nhất của cơng ty; cịn phần lớn các vấn đề của công ty thuộc thẩm quyền quản lý của
các cơ quan quản lý và điều hành.
Thứ hai, Cơ quan quản lý chuyên trách – Hội đồng quản trị (HĐQT): Cơ quan
này gồm một nhóm người, thường là cổ đơng hoặc không phải là cổ đông của công
ty, được ĐHĐCĐ bỏ phiếu thành lập, chịu trách nhiệm quản lý công ty và thực hiện
những nhiệm vụ được ĐHĐCĐ giao hoặc đã được ấn định trong Điều lệ công ty.
HĐQT cũng đồng thời đóng vai trị điều phối các kỳ họp của ĐHĐCĐ. Tuy nhiên,
HĐQT cũng chỉ có thể hoạt động thường xun hơn ĐHĐCĐ chứ khơng thể hoạt
động liên tục, chính vì thế, tầng nấc quản trị thứ ba được lập ra.
Thứ ba, Cơ quan điều hành – đứng đầu cơ quan này là GĐ/TGĐ: Cơ quan này
chịu trách nhiệm điều hành tất cả những hoạt động kinh doanh thường ngày của công
ty do Điều lệ, ĐHĐCĐ và HĐQT giao cho. Luật Doanh nghiệp của Việt Nam cũng
đã phân định rõ hoạt động quản lý công ty là chức năng thuộc về HĐQT và điều hành
công ty được quy định là chức năng thuộc về GĐ/TGĐ công ty8.
Thứ tư, Cơ quan kiểm soát – Ban kiểm soát (BKS): Đây là cơ quan theo dõi,
kiểm tra, thẩm định các hoạt động quản lý và điều hành. BKS là cơ quan kiểm soát
độc lập với cơ quan quản lý và xuất hiện trong trường hợp CTCP lựa chọn mơ hình
đa hội đồng9.
Nhìn chung, có thể thấy pháp luật doanh nghiệp nước ta quy định về cơ cấu tổ
chức quản lý CTCP phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại
hai mơ hình quản lý CTCP cơ bản. Mơ hình thứ nhất là mơ hình một hội đồng (unitary
board structure hay one-tier system) có trong Luật Cơng ty của hầu hết các nước thuộc
hệ thống thông luật (common law) như Mỹ, Anh, Australia, New Zealand,
Canada…10 Theo mơ hình này, trong cấu trúc quản trị của CTCP chỉ có một hội đồng
là Cơ quan quản lý (board of directors), do ĐHĐCĐ bầu ra và có hai chức năng là
quản lý và giám sát. Chức năng quản lý được thể hiện thông qua các hoạt động như
thông qua các quyết định kinh doanh quan trọng của công ty. Trong khi đó chức năng
giám sát được thể hiện thơng qua cơng việc theo dõi và kiểm tra các hoạt động của

bộ máy điều hành cơng ty11. Ngược lại, mơ hình hai hội đồng (dual board structure
hay two-tier system) có nguồn gốc từ Đức lại quy định trong cấu trúc quản lý của
CTCP phải có hai hội đồng tồn tại song song gồm Hội đồng giám sát và Hội đồng
quản lý12, bởi lẽ triết lý của mơ hình này là lợi ích của các nhóm lợi ích bên cạnh cổ
đơng cũng cần được bảo vệ, đặc biệt là lợi ích của người lao động (NLĐ)13. Như vậy,
thơng qua các mơ hình quản lý CTCP trên thế giới, có thể thấy các cơ quan như Hội
đồng giám sát, Hội đồng quản lý ở mơ hình hai hội đồng hay Cơ quan quản lý ở mơ

Bùi Xn Hải (2012), “Lý luận và mơ hình quản trị cơng ty ở nước ngồi và vấn đề tiếp nhận vào Việt Nam”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5 (289)/2022, tr. 59.
9
Tại Việt Nam, theo Điều 137 LDN 2020, mơ hình tổ chức quản lý CTCP như sau: (i) Thứ nhất, CTCP có
ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS và GĐ/TGĐ. Trường hợp CTCP có dưới 11 cổ đơng và các cổ đông là tổ chức sở hữu
dưới 50% tổng số cổ phần của cơng ty thì khơng bắt buộc phải có BKS; (ii) Thứ hai, CTCP có ĐHĐCĐ, HĐQT
và GĐ/TGĐ. Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên HĐQT phải là thành viên độc lập và có Ủy ban kiểm
toán trực thuộc HĐQT.
10
Bùi Xuân Hải (2006), “So sánh cấu trúc quản trị nội bộ của công ty cổ phần Việt Nam với các mơ hình điển
hình trên thế giới”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6/2006.
11
Chẳng hạn, xem Điều 8.01 của RMBCA 2016; Điều 198A Corporations Act (Australia) 2001 (CA 2001).
12
Bùi Xuân Hải (2006), tlđd (10), truy cập ngày 19/5/2022.
13
Michael Bradley et al (1999), “The Purposes and Accountability of the Corporation in Contemporary
Society: Corporate Governance at a Crossroads”, Law and Contemporary Problems, Vol. 62 (3)/1999, pg. 57.
8

7



hình một hội đồng đều tương tự như HĐQT và BKS ở Việt Nam, đều có chức năng
quản lý và giám sát các hoạt động của bộ máy điều hành cơng ty.
Tựu trung lại, có thể thấy, dù bộ máy quản lý của CTCP được thiết kế như thế
nào thì ln có ba cơ quan ĐHĐCĐ, HĐQT và GĐ/TGĐ, những cơ quan có vai trị
quan trọng trong cơng ty. Điều này có nghĩa là, dù CTCP được tổ chức theo mơ hình
nào đi chăng nữa cũng khơng ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của GĐ/TGĐ CTCP.
1.2 Khát quát về Giám Đốc (Tổng Giám Đốc) trong công ty cổ phần
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm về Giám Đốc (Tổng Giám Đốc)
Mặc dù CTCP có thể đảm nhận một số quyền và nghĩa vụ như con người tự
nhiên bởi vì nó là một con người do pháp luật kiến tạo ra – pháp nhân, nhưng thực
chất, tự bản thân nó khơng thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành động
thông qua những con người cụ thể – những người quản lý14. Lịch sử tài phán cũng
cho thấy điều này, từ giữa thế kỷ 19, các án lệ của các nước theo truyền thống thông
luật (common law) đã khẳng định rằng, cơng ty chỉ có thể hành động thơng qua những
NQLCT, và hành động của cá nhân cổ đông sẽ không ảnh hưởng, không ràng buộc
trách nhiệm của công ty – với tư cách là một thực thể pháp lý độc lập15.
Trên thực tế, để tổ chức quản lý một CTCP, nhất là CTCP có quy mơ lớn, bao
gồm rất nhiều công việc. Mặc dù HĐQT là cơ quan quản lý chuyên trách, nhưng họ
không thể làm tất cả công việc, do đó, một tầng quản trị được lập ra: một người đảm
nhiệm chức danh GĐ/TGĐ để điều hành các hoạt động hàng ngày. GĐ/TGĐ trong
CTCP thường được hiểu là “người quản lý điều hành cao nhất một công ty và thường
là người đại diện (NĐD) cho công ty về mặt pháp luật… Nói một cách ví von, nếu
cơng ty như một cỗ máy thì GĐ/TGĐ là người vận hành sửa chữa, bảo trì, nâng cấp
để bộ máy ấy ln hoạt động một cách trơn tru và hướng đến chỉ số công suất cao
nhất”16. Định nghĩa này đã đưa ra cái nhìn tổng quan chung về GĐ/TGĐ trong bộ
máy tổ chức quản lý CTCP.
Hệ thống pháp luật công ty của hầu hết các quốc gia trên thế giới nhận thấy
được sự cần thiết của GĐ/TGĐ trong cấu trúc quản trị CTCP, tuy nhiên, mỗi quốc
gia trên thế giới lại có sự tiếp cận với những cách thức khác nhau dẫn đến việc đưa

ra các định nghĩa về GĐ/TGĐ cũng khác biệt. Pháp luật Úc gọi GĐ/TGĐ là
“Managing director” (MD – GĐ điều hành), và nhìn nhận GĐ điều hành là cơ quan
cấp dưới của HĐQT khi quy định quyền hạn của GĐ điều hành là do HĐQT trao cho,
và HĐQT có thể thu hồi hoặc thay đổi quyền hạn của GĐ điều hành 17. Luật công ty
của Singapore lại gọi GĐ/TGĐ là “Chief executive officer” (CEO – TGĐ điều hành),
và cho rằng TGĐ điều hành có thể bao gồm một hoặc nhiều người, chỉ cần đáp ứng
hai điều kiện: (i) làm việc trực tiếp cho công ty và (ii) là người chịu trách nhiệm chính
cho việc quản lý và điều hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh của công
ty; mà không quan tâm họ được gọi với chức danh gì18. Tương tự với pháp luật
Phạm Duy Nghĩa (2009), Luật Doanh nghiệp, Tình huống – phân tích – bình luận, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, tr. 129.
15
Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí
Khoa học pháp lý, số 4 (41)/2007, tr. 21
16
Phạm Trí Hùng, Nguyễn Trung Thẳng (2012), CEO và Hội đồng quản trị, Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ
Chí Minh, tr. 16 – 17.
17
Điều 198C và Điều 201J CA 2001.
18
Điều 4 về giải thích từ ngữ Companies Act (The Statutes of The Republic of Singapore) 1967 (2020 revised
edition) (CA 1967) (bản sửa đổi năm 2022). Thực chất quy định này bao gồm cả những ai là GĐ thực tế, GĐ
giấu mặt. (Xem thêm Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp các vấn đề pháp lý cơ bản, Nhà
xuất bản Dân trí, tr. 354).
14

8


Singapore, luật công ty của Ấn Độ cũng gọi GĐ/TGĐ là CEO – TGĐ điều hành, đồng

thời nhìn nhận TGĐ điều hành là một quan chức công ty (officer), người được công
ty chỉ định19. Luật công ty Ấn Độ không xác định trình độ chun mơn, kinh nghiệm,
nhiệm kỳ, điều kiện hay quy định bất kỳ vai trò, chức năng nào cho TGĐ điều hành,
mà cho rằng những điều trên thuộc quyền quyết định của ban lãnh đạo công ty20.
Như vậy, mỗi quốc gia với nhận thức về pháp luật khác nhau, có những định
nghĩa về GĐ/TGĐ là khác nhau. Nhưng nhìn chung, đa số các nước trên thế giới đều
nhận định rằng GĐ/TGĐ là người đứng đầu của bộ phận điều hành, “không phải là
người chủ (master), cũng không phải là người làm thuê thông thường (servant) mà là
người có quyền chỉ huy điều khiển nghiệp vụ và có địa vị cao cấp của công ty”21, và
được gọi là CEO hay MD. Theo tác giả Bùi Xuân Hải thì cả hai tên gọi trên đều mang
ý nghĩa tương tự như GĐ/TGĐ trong các công ty của Việt Nam22. Cụ thể, LDN Việt
Nam hiện hành cũng nhìn nhận GĐ/TGĐ là người do HĐQT bổ nhiệm và “là người
điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty; chịu sự giám sát của HĐQT;
chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước pháp luật về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
được giao”23.
Tuy vậy, cách tiếp cận chức danh GĐ/TGĐ theo LDN Việt Nam vẫn có điểm
khác so với GĐ/TGĐ trên thế giới. Cụ thể: pháp luật công ty của các nước trên thế
giới khơng có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của GĐ/TGĐ (statutory power) như
trong pháp luật công ty Việt Nam24. Quyền lực của GĐ/TGĐ ở các quốc gia trên thế
giới sẽ do ban lãnh đạo CTCP quyết định trên cơ sở ủy nhiệm. Vì thế khơng phải các
GĐ/TGĐ ở các CTCP đều có quyền lực như nhau. Cịn theo luật Việt Nam, các quyền
và nghĩa vụ của GĐ/TGĐ CTCP do pháp luật quy định và các cổ đông hay HĐQT
chỉ có thể trao thêm chứ khơng được lấy bớt đi.
Nhìn chung, đa số các nước trên thế giới hiện nay đều không định nghĩa một
cách thống nhất về khái niệm GĐ/TGĐ. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra một
định nghĩa khái quát về GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP ở Việt Nam
như sau: “GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP là người đứng đầu cơ quan
điều hành, do HĐQT bổ nhiệm hoặc thuê để điều hành công việc kinh doanh hằng
ngày và chịu sự giám sát của HĐQT, là người phụ trách điều hành công việc nội bộ
của công ty. Cấp trên của GĐ/TGĐ là HĐQT, cấp dưới của GĐ/TGĐ là các GĐ chức

năng (GĐ tài chính, GĐ nhân sự...) và tồn bộ máy nhân sự của công ty”.
Với khái niệm này, GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP có một số
đặc điểm cơ bản sau:
(i) GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP là chức danh do HĐQT bổ
nhiệm hoặc thuê để điều hành công việc kinh doanh hằng ngày và chịu sự giám sát
của HĐQT
GĐ/TGĐ có thủ tục hình thành khác với các chức vụ quản lý cao cấp khác trong
CTCP: theo LDN Việt Nam hiện hành thì GĐ/TGĐ sẽ do HĐQT – cơ quan quản lý,
Khoản 18 Điều 2 Đạo luật công ty Ấn Độ năm 2013 (Companies Act (India) 2013).
Geeta Saar – Institute of Company Secretaries of India (ICSI) (2016), “Chief Executive Officer and Chief
Financial Officer”, truy cập ngày
19/5/2022.
21
Ngô Viễn Phú (2005), “Địa vị pháp lý của TGĐ CTCP”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2005, tr. 34.
22
Bùi Xuân Hải (2006), tlđd (10), truy cập ngày 19/5/2022.
23
Khoản 2 Điều 162 LDN 2022 (sửa đổi, bổ sung năm 2022). Thực chất quy định này khơng có thay đổi gì so
với khoản 2 Điều 157 LDN 2014.
24
Bùi Xuân Hải (2012), tlđd (8), tr. 64.
19
20

9


bổ nhiệm hoặc thuê. Lúc này, Chủ tịch HĐQT sẽ đại diện cho công ty – người sử
dụng lao động ký hợp đồng với GĐ/TGĐ – NLĐ; và điểm khác giữa GĐ/TGĐ với
những NLĐ khác là GĐ/TGĐ có thêm nhiệm vụ điều hành công việc kinh doanh

hằng ngày của công ty. Bởi vì cách thức xác lập chức danh nên GĐ/TGĐ CTCP phải
chịu sự giám sát của HĐQT, chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước pháp luật về việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ được giao. Điều này tương tự với pháp luật cơng ty của
các nước trên thế giới, ví dụ như GĐ/TGĐ CTCP tại Úc có thể được bổ nhiệm bởi
các thành viên của Board of directors (tương tự như HĐQT ở Việt Nam)25. Như vậy,
đa số các nước trên thế giới đều nhìn nhận GĐ/TGĐ là một chức danh được lập ra để
giúp việc cho Cơ quan quản lý. Do đó, Cơ quan quản lý của CTCP theo pháp luật
từng quốc gia sẽ có thẩm quyền bổ nhiệm, phê chuẩn quyết định bổ nhiệm chức danh
GĐ/TGĐ.
(ii) GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP là một cá nhân giữ chức năng
chuyên biệt là điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty:
Thực chất, việc được bổ nhiệm hoặc thuê không phải là yếu tố duy nhất để xác
định một người là GĐ/TGĐ của CTCP, mà để xác định một người có phải là GĐ/TGĐ
hay khơng còn dựa vào vai trò thực tế của cá nhân đó trong CTCP. Trong hoạt động
xét xử thực tế, các tịa án xác định ai là GĐ cơng ty theo chức năng, cơng việc mà
người đó làm chứ khơng phải chỉ theo chức danh, vì thế một người khơng được bổ
nhiệm chính thức làm GĐ vẫn có thể bị Tịa án coi là GĐ và phải chịu trách nhiệm
như GĐ26. Như vậy, để được xem là GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP,
cá nhân đó cịn phải đảm nhiệm chức năng điều hành thực tế công việc kinh doanh
hằng ngày của công ty, và quyết định của người này sẽ ảnh hưởng đối với các các
GĐ phòng ban chức năng hoặc các NQLCT khác; sự quản lý, chỉ đạo của người này
có sức ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng tài sản, tài chính hoặc hoạt động kinh doanh
của công ty.
(iii) GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP là người đứng đầu hệ thống
cơ quan điều hành CTCP
Trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP, HĐQT là cơ quan có chức năng quản lý
chuyên biệt, làm việc thông qua các cuộc họp và chủ yếu là đưa ra các quyết định
mang tính định hướng. Cịn việc tổ chức thực hiện các quyết định đó là chức năng
thuộc về cơ quan điều hành bao gồm GĐ/TGĐ và các phịng ban chức năng, trong đó
GĐ/TGĐ là người đứng đầu cơ quan này bởi vì cách thức xác lập của mình – được

HĐQT bổ nhiệm hoặc thuê; trong khi những người điều hành khác sẽ do GĐ/TGĐ
bổ nhiệm. Thực tế, để được bổ nhiệm bởi HĐQT, GĐ/TGĐ phải trải qua một quy
trình tuyển chọn và bổ nhiệm chặt chẽ, khâu sàng lọc cuối cùng được thể hiện bằng
quyết định bổ nhiệm của HĐQT. A. Gilchrist Sparks, III và Lawrence A. Hamermesh
cho rằng: “Một người được bổ nhiệm một cách minh thị bởi HĐQT được mặc nhiên
suy đốn là có thẩm quyền ra quyết định về các vấn đề của cơng ty, trừ trường hợp
có căn cứ rõ ràng cho thấy HĐQT khơng có ý định trao thẩm quyền đó”27. Và với tư
cách này, GĐ/TGĐ CTCP có vai trị quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động
Pháp luật công ty của Úc tại Điều 201J CA 2001 quy định các thành viên của Board of directors có thể bổ
nhiệm một hoặc nhiều người trong số họ trở thành GĐ điều hành, đồng thời quy định nhiệm kỳ và các quyền
hạn cụ thể (bao gồm cả thù lao).
26
Bùi Xuân Hải (2005), “NQLCT theo LDN 1999 – Nhìn từ góc độ luật so sánh”, Tạp chí khoa học pháp lý,
số 04 (29)/2005, tr. 15.
27
A. Gilchrist Sparks, III and Lawrence A. Hamermesh (1992), “Common Law Duties of Non-Director
Corporate Officers”, The Business Lawyer, Vol. 48/1992, pg. 216.
25

10


kinh doanh hằng ngày của công ty không thuộc thẩm quyền của HĐQT mà khơng
cần phải có sự thơng qua của HĐQT. Việc này phần nào giúp tiết kiệm khoản chi phí
ra các quyết định cơ bản của cơng ty, tránh được việc thông báo và chờ đợi sự quyết
định một cách không cần thiết đối với những vấn đề cơ bản của cơng ty, từ đó có thể
nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
1.2.2 Tiêu chuẩn, điều kiện làm Giám đốc (Tổng giám đốc) của công ty cổ
phần
Trong CTCP, GĐ/TGĐ không đơn thuần chỉ là một bộ phận để hoàn chỉnh bộ

máy tổ chức quản lý CTCP, mà cịn có vị trí, vai trị rất quan trọng, nắm giữ chìa khóa
thành cơng của cơng ty, mọi hành động của GĐ/TGĐ đều có ảnh hưởng rất nhiều đến
cơng ty. Do đó, để trở thành GĐ/TGĐ CTCP, một chủ thể cần phải đáp ứng những
tiêu chuẩn và điều kiện theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty như sau:
(i) GĐ/TGĐ phải là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
Năng lực hành vi dân sự (NLHVDS) là khả năng của chủ thể bằng hành vi của
mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. NLHVDS của cá nhân phụ thuộc
vào lứa tuổi và được xác định theo pháp luật của từng quốc gia. Theo pháp luật thực
định Việt Nam, cá nhân được xem là có NLHVDS đầy đủ khi từ đủ 18 tuổi trở lên và
khơng bị tồ án tun bố là người mất NLVDS; có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi hoặc hạn chế NLHVDS28. Về GĐ/TGĐ của CTCP, bởi vì chức danh này
có tư cách là “người quản lý doanh nghiệp” (khoản 24 Điều 4 LDN) nên cá nhân giữ
chức danh này phải đáp ứng các điều kiện tại khoản 2 Điều 17 LDN hiện hành. Theo
đó, để trở thành GĐ/TGĐ của CTCP, cá nhân này phải đáp ứng điều kiện về độ tuổi
bổ nhiệm là từ đủ 18 tuổi trở lên và có đầy đủ NLHVDS29. Điều này khá tương đồng
với nước ngồi, ví dụ như pháp luật công ty Úc quy định độ tuổi tối thiểu của GĐ là
18 tuổi30; Luật công ty Singapore quy định GĐ là người phải đủ 18 tuổi và có đủ
NLHVDS31.
Xét về bản chất, việc điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty là
quyền và nghĩa vụ của GĐ/TGĐ CTCP, để có thể nhận thức được hành vi của mình
và thực hiện nó một cách có trách nhiệm, đạt hiệu quả theo đúng vị trí của mình thì
cần phải là người có khả năng bằng hành vi của mình tự xác lập, thực hiện quyền và
nghĩa vụ dân sự và có thể chịu trách nhiệm dân sự, hình sự, do đó, có thể khẳng định
rằng, một chủ thể muốn trở thành GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP
không thể là người chưa thành niên – người chưa đủ khả năng về nhận thức, trình độ,
năng lực và kinh nghiệm hoặc người bị hạn chế NLHVDS; người bị mất NLHVDS;
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
(ii) GĐ/TGĐ không thuộc trường hợp bị cấm quản lý doanh nghiệp
Với tư cách là “người quản lý doanh nghiệp” (khoản 24 Điều 4 LDN), GĐ/TGĐ
không được là người thuộc đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 17 LDN hiện hành.

Theo đó, các cá nhân khơng được quyền quản lý doanh nghiệp là người đang công
tác tại cơ quan nhà nước, có thể kể đến như các cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan,

Xem Điều 19 đến Điều 24 BLDS 2015.
Điểm đ khoản 2 Điều 17 LDN 2020 (sửa đổi, bổ sung năm 2022) quy định “người quản lý doanh nghiệp”
không được là “người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất năng lực hành
vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.
30
Khoản 1 Điều 201B CA 2001.
31
Khoản 2 Điều 145 CA 1967 (khoản này được sửa đổi theo Luật số 7 năm 2009 có hiệu lực ngày 04/5/2009).
28
29

11


hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công an32. Đồng thời các đối tượng trên còn
được quy định cụ thể trong từng pháp luật tương ứng, chẳng hạn như Luật Cán bộ
công chức 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Viên chức 2010 (sửa đổi, bổ sung
năm 2019), Luật Phòng chống tham nhũng 2018 (sửa đổi, bổ sung bởi LDN 2020
(sửa đổi, bổ sung năm 2022)). Có thể thấy, pháp luật Việt Nam quy định như vậy là
hợp lý, sở dĩ các chủ thể này đang làm việc và hoạt động trong cơ quan nhà nước, là
những người nắm rõ hoạt động của Nhà nước, do đó khơng được quyền quản lý CTCP
nhằm tránh tình trạng lạm dụng chức vụ để phát triển cho CTCP riêng mình.
Ngồi ra, một số đối tượng như cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong DNNN
tại điểm a khoản 1 Điều 88 LDN cũng bị cấm quản lý doanh nghiệp33. Bởi lẽ DNNN
là doanh nghiệp có vốn điều lệ từ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, cán bộ quản lý
cấp cao chỉ được quyền tập trung cho hoạt động của DNNN, không được thành lập
doanh nghiệp để tránh sự thừa cơ trục lợi từ DNNN cho doanh nghiệp của mình. Bên

cạnh đó, “người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành
hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt
buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm cơng việc nhất định” cũng khơng có quyền quản lý doanh nghiệp
tại Việt Nam (điểm e khoản 2 Điều 17 LDN). Như vậy, việc cấm những đối tượng
nêu trên không được quản lý doanh nghiệp đồng nghĩa với việc nhóm đối tượng này
khơng đủ điều kiện để làm GĐ/TGĐ của CTCP.
Hơn nữa, LDN hiện hành còn loại bỏ thêm một số chủ thể không được làm
GĐ/TGĐ đối với công ty đại chúng, CTCP là DNNN (điểm b khoản 1 Điều 88) và
CTCP là công ty con của DNNN (khoản 1 Điều 88), đó là “người có quan hệ gia đình
của người quản lý doanh nghiệp, Kiểm sốt viên của công ty và công ty mẹ; NĐD
phần vốn nhà nước, NĐD phần vốn của doanh nghiệp tại công ty và công ty mẹ”
(khoản 5 Điều 162). Xét từ góc độ quản lý nhà nước và lợi ích của nhà nước thì quy
định trên là cần thiết. Cần phải khẳng định rằng, việc quy định cụ thể các đối tượng
bị cấm quản lý doanh nghiệp, pháp luật Việt Nam đã có những quan niệm khá phù
hợp với thơng lệ quản trị công ty của các nước trên thế giới và Cơng ước Liên hợp
quốc về Chống tham nhũng34. Vì nhóm đối tượng này ln tiềm ẩn những nguy cơ
lợi ích nhóm, làm biến dạng thị trường và tác động tiêu cực đến mơi trường cạnh
tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các công ty khi tham gia các quan hệ kinh tế.
(iii) GĐ/TGĐ CTCP đại chúng và CTCP do Nhà nước nắm giữ trên 50% đến
dưới 100% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết khơng được kiêm
nhiệm chức danh Chủ tịch HĐQT
Vấn đề kiêm nhiệm của GĐ/TGĐ35 được LDN hiện hành quy định hạn chế như
sau: Chủ tịch HĐQT công ty đại chúng và CTCP do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn
điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết, (trừ doanh nghiệp quy định tại
Tuy nhiên, LDN loại trừ “trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà
nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại DNNN” (điểm b, c khoản 2 Điều 17 LDN 2020 (sửa đổi, bổ sung năm
2022)).
33
Tuy nhiên, LDN loại trừ “người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước

tại doanh nghiệp khác” (điểm d khoản 2 Điều 17 LDN 2020 (sửa đổi, bổ sung năm 2022)).
34
Xem thêm Công ước Liên Hiệp Quốc phòng chống tham nhũng (United Nations Convention against
Corruption) được thông qua tại Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 31/10/2003.
35
Sự kiêm nhiệm của GĐ/TGĐ (Chief executive officers’ dual roles hay CEO duality) là việc GĐ/TGĐ kiêm
chức vụ chủ tịch HĐQT, điều này có thể đối kháng lại quyền hạn của HĐQT. (Xem thêm tại Carmen Barroso,
Leticia Perez-Calero, Maria-Angeles Villegas (2011), “Board Influence on a Firm’s Internationalization”,
Corporate Governance: An International Review, Wiley, Vol. 19 (4)/2011, pg. 356).
32

12


điểm a khoản 1 Điều 88) không được kiêm GĐ/TGĐ (khoản 2 Điều 156 LDN), khoản
2 Điều 275 Nghị định 155 cũng quy định Chủ tịch HĐQT không được kiêm nhiệm
chức danh TGĐ (GĐ) của một công ty đại chúng. Cịn đối với các loại CTCP cịn lại
thì pháp luật không cấm việc kiêm nhiệm hai chức danh nêu trên. Hiện nay, trên thế
giới cũng như ở Việt Nam đang có 2 quan điểm đối lập nhau về vấn đề này.
Quan điểm ủng hộ nên để GĐ/TGĐ đồng thời là Chủ tịch HĐQT lập luận rằng
HĐQT là cơ quan lập ra phương hướng, kế hoạch kinh doanh của công ty, quyết định
chiến lược phát triển, còn GĐ/TGĐ là người trực tiếp thực hiện những phương hướng,
chính sách đó trên thực tiễn. Việc kiêm nhiệm sẽ đem lại cho Chủ tịch HĐQT nói
riêng và HĐQT nói chung những kinh nghiệm kinh doanh, việc này hồn tồn có lợi
cho việc vạch ra đường lối, kế hoạch đầu tư phù hợp với thực tiễn hoạt động của công
ty. Kết quả nghiên cứu của tác giả Phạm Đức Huy36 cũng chứng minh khi công ty
đang trong giai đoạn tăng trưởng, sự kiêm nhiệm có tác động tích cực đến đến thành
quả cơng ty, bởi vì giai đoạn này, cơng ty cần sự định hướng đúng đắn nên quyền sở
hữu và quản lý nên tập trung ở người sáng lập.
Trong khi đó, quan điểm phản đối thì cho rằng một trong những chức năng quan

trọng nhất của Chủ tịch HĐQT là giám sát quá trình tổ chức thực hiện các quyết định
của HĐQT của GĐ/TGĐ. Nếu như Chủ tịch HĐQT và GĐ/TGĐ cùng là một người
sẽ dẫn đến tình trạng Chủ tịch HĐQT tự giám sát hoạt động của chính bản thân mình,
hiệu quả giám sát của HĐQT đối với GĐ/TGĐ lúc này thật sự khơng cịn hiệu quả37.
Ngồi ra, dù muốn hay khơng, các thành viên HĐQT cũng sẽ bị chi phối và khó khách
quan trong việc thực hiện chức năng giám sát của mình38. Mơ hình kiêm nhiệm này
sẽ dễ nảy sinh rủi ro hay tiêu cực trong trường hợp GĐ/TGĐ cố tình che giấu những
khuyết điểm hay bê bối.
Mặc dù hai quan điểm trên đều có những điểm hợp lý của nó nhưng tác giả ủng
hộ quan điểm của Nghị định 155 là nên tách biệt vai trò của Chủ tịch HĐQT và
GĐ/TGĐ. Nếu để cho GĐ/TGĐ đồng thời là Chủ tịch HĐQT sẽ dẫn đến tình trạng
quyền lực tập trung quá nhiều vào trong tay một người, làm giảm khả năng giám sát
của HĐQT đối với GĐ/TGĐ. Bên cạnh đó, việc tách biệt hai chức danh này là cần
thiết nhằm kiểm soát quyền lực của GĐ/TGĐ, đồng thời giải quyết một cách dễ dàng
vấn đề ai sẽ là người chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty. Tuy nhiên, tác giả
cũng đồng tình với kết quả nghiên cứu của tác giả Phạm Đức Huy39, thật ra khơng có
mơ hình nào là tối ưu cho tất cả CTCP mà tùy thuộc giai đoạn cụ thể của CTCP mà
lựa chọn mơ hình phù hợp cho việc quản trị công ty. Việc này còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: nếu CTCP đang trong giai đoạn trưởng thành thì nên cấm Chủ tịch
HĐQT kiêm GĐ/TGĐ, nhưng nếu CTCP đang trong giai đoạn tăng trưởng của vịng
đời doanh nghiệp thì cần xem xét các yếu tố như trình độ quản lý điều hành cơng ty,
Phạm Đức Huy (2020), “Ảnh hưởng kiêm nhiệm TGĐ và chủ tịch HĐQT đến hoạt động của doanh nghiệp
– Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam”, truy cập ngày 27/4/2022.
37
Leticia Perez-Calero, Maria-Angeles Villegas and Carmen Barroso (2016), “A framework for board capital”,
Corporate Governance International Journal of Business in Society, Vol. 16 (3)/2016, pg. 454.
38
Gaafar Abdalkrim (2019), “Chief executive officer compensation, corporate governance and performance:
evidence from KSA firms”, Corporate governance journal, Vol. 19 (6)/2019, pg. 1221.
39

Các kết quả nghiên cứu chính bao gồm: (1) Sự kiêm nhiệm ảnh hưởng tích cực đến thành quả DN trong giai
đoạn tăng trưởng của vòng đời DN; (2) Sự kiêm nhiệm ảnh hưởng tiêu cực đến thành quả DN trong giai đoạn
trưởng thành của vòng đời DN; (3) Chưa xác nhận sự kiêm nhiệm ảnh hưởng đến thành quả DN trong giai
đoạn suy thoái của vòng đời DN.
36

13


quy mô công ty và cổ đông, nguồn nhân lực cấp cao… để quyết định tách biệt hay
kiêm nhiệm hai chức danh trên.
(iv) GĐ/TGĐ phải có trình độ chun mơn, kinh nghiệm trong quản trị kinh
doanh của công ty
Đây là điều kiện mà LDN hiện hành chỉ quy định đối với GĐ/TGĐ của CTCP
đại chúng, CTCP là DNNN (điểm b khoản 1 Điều 88) và CTCP là công ty con của
DNNN (khoản 1 Điều 88). Tuy nhiên trên thực tế, điều kiện này vẫn áp dụng chung
cho GĐ/TGĐ của mọi loại hình CTCP và được quy định trong điều lệ cơng ty bởi vì
chức năng đặc thù của chức danh này. GĐ/TGĐ là người điều hành cao nhất của công
ty, có chức năng điều hành những cơng việc kinh doanh hằng ngày của cơng ty, do
đó, chức danh này cần phải do những người có năng lực nhất định, phải đáp ứng điều
kiện về bằng cấp, chứng chỉ ngành nghề, trình độ chun mơn kỹ thuật và có tư cách
đạo đức tốt nắm giữ. Không thể để một người không biết rõ về lĩnh vực kinh doanh
của CTCP mà trở thành GĐ/TGĐ điều hành hoạt động của CTCP được.
Đối với các loại hình CTCP cịn lại, LDN khơng đề ra tiêu chuẩn, điều kiện đối
với GĐ/TGĐ áp dụng chung cho CTCP40, mà luật cho phép các CTCP được quyền
quy định các tiêu chuẩn, điều kiện cho GĐ/TGĐ sao cho phù hợp với nhu cầu của
công ty, miễn là chúng không trái pháp luật. Theo đó, nhiều CTCP đã đặt điều kiện
cho GĐ/TGĐ, ví dụ CTCP Vinamilk yêu cầu TGĐ của cơng ty phải có trình độ đại
học trở lên và có kinh nghiệm thực tế về quản trị kinh doanh trong ngành nghề kinh
doanh chủ yếu của Công ty41; hay CTCP Thế giới di động ngồi hai điều kiện trên

cịn quy định nhiều điều kiện hơn cho TGĐ như: phải tạo được lịng tin của các cổ
đơng, các cấp quản lý và nhân viên; có đức tính trung thực, nhiệt tình và có uy tín; có
chun mơn, bằng cấp và kỹ năng tổ chức phù hợp và khả năng gắn kết lợi ích của
tất cả các bên liên quan và đưa ra các quyết định hợp lý; có kinh nghiệm, có kiến thức
tốt về kinh tế, chính trị, pháp luật và các vấn đề xã hội cũng như kiến thức và xu
hướng thị trường, sản phẩm và đối thủ cạnh tranh; thực hiện tốt và đầy đủ văn hóa
của cơng ty; và có ít nhất 3 năm liên tục làm việc tại Công ty hoặc các công ty con
của Công ty42.
Thực chất, việc LDN khơng xác định trình độ chun môn, kinh nghiệm, hay
quy định bất kỳ điều kiện nào cho GĐ/TGĐ, mà cho rằng những điều trên thuộc
quyền quyết định của công ty là phù hợp với thông lệ quốc tế. Chẳng hạn như pháp
luật công ty Vương Quốc Anh năm 2006 đề cập rất ít về các phương thức bổ nhiệm
GĐ và nhường nội dung này lại cho Điều lệ công ty43. Về nguyên tắc, vấn đề về tiêu
chuẩn và điều kiện của những người quản lý, điều hành công ty là vấn đề nội bộ của
doanh nghiệp. Vì vậy, các chủ sỡ hữu có quyền tự chủ trong việc đưa ra những điều
kiện, tiêu chuẩn mà họ cho rằng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình
trên cơ sở các quy định khung của luật.
1.2.3 Vai trò của Giám Đốc (Tổng Giám Đốc) trong cơng ty cổ phần
Tuỳ thuộc vào mỗi vị trí, quan hệ pháp luật điều chỉnh mà GĐ/TGĐ của CTCP
sẽ đảm nhiệm vai trò nhất định, tuy nhiên sự phân định này chỉ mang tính tương đối.
(i) GĐ/TGĐ của CTCP là chủ thể đứng đầu hệ thống cơ quan điều hành
trong công ty
Trường Đại học Luật TP.HCM (2021), tlđd (4), tr. 338.
Điểm b Khoản 2.1 Điều 5 Quy chế nội bộ về quản trị công ty của CTCP Vinamilk năm 2021.
42
Khoản 1, 2 Điều 35 Quy chế nội bộ về quản trị công ty của CTCP Thế giới di động (MWG) năm 2021.
43
Jonathan Hardman (2021), “Articles of Association in UK Private Companies: An Empirical Leximetric
Study”, European Business Organization Law Review, Vol. 22/2021, pg. 533.
40

41

14


Như đã đề cập ở trên, trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP, HĐQT là cơ quan
có chức năng quản lý chuyên biệt, làm việc thông qua các cuộc họp và chủ yếu là đưa
ra các quyết định mang tính định hướng. Cịn việc tổ chức thực hiện các quyết định
đó là chức năng thuộc về hệ thống cơ quan điều hành bao gồm ban giám đốc và các
phòng ban chức năng, trong đó GĐ/TGĐ là chủ thể đứng đầu hệ thống cơ quan này.
GĐ/TGĐ là người điều hành cao nhất của cơng ty bởi vì cách thức xác lập của mình
– được HĐQT bổ nhiệm hoặc thuê để trở thành GĐ/TGĐ, đây là điểm khác so với
những người điều hành còn lại là sẽ do GĐ/TGĐ bổ nhiệm.
Như vậy, tương ứng với tư cách là người đứng đầu cơ quan điều hành, GĐ/TGĐ
của CTCP phải đảm bảo các hoạt động của các phòng ban chức năng đi đúng theo
định hướng của HĐQT – cơ quan quản lý chuyên trách. Có tác giả đã ví von “cơng
ty như một con tàu, HĐQT sẽ đưa ra quyết định con tàu phải đi đến đâu, GĐ/TGĐ có
trách nhiệm lái con tàu đúng đến đích mà HĐQT đã chọn”44. Như vậy, GĐ/TGĐ là
cầu nối giữa HĐQT – cơ quan quản lý và các phòng ban cấp dưới với nhau giúp cho
các hoạt động của công ty được đồng bộ, ổn định. Lúc này, các quyết định của
GĐ/TGĐ sẽ có ảnh hưởng lớn lên các GĐ phòng ban chức năng hoặc các người điều
hành khác trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP. Bên cạnh đó, với vai trị là người
đứng đầu cơ quan điều hành, GĐ/TGĐ còn phải đảm bảo sự ổn định trong nội bộ
CTCP, cụ thể GĐ/TGĐ nắm vai trò quan trọng trong quá trình bổ nhiệm, miễn nhiệm,
bãi nhiệm các chức danh quản lý trong công ty (trừ các chức danh thuộc thẩm quyền
của HĐQT) hay tuyển dụng lao động cho CTCP45.
(ii) GĐ/TGĐ của CTCP có thể được lựa chọn làm người đại diện cho CTCP.
CTCP không phải là con người, nó đơn giản chỉ là một thực thể được nhiều
người biết nhưng khơng thể nhìn thấy được. Do đó, nó cần một NĐD thực hiện các
hành vi nhân danh nó trong các mối quan hệ bên ngồi46. Với tư cách là người điều

hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty, hiểu rõ về công ty, cho nên thông
thường GĐ/TGĐ CTCP cũng được lựa chọn làm người đại diện cho CTCP (NĐD
theo ủy quyền hoặc là NĐD theo pháp luật cho công ty) trong mối quan hệ giữa công
ty với các chủ thể khác khi trong Điều lệ cơng ty có quy định hoặc thuộc trường hợp
đương nhiên nếu cơng ty có nhiều hơn một NĐD theo pháp luật47. Lúc này, GĐ/TGĐ
đảm nhiệm vai trò đại diện cho công ty, kết nối giữa công ty với bên ngồi, tức là
thay mặt cơng ty xác lập, thực hiện các giao dịch với bên thứ ba, đại diện cho công
ty trong việc thực hiện những thủ tục trước cơ quan Tồ án, Trọng tài. Những cơng
việc đó có thể là thực hiện thủ tục về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký thay đổi thơng
tin doanh nghiệp, đóng thuế, nộp phạt.
Thơng thường, NĐD của cơng ty nói chung và GĐ/TGĐ nói riêng có thể thay
mặt cơng ty tham gia đàm phán, ký kết các giao dịch có giá trị lớn, ảnh hưởng đáng
kể đến tình hình tài chính hoặc tình trạng kinh doanh của công ty. Như vậy, khi nắm
vai trò này, GĐ/TGĐ CTCP phải ý thức được các nghĩa vụ, trách nhiệm của mình,
hành xử đúng đắn, ngăn chặn khả năng tư lợi và bảo vệ lợi ích của công ty.
(iii) GĐ/TGĐ của CTCP là người lao động của cơng ty.
Theo LDN Việt Nam thì GĐ/TGĐ CTCP được hình thành bằng hai thủ tục pháp
lý: đó là bổ nhiệm bằng quyết định của HĐQT và ký hợp đồng lao động (HĐLĐ) với
Phạm Trí Hùng, Nguyễn Trung Thẳng (2012), tlđd (16), tr. 20.
Điểm đ, g khoản 3 Điều 162 LDN 2020 (sửa đổi, bổ sung năm 2022).
46
Nguyễn Ngọc Bích (2006), “Người đại diện pháp lý công ty”, Thời báo kinh tế Sài gòn, số 32/2006, tr. 19.
47
Khoản 2 Điều 137 LDN 2020 (sửa đổi, bổ sung năm 2022).
44
45

15



công ty do Chủ tịch HĐQT đại diện ký. Đối với thủ tục thứ hai, GĐ/TGĐ khi này sẽ
đồng thời là NLĐ của cơng ty, và đây chính là điểm khác biệt giữa GĐ/TGĐ với các
thành viên HĐQT mặc dù cùng là NQLCT. Bởi các thành viên HĐQT được hình
thành bằng con đường bầu trên cơ sở đề cử/ứng cử của cổ đơng, cịn GĐ/TGĐ là
người được th giống như những NLĐ khác trong cơng ty. Theo đó, GĐ/TGĐ cũng
phải hoàn thành nhiệm vụ được giao theo đúng thoả thuận trong HĐLĐ, các thoả
thuận khác và theo quy định của cơng ty. Tương ứng với mức độ hồn thành nhiệm
vụ đó, GĐ/TGĐ sẽ được hưởng mức thù lao, phụ cấp cũng như chế độ thưởng phạt
phù hợp. Tuy nhiên, điểm khác biệt so với những NLĐ khác trong công ty là GĐ/TGĐ
có thêm nhiệm vụ điều hành cơng việc kinh doanh hàng ngày của công ty. Với tư
cách này, GĐ/TGĐ CTCP có vai trị là cầu nối giữa HĐQT và NLĐ trong công ty,
giúp cho các hoạt động của công ty được đồng bộ.
Một vấn đề đặt ra ở đây đó là LDN hay Bộ luật Lao động sẽ điều chỉnh quan hệ
giữa công ty với GĐ/TGĐ đồng thời là NLĐ. Khi GĐ/TGĐ được hình thành bằng
HĐLĐ với HĐQT, lúc này Chủ tịch HĐQT sẽ đại diện cho công ty – người sử dụng
lao động – ký hợp đồng với GĐ/TGĐ – NLĐ; do vậy, quan hệ giữa GĐ/TGĐ và
CTCP trước hết là quan hệ lao động và GĐ/TGĐ thuộc đối tượng áp dụng của cả
pháp luật doanh nghiệp và pháp luật về lao động.
Rõ ràng đây là vấn đề quan trọng bởi vì cần phải có những chuẩn mực hành vi
chặt chẽ, khắt khe nhằm ngăn ngừa những hành vi sai trái của GĐ/TGĐ CTCP. Tác
giả cho rằng các quy định của pháp luật lao động không phù hợp để ngăn ngừa
GĐ/TGĐ thực hiện các hành vi sai trái, do đó nên áp dụng LDN để điều chỉnh mối
quan hệ giữa công ty với NQLCTCP đồng thời là NLĐ. Bởi lẽ pháp luật lao động có
mục tiêu chủ yếu là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ, các quy định về nghĩa
vụ và trách nhiệm của NLĐ thường ít khắt khe. Cịn việc xử lý kỷ luật lao động và
áp dụng trách nhiệm vật chất đối với NLĐ rất phức tạp và khó khăn cho người sử
dụng lao động48. Trong khi đó LDN có mục tiêu bảo vệ nhà đầu tư và cơng ty49, do
đó, các chuẩn mực ứng xử của GĐ/TGĐ được quy định bởi LDN có xu hướng chặt
chẽ và khắt khe hơn. Vì vậy, việc áp dụng LDN để điều chỉnh mối quan hệ giữa công
ty với GĐ/TGĐ đồng thời là NLĐ là phù hợp. Bên cạnh đó, các đạo luật chuyên

ngành, BLDS, BLHS sẽ được áp dụng để xác định nghĩa vụ và trách nhiệm của một
người với tư cách là NQLCTCP dù người này có đồng thời là NLĐ hay khơng.
1.3 Cơ sở hình thành mối quan hệ giữa Giám Đốc (Tổng Giám Đốc) với bộ
máy tổ chức quản lý công ty cổ phần
Đặc trưng của loại hình CTCP là cơng ty đối vốn, vì vậy, thơng thường CTCP
“có số lượng thành viên rất đơng. Có CTCP có tới hàng vạn cổ đông ở hầu khắp các
nước trên thế giới”50. Tuy nhiên, việc CTCP có nhiều thành viên cũng có một số điểm
bất lợi, có thể nói là khó khăn, nhất là trong tổ chức, quản lý. Có quan điểm cho rằng
nếu tất cả các cổ đông tham gia vào từng quyết định của cơng ty, khơng chỉ chi phí
quản lý phát sinh, mà nhiều thành phần sẽ chây lười trong việc thực hiện các quyết
định vì những thiệt hại gắn với quyết định “dở” sẽ được gánh chịu bởi số đơng các
cổ đơng; do đó, cách kiểm sốt hiệu quả cơng ty là chuyển giao quyền ra quyết định
cho nhóm nhỏ hơn, cổ đông vẫn giữ lại quyền ra các quyết định lớn ảnh hưởng đến
Xem Điều 117 đến Điều 131 Bộ luật Lao động 2019.
Xem thêm trong Tờ trình số 533/TTr-CP của Chính phủ trình Quốc hội ngày 28 tháng 10 năm 2019 tại mục
2.1 về “Mục tiêu sửa đổi, bổ sung LDN”.
50
Lê Minh Toàn (2006), Luật Kinh tế Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 215.
48
49

16


cấu trúc của cơng ty51. Vì thế, để có thể tổ chức và quản lý điều hành các hoạt động
của CTCP, địi hỏi cơ cấu tổ chức của cơng ty phải có sự tham gia của nhiều cơ quan
với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau.
Như vậy, CTCP được tổ chức quản lý và vận hành bởi hai cơ quan là Cơ quan
quản lý chuyên trách (HĐQT) và Cơ quan điều hành (đứng đầu là GĐ/TGĐ). LDN
Việt Nam đã phân định rõ hoạt động quản lý công ty là chức năng thuộc về HĐQT

và điều hành công ty được quy định là chức năng thuộc về GĐ/TGĐ công ty52. Trong
đó, GĐ/TGĐ với tư cách là người đứng đầu hệ thống cơ quan điều hành sẽ phải đảm
bảo hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty đi đúng theo định hướng của
ĐHĐCĐ và HĐQT53. Do đó, GĐ/TGĐ là thiết chế không thể thiếu trong bộ máy tổ
chức quản lý CTCP.
Trên thực tế, đối với những CTCP mà số lượng cổ đơng khơng nhiều, GĐ/TGĐ
có thể là cổ đơng (cụ thể là thành viên HĐQT) tham gia trực tiếp quản lý cơng ty.
Trong khi đó, đối với các cơng ty đại chúng, GĐ/TGĐ thường không nhất thiết phải
là cổ đông mà là nhân lực được thuê từ bên ngoài, từ đây dẫn đến sự phân tách giữa
sở hữu và quản lý trong CTCP. Từ lâu các học giả trên thế giới đã nghiên cứu các lý
thuyết về mối quan hệ giữa các cổ đông và NQLCT. Trong nửa cuối của thế kỷ 20,
nhiều học thuyết đã xuất hiện chẳng hạn như học thuyết về đại diện (agency theory)
và học thuyết về người quản gia (stewardship theory) 54.
Theo học thuyết về đại diện, mối quan hệ giữa các chủ sở hữu và GĐ/TGĐ được
hiểu như là quan hệ đại diện – hay quan hệ ủy thác55, trong đó cổ đơng là người ủy
thác còn GĐ/TGĐ là người thụ ủy, thực hiện việc điều hành công ty thay chủ sở hữu,
bao gồm cả việc quyết định định đoạt tài sản của công ty56. Trong mối quan hệ này,
nếu cả chủ sở hữu cơng ty và GĐ/TGĐ đều mong muốn tối đa hóa lợi ích của mình,
thì có cơ sở để tin rằng GĐ/TGĐ sẽ khơng ln ln hành động vì lợi ích tốt nhất cho
người chủ, tức các cổ đông và công ty57. Theo học thuyết đại diện, sự phân hóa giữa
quyền sở hữu và quyền quản lý trong các công ty hiện đại, cùng với sự khơng đồng
nhất về lợi ích giữa chủ sở hữu công ty và GĐ/TGĐ dẫn đến nhu cầu giám sát
GĐ/TGĐ. Do đó, HĐQT hay một thiết chế tương tự là một công cụ không thể thiếu
để giám sát hành vi của GĐ/TGĐ58.
Ngược lại, lý thuyết người quản gia cho rằng khi GĐ/TGĐ được tự do hành
động thì sẽ hành động giống như người quản gia, khơng theo đuổi mục tiêu cá nhân,
mục tiêu của GĐ/TGĐ sẽ hài hòa với mục tiêu của chủ sở hữu59. Như vậy, theo học
thuyết quản gia, GĐ/TGĐ luôn nỗ lực thực hiện cơng việc vì lợi ích tốt nhất của cơng
ty. Lý thuyết này gánh chịu nhiều chỉ trích do đã lý tưởng hóa sự tận tâm và thiện chí
của GĐ/TGĐ. Trong khi đó, thực tế đã chứng minh khơng phải tất cả GĐ/TGĐ đều

tận tâm và thiện chí, khơng ít GĐ/TGĐ ln có xu hướng tận dụng cơ hội để trục lợi,
gây thiệt hại cho lợi ích của cơng ty. Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu đã chỉ ra
Armen A. Alchian and Harold Demsetz (1972), “Production, Information Costs, and Economic
Organization”, The American Economic Review, Vol. 62 (5)/1972, pg. 788.
52
Bùi Xuân Hải (2012), tlđd (8), tr. 59.
53
Phạm Trí Hùng, Nguyễn Trung Thẳng (2012), tlđd (16), tr. 20.
54
Bùi Xuân Hải (2007), tlđd (15), tr. 22.
55
Bùi Xuân Hải (2007), tlđd (15), tr. 22.
56
Nguyễn Hoàng Duy (2015), Nghĩa vụ của NQLCT theo pháp luật việt nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội, tr. 8.
57
Armen A. Alchian and Harold Demsetz (1972), tlđd (51), pg. 782.
58
Armen A. Alchian and Harold Demsetz (1972), tlđd (51), pg, 782.
59
Bob Tricker (2020), Corporate Governane: Kiểm soát quản trị, Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM, tr. 97.
51

17


có những kết quả nhất định cho thấy hiệu quả quản lý được nâng cao khi GĐ/TGĐ
được trao nhiều quyền hơn theo lý thuyết người quản gia thay vì bị đặt dưới con mắt
quản lý, soi sét của lý thuyết đại diện60.
Cá nhân tác giả khóa luận cho rằng lý thuyết đại diện là hợp lý hơn về mặt cơ

bản, tuy nhiên, lý thuyết người quản gia cũng có những giá trị cần xem xét và những
nhân tố tích cực có thể áp dụng. Tóm lại, GĐ/TGD là một trong những thiết chế
không thể thiếu trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP và mối quan hệ giữa GĐ/TGĐ
với CTCP là quan hệ đại diện, trong đó GĐ/TGĐ được ủy quyền quản trị công ty,
thay mặt các chủ sở hữu xác lập quyền và nghĩa vụ, trong đó lợi ích của hai phía là
khơng đồng nhất và GĐ/TGĐ chỉ hành động vì lợi ích tốt nhất của cơng ty trong
những điều kiện xác định.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Ở chương 1 của khóa luận này, tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận về địa
vị pháp lý của GĐ/TGĐ trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP, cụ thể bao gồm các vấn
đề:
Thứ nhất, tác giả làm rõ những cấu trúc tổ chức quản lý CTCP tiêu biểu trên thế
giới và ở Việt Nam.
Thứ hai, tác giả đưa ra khái niệm của GĐ/TGĐ theo LDN Việt Nam hiện hành.
Đồng thời phân tích đặc điểm, tiêu chuẩn và điều kiện làm GĐ/TGĐ CTCP theo pháp
luật doanh nghiệp Việt Nam và so sánh đối chiếu với pháp luật công ty ở một số quốc
gia trên thế giới, đánh giá toàn diện về mặt lý luận và thực tiễn của pháp luật Việt
Nam trong tư duy về GĐ/TGĐ của CTCP.
Thứ ba, tác giả phân tích những vai trị căn bản và quan trọng nhất của GĐ/TGĐ
trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP.
Phần cuối, tác giả trình bày khái quát về cơ sở hình thành nên mối quan hệ của
GĐ/TGĐ với bộ máy tổ chức quản lý CTCP.

60

Nguyễn Hoàng Duy (2015), tlđd (56), tr. 9.

18



×