LUẬT
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
DOANH NGHIỆP XÃ HỘI THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
• NGUYỄN THỊ YẾN
TĨM TẮT:
1
Việt Nam nằm trong nhóm các nước đang phát triển, thu nhập trung bình của người dân tăng lên
trong những năm gần đây, đời sống kinh tế không ngừng được cải thiện. Cùng với sự tăng trưởng về
kinh tế, có nhiều vấn đề xã hội - môi trường mới nảy sinh như bạo lực xã hội, giáo dục và y tế đều ở
tình trạng q tải, vấn đề về an tồn thực phẩm, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho đối
tượng yếu thế, xử lý rác thải, ô nhiễm không khí, bảo tồn văn hóa,.., Giải quyết những vấn đề này
cần có sự chung tay của nhiều lực lượng trong xã hội và đã đến lúc Nhà nước cần phải coi doanh
nghiệp xã hội (DNXH) như là một đối tác để chia sẻ gánh nặng, giúp Nhà nước thực hiện các mục
tiêu xã hội - môi trường. Việc ban hành văn bản pháp luật thừa nhận và tạo ra khuôn khổ pháp lý
cho DNXH phát triển là vô cùng cần thiết. Vậy DNXH có địa vị pháp lý như thế nào ở Việt Nam, cơ
sở pháp lý để doanh nghiệp này ra đời và hoạt động như thế nào đó là mục đích của bài viết này.
Từ khóa: địa vị pháp lý, doanh nghiệp xã hội, pháp luật Việt Nam.
1. Tổng quan về doanh nghiệp xã hội
Doanh nghiệp xã hội đã ra đời và tồn tại trên
thếigiới, xuất hiện ở nước Anh từ thế kỷ 17. Trong
các thế kỷ tiếp theo, lần lượt các mơ hình tín dụng
vi mơ, hợp tác xã, nhà ở xã hội, hội ái hữu,... đã ra
đời và được nhân rộng ở các nước Tây Âu và Bắc
Mỹ. Tuy nhiên, DNXH chỉ phát triển mạnh mẽ và
trở thành một phong trào rộng lớn trên thế giới
như hiện nay kể từ đầu những năm 1980, với mơ
hình Nhà nước phúc lợi dần nhường chỗ cho quan
điểm đổi mới vai trò của Nhà nước theo hướng
tinh giản, nhỏ gọn, chia sẻ và chuyển một phần
chức năng cung cấp phúc lợi xã hội cho khu vực
thứ ba là các tổ chức đứng giữa khu vực công và
các doanh nghiệp tư nhân. Khi mơ hình doanh
nghiệp này phát triển, các khái niệm về DNXH
được đưa ra và có nhiều cách hiểu khác nhau về
loại doanh nghiệp này.
Trong những cách hiểu đa dạng về DNXH, khái
niệm rộng nhất xem “DNXH là một mơ hình kinh
doanh, đem lại lợi nhuận, bề ngồi như các doanh
nghiệp truyền thống khác, chỉ yêu cầu một điều
kiện duy nhất là đặt sứ mệnh xã hội ở vị trí trung
tâm, trong khi mục tiêu lợi nhuận đóng vai trò hỗ
trợ.” Một cách hiểu khác theo nghĩa rộng cũng cho
rằng “DNXH hoạt động như mọi doanh nghiệp
SỐ25-Tháng 11/2021
49
TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG
nhưng việc quản lý và sử dụng lợi nhuận đều hướng
vào các mục tiêu xã hội và mơi trường”.
Chúng ta có một số khái niệm khác về DNXH
mặc dù chưa toàn diện nhưng cũng làm nổi bật lên
đặc trưng của mơ hình doanh nghiệp này như: Tổ
chức hỗ trợ sáng kiến vì cộng đồng - CSIP của
Việt Nam đưa ra quan điểm: “DNXH là một khái
niệm dùng để chỉ hoạt động của các doanh nhân
xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc
vào mục đích và điều kiện hoạt động cụ thể.
DNXH lây lợi ích xã hội làm mục tiêu chủ đạo.
được dẫn dắt bởi tinh thần doanh nhân nhằm đạt
được cả mục tiêu xã hội - môi trường và mục tiêu
kinh tế”. Hay mạng Wikipedia định nghĩa:
“DNXH là một tổ chức áp dụng các chiến lược
kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu từ thiện.
DNXH có thể là một tổ chức vì-lợi nhuận hoặc
phí-lợi nhuận."
DNXH có gì khác với các doanh nghiệp truyền
thơng? Qua tìm hiểu hoạt động của doanh nghiệp
này trên thực tế có thể nêu lên đặc điểm của loại
hình doanh nghiệp này như sau:
- DNXH phải thực hiện hoạt động kinh doanh.
Đây là một loại hình doanh nghiệp do đó được
thành lập để thực hiện hoạt động kinh doanh,
muốn tồn tại được phải kinh doanh có hiệu quả.
Chỉ thực hiện hoạt động kinh doanh mới tạo ra lợi
nhuận và đó là nguồn tài chính để DNXH thực
hiện mục đích phi lợi nhuận được đặt ra. DNXH
không phải là tổ chức từ thiện, vì vậy khơng thể
tồn tại từ việc kêu gọi sự hỗ trợ từ các quỹ từ thiện
hay nhận tài trợ từ các tổ chức phi chính phủ khác,
doanh nghiệp có nguồn thu từ kinh doanh để tồn
tại và thực hiện mục tiêu xã hội.
- Đặt mục tiêu xã hội lên hàng đầu. Nếu các
doanh nghiệp truyền thống được thành lập nhằm
mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, các hoạt động kinh
doanh nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi
nhuận cho chủ sở hữu. DNXH được thành lập với
mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội. Các mục
tiêu xã hội được doanh nghiệp khẳng định ngay
trong sứ mệnh, cũng như tun bơ trong các chương
trình hành động một cách công khai, rõ ràng và
minh bạch. Các mục tiêu về xã hội có thể khác
nhau như hướng tới giải quyết các vấn đề về môi
50
SỐ 25- Tháng 11/2021
trường hay phục vụ những đối tượng yếu thế trong
xã hội,... đó là mục tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp hướng tới.
- Tái phân phôi lợi nhuận. Hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp xã hội nhằm mục đích
tìm kiếm lợi nhuận, lợi nhuận này phải được sử
dụng cho các mục tiêu xã hội nêu trên. Do đó,
việc tái phân phôi lợi nhuận cho các mục tiêu xã
hội trở thành hoạt động bắt buộc của doanh
DNXH. Lợi nhuận không được phân phôi cho các
chủ sở hữu, các chủ sở hữu không sử dụng DNXH
để làm giàu mà sử dụng nó để thực hiện mục đích
phục vụ xã hội.
- Sở hữu mang tính xã hội. Đặc điểm này nói
về quyền quản lý trong DNXH. Nhằm hướng tới
phục vụ các mục tiêu xã hội, nên trong hoạt động
quản trị DNXH có sự tham gia của cộng đồng
hoặc bên có liên quan, bên hưởng lợi từ mục tiêu
xã hội của doanh nghiệp. Quản lý trong DNXH có
tính dân chủ cao với biểu quyết theo đa số phiếu
không dựa vào tỷ lệ vein góp như trong doanh
nghiệp truyền thống. Cách quản lý, điều hành như
vậy khiến cho DNXH đạt tới mục tiêu xã hội từ số
đơng mà khơng vì lợi ích cũng như ý chí chủ quan
của một chủ sở hữu.
Sự phát triển của các DNXH có đóng góp rât
lớn đơi với sự phát triển xã hội ở các quôc gia trên
thế giới, ở Việt Nam, DNXH vẫn là một khái
niệm rất mới, mặc dù trên thực tế đã có mơ hình
hoạt động được coi như DNXH, đó là các hợp tác
xã tạo việc làm cho người khuyết tật, các doanh
nghiệp định hướng tác động xã hội... Điều này dẫn
đến rất cần có quy định pháp luật để phát triển
các mơ hình này thành DNXH.
2. Địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội ở
Việt Nam
Việt Nam ban hành rất nhiều văn bản pháp
luật khác nhau thừa nhận và điều chỉnh hoạt động
của các doanh nghiệp được thành lập và hoạt
động ở Việt Nam từ những năm 1986. Trong số
các văn bản pháp luật về doanh nghiệp từ năm
2014 trở về trước khơng có bất kỳ một quy định
nào về DNXH. Địa vị pháp lý của DNXH mới chỉ
được đề cập lần đầu tiên trong Luật Doanh nghiệp
2014 và tiếp tục được quy định trong Luật Doanh
LUẬT
nghiệp sửa đổi bổ sung 2020. Để cụ thể hóa quy
i
định về DNXH, Chính phủ ban hành Nghị định sơ
Ị
96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 quy định chi tiết
i một số điều của Luật Doanh nghiệp, trong đó có
' quy định chi tiết về DNXH tại Điều 10. Hai văn
Ị
í
Ị
1
I
I
Ị
1
bản luật nêu trên là cơ sở pháp lý cho DNXH ở
Việt Nam phát triển. Mặc dù được hợp pháp hóa
trong văn bản luật và được hướng dẫn chi tiết tại
văn bản dưới luật của Chính phủ nhưng các quy
định pháp luật về DNXH rất ít, các khái niệm về
DNXH chưa được đề cập tới. Địa vị pháp lý của
DNXH được luật hóa ở việc quy định về tiêu chí
để được thừa nhận là DNXH và quy định cho
'l DNXH một sô" quyền, nghĩa vụ cụ thể.
I
Tiêu chí được thừa nhận là DNXH ở Việt Nam
Ị
Theo quy định tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp,
Iđể được thừa nhận là DNXH phải thỏa mãn các
điều kiện sau đây:
■ 1. Doanh nghiệp xã hội trước hết phải là doanh
Ỉghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp.
Ịuy định này được hướng dẫn chi tiết tại Nghị
ịnh số 96/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một sô điều
cua Luật Doanh nghiệp, theo đó đăng ký thành
lap DNXH thực hiện theo như trình tự thủ tục
tnành lập doanh nghiệp được quy định trong Luật
Doanh nghiệp mà khơng có bất kỳ một thủ tục đặc
biệt hay rút gọn nào. DNXH có thể được thành lập
dupị hình thức như: Cơng ty cổ phần; Cơng ty
trách nhiệm hữu hạn; Công ty hợp danh hoặc
Doanh nghiệp tư nhân đã được Luật Doanh nghiệp
qujị định với hồ sơ thành lập tương ứng. Cũng theo
NgỊiị định này, tên gọi của doanh nghiệp cũng
tuâiị theo quy định về đặt tên doanh nghiệp nói
chupg, có thể bổ sung cụm từ "xã hội" vào tên
riêng của doanh nghiệp. Ớ tiêu chí này khơng có
điểm khác biệt nào về thành lập DNXH với các
doarm nghiệp thơng thường và chúng ta sẽ khó
nhận biết nếu chỉ nhìn vào tên gọi và loại hình
doan^i nghiệp để phân biệt.
2.1 Mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các
vấn đe xã hội, mơi trường và vì lợi ích cộng đồng.
Cùng với mục tiêu về kinh tê khi thành lập các
mục tiêu xã hội, môi trường mới là mục đích mà
doanh nghiệp này hướng tới. Các mục tiêu về xã
hội, môi trường cần được xác định cụ thể khi
thành lập DNXH và là cơ sở kiểm tra giám sát q
trình hoạt động của doanh nghiệp. Cụ thể hóa tiêu
chuẩn này tại Nghị định 96 theo đó: “Doanh
nghiệp xã hội phải thông báo Cam kết thực hiện
mục tiêu xã hội, môi trường cho cơ quan đăng ký
kinh doanh để công khai trênCổng thông tin quốc
gia về đăng ký doanh nghiệp khi thành lập doanh
nghiệp hoặc trong quá trình hoạt động.
Trường hợp nội dung Cam kết thực hiện mục
tiêu xã hội, mơi trường có sự thay đổi, doanh
nghiệp xã hội phải thông báo với cơ quan đăng ký
kinh doanh về nội dung thay đổi trong thời hạn 5
ngày làm việc kể từ ngày quyết định thay đổi để
công khai trên cổng thông tin quốc gia về đăng ký
doanh nghiệp. Kèm theo thơng báo phải có Cam
kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường đã được
sửa đổi, bổ sung”.
Mục tiêu xã hội, mơi trường là tiêu chí giúp
mọi người phân biệt và nhận diện DNXH với các
doanh nghiệp truyền thông. Muôn vậy, các cam
kết này phải được cụ thể trong kế hoạch thành
lập, hoạt động của doanh nghiệp một cách cơng
khai và minh bạch để cơng chúng có thể tiếp cận
được. Cùng với việc thực hiện hoạt động kinh
doanh để đảm bảo mục tiêu kinh tế, sự tồn tại của
doanh nghiệp, DNXH phải thực hiện các mục tiêu
xã hội chính là giải quyết các vấn đề xã hội cụ thể
và câp bách trong xã hội hiện tại. Các mục tiêu xã
hội có thể được lồng vào trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp như hỗ trợ các hồn cảnh
khó khăn thông qua tuyển dụng, đào tạo việc làm,
giải quyết các vấn đề mơi trường, qun góp, giải
quyết các xung đột xã hội như bất bình đẳng giới,
hướng tới những đơi tượng yếu thế,... Mục tiêu xã
hội định hướng quá trình hoạt động lâu dài của
doanh nghiệp và cũng là tiêu chí phân biệt DNXH
với những tổ chức xã hội hoạt động “từ thiện”
hoặc“cứu đói”thuần túy.
3. Sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng
năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực
hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký.
DNXH được hình thành từ các sáng kiến xã hội,
trên nền tảng nhu cầu giải quyết một vấn đề xã
hội cụ thể của cộng đồng và được dẫn dắt bởi
những người sáng lập. Đê’ tồn tại, doanh nghiệp
SỐ 25 - Tháng 11/2021
I
51
TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG
phải thực hiện hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận
nhưng đó khơng phải là mục tiêu duy nhất. Kết
quả đạt được từ hoạt động kinh doanh được sử
dụng để thực hiện mục tiêu xã hội, các cam kết xã
hội mà khi thành lập đã được doanh nghiệp đăng
ký và đó là sứ mệnh của doanh nghiệp. Lợi nhuận
thu được từ hoạt động kinh doanh cần phải được
tái đầu tư giải quyết các vấn đề về xã hội, môi
trường. Tái phân phối lợi nhuận là một trong
những đặc trưng nổi bật của DNXH để phát triển
bền vững. DNXH hoạt động phải có mục đích tìm
kiếm lợi nhuận cho nhà đầu tư. Việc sử dụng ít
nhất 51% tổng lợi nhuận có được hàng năm phải
được tái đầu tư vào mục tiêu xã hội, mơi trường
vừa là tiêu chí thừa nhận và là cơ sở để quản lý
đốì với DNXH trên thực tế đảm bảo DNXH không
đi chệch hướng về mục tiêu ban đầu và tránh việc
lợi dụng mục tiêu xã hội hoạt động nhằm kiếm lợi
nhuận cho các nhà đầu tư.
Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội ở
Việt Nam
Trước hết DNXH là một doanh nghiệp, vì vậy
sẽ có các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nói
chung. Tuy nhiên, tại Điều 10, Luật Doanh nghiệp
đã quy định thêm cho DNXH các quyền và nghĩa
vụ cụ thể sau đây:
(i) về quyền của doanh nghiệp xã hội
- Chủ sở hữu, người quản lý doanh nghiệp xã
hội được xem xét, tạo thuận lợi và hỗ trợ trong
việc cấp giấy phép, chứng chỉ và giây chứng nhận
có liên quan theo quy định của pháp luật. Đây là
sự hỗ trợ về mặt thủ tục hành chính trong q trình
thành lập và hoạt động của DNXH nhưng cho đến
nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về sự hỗ trợ
này khác như thế nào khi thành lập và hoạt động
so với doanh nghiệp thông thường.
- Được huy động, nhận tài trợ từ cá nhân, doanh
nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác
của Việt Nam, nước ngoài để bù đắp chi phí quản
lý, chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Nguồn thu
của DNXH có thể đến từ các hoạt động kinh doanh
và từ các nguồn tài trợ trong xã hội. Trong 2 nguồn
thu đó, các khoản tài trợ này khơng phải thu
thường xuyên và ổn định. DNXH phải xác định
nguồn thu chủ yếu và là cơ sở cho sự tồn tại, phát
52
SỐ25-Tháng 11/2021
triển của doanh nghiệp phải đến từ hoạt động kinh
doanh. Nhưng nhận các nguồn hỗ trợ rất cần thiết
đôi với doanh nghiệp mới thành lập, hoạt động
kinh doanh chưa ổn định. Với quy định này DNXH
có thể kêu gọi sự hỗ trợ từ các thành phần trong xã
hội để khắc phục khó khăn về tài chính đặc biệt
khi mới bắt đầu hoạt động.
- Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ
và thúc đẩy phát triển doanh nghiệp xã hội. Cho
đến nay, các văn bản pháp luật được Nhà nước
ban hành đốì với DNXH cịn rất ít, những chính
sách này vẫn chưa được cụ thể hóa ở bất kỳ văn
bản luật hay dưới luật nào. Như vậy, chưa thật sự
có được sự hỗ trợ về mặt pháp lý để doanh nghiệp
này hoạt động, phát triển ở Việt Nam.
(ii) về nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội
- Duy trì mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết
các vấn đề xã hội, mơi trường, vì lợi ích cộng
đồng. Sử dụng ít nhất 51 % tổng lợi nhuận sau thuế
hàng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm
thực hiện mục tiêu đã đăng ký. Đây vừa là tiêu chí
để được thừa nhận là DNXH và cũng là trách
nhiệm, nghĩa vụ của DNXH trong suĩứ quá trình
hoạt động. Đê’ thực hiện mục tiêu xã hội, DNXH
phải thông báo công khai các cam kết thực hiện
mục tiêu xã hội, môi trường cho cơ quan đăng ký
kinh doanh để công khai trên cổng thông tin quốc
gia về các mục tiêu này khi thành lập doanh
nghiệp và trong quá trình hoạt động. Các mục tiêu
xã hội, mơi trường nếu có sự thay đổi, doanh
nghiệp phải báo cáo ngay với cơ quan đăng ký
kinh doanh biết về sự thay đổi này kèm theo cam
kết thực hiện mục tiêu xã hội, mơi trường có sự
thay đổi, bổ sung của doanh nghiệp.
- Trường hợp được nhận các ưu đãi, hỗ trợ,
doanh nghiệp xã hội phải định kỳ hàng năm báo
cáo cơ quan có thẩm quyền về hình thức hoạt
động của doanh nghiệp. Với đặc thù có thể huy
động các nguồn đóng góp hỗ trợ mục tiêu xã hội,
mơi trường của doanh nghiệp làm cho sự quản lý
của nhà nước đối với các DNXH ở Việt Nam sẽ
nhiều hơn so với cac doanh nghiệp thông thường.
Điều này tạo ra áp lực đối với doanh nghiệp trong
việc báo cáo cũng như làm việc cùng với các cơ
quan quản lý nhà nước.
LUẬT
Trên đây là toàn bộ các quy định của pháp luật
Việt Nam về DNXH, các quy định mới chỉ dừng
lại ở việc nêu lên tiêu chí được thừa nhận cũng
như quyền và nghĩa vụ của DNXH. Theo đó, các
quy định của Luật Doanh nghiệp cũng đã thừa
nhận địa vị pháp lý của DNXH, đánh dấu mốc cho
sự ra đời và phát triển của loại hình doanh nghiệp
này ở Việt Nam.
Thực tế sự tồn tại của DNXH trước đó đã có
những được thể hiện dưới dạng như hợp tác xã,
các trung tâm xã hội thực hiện các dự án xã hội,
cao hơn nữa là những doanh nghiệp tạo tác động
xã hội,... đã có mặt trên cả nước. Khi quy định về
DNXH được đưa ra, các doanh nghiệp tạo tác
động xã hội đã đăng ký thành lập DNXH với
những doanh nghiệp đã khẳng định được vị trí và
tên tuổi của mình trên thương trường như Công ty
TNHH KOTO, Công ty TNHH Viet Pictures,
Cơng ty CP Tị He,... số lượng các doanh nghiệp
này tiếp tục tăng cao kể từ năm 2015 cho đến nay.
Sự phân bố của các doanh nghiệp này chủ yếu ở
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, sơ' cịn lại tập
trung ở các khu vực nông thôn. Với việc phân bô
như vậy thể hiện được mục tiêu xã hội giải quyết
các vấn đề cho đôi tượng yếu thế, tạo việc làm
cho người tàn tật, phụ nữ, lao động vùng sâu và
xa,... cũng như giải quyết các vấn đề xã hội, mơi
trường đóng góp vào q trình tăng trưởng kinh tế
và phát triển bền vững, sản phẩm của các DNXH
được người tiêu dùng trong nước và quốc tế đánh
giá cao như sản phẩm Giấy Dó và đồ trang trí từ
giấy Dó của Zó Project; thú nhồi bơng được làm
thủ cơng hồn tồn của Kym Việt,... giờ đây có
mặt ở Mỹ, Nhật... Ví, túi xách, khăn với những nét
vẽ hồn nhiên của Tịhe được rất nhiều khách nước
ngồi du lịch tại Việt Nam lựa chọn là món đồ lưu
niệm cho người thân...
Nhiều lĩnh vực kinh doanh thu hút DNXH hoạt
động nhưng chủ yếu hiện nay là lĩnh vực nông
nghiệp, ngư nghiệp, thực phẩm; tiếp đến là lĩnh
vực giáo dục - đào tạo. Các lĩnh vực thuộc ngành
Dịch vụ như du lịch - nhà hàng - khách sạn; môi
trường,... đang thu hút sự tham gia của DNXH. Thị
trường hoạt động của các DNXH ngày càng được
mở rộng cả trong và nước ngoài. Rất nhiều doanh
nghiệp thể hiện tham vọng tiến ra thị trường quốc
tế, đặc biệt là sản phẩm nông nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, mơ hình chưa thực sự tạo ra sức hút với
các nhà đầu tư. Tính đến cuối tháng 4 năm 2021,
gần 6 năm Luật Doanh nghiệp 2014 có hiệu lực,
lượng doanh nghiệp xã hội đăng ký hoạt động với
cơ quan đăng ký kinh doanh mới dừng lại ở con số
140. Một điều nữa chúng ta có thể nhận thấy là
hầu hết các DNXH ở Việt Nam có quy mơ nhỏ, số
lượng lao động dưới 20 nhân viên chiếm đến 70%
đa sơ' là nhóm người thiệt thịi trong xã hội cũng
như là người dân địa phương. Với những đặc điểm
như vậy, DNXH Việt Nam rất cần sự hỗ trợ từ
Nhà nước cũng như các lực lượng từ xã hội, để
doanh nghiệp có thể đứng vững và mở rộng hơn
nữa góp phần vào sự phát triển của đất nước.
3. Kết luận và kiến nghị
Sự ra đời và phát triển của DNXH giúp phần
giảm bớt những gánh nặng cho Chính phủ trong
việc giải quyết những vấn đề xã hội - môi trường.
Sự quy định của pháp luật đô'i với DNXH là cơ sở
đê cho những mơ hình đã tồn tại trước đó như hợp
tác xã, tổ chức hiệp hội, làng nghề; Tổ chức phi
chính phủ hoạt động các dự án xã hội; Doanh
nghiệp nhà nước cung cấp dịch vụ công; Các trung
tâm bảo trợ xã hội; Các cơ sở ngồi cơng lập hoạt
động phi lợi nhuận,... có thể lựa chọn mơ hình này
để hoạt động hiệu quả. Đặc biệt. Nhà nước đang
có chủ trương chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp có
thu như Viện nghiên cứu; Trường học; Bệnh
viện,... chuyển sang hoạt động theo mơ hình tự chủ
thu chi tài chính thì mơ hình DNXH là lựa chọn tơt
nhất. Với mục đích hoạt động giải quyết các vấn
đề xã hội - môi trường thông qua thực hiện các
hoạt động kinh doanh thu được lợi nhuận và tái
đầu tư lợi nhuận thu được giải quyết các vấn đề xã
hội - môi trường cam kết sẽ góp phần thức đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Tuy nhiên,
với những quy định rất ít của pháp luật về DNXH
làm cho sự nhận biết của xã hội về doanh nghiệp
này còn chưa nhiều. Các quy định của pháp luật
cũng chưa đủ để các nhà đầu tư thành lập hay
chuyển đổi các mơ hình hoạt động trước đó thành
DNXH. Trong q trình tìm hiếu về DNXH và các
quy định của Luật Doanh nghiệp đối với loại hình
SỐ25-Tháng 11/2021
53
TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG
doanh nghiệp này, tác giả mạnh dạn đưa các kiến
nghị nhằm thúc đẩy sự phát triển của DNXH ở
Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cần cụ thể hóa các chính sách hỗ trợ
DNXH. Sự hỗ trợ này khơng chỉ trong việc thành
lập hay chuyển đổi loại hình hoạt động của các
DNXH như quy định nêu trên. Đa số DNXH Việt
Nam thành lập tại khu vực nông thôn và phát triển
ở lĩnh vực nông nghiệp, thủ công mĩ nghệ, làng
nghề,... với quy mơ nhỏ. Đê’ DNXH có thể tồn tại,
phát triển và thực hiện được mục tiêu xã hội, môi
trường như đã cam kết rất cần sự hỗ trợ của Nhà
nước về việc tiếp cận nguồn tài chính từ các quỹ
hỗ trợ của Nhà nước đôi với doanh nghiệp; hay
huy động vốn từ các nguồn lực xã hội mà không
phải từ các nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân
trong xã hội để thực hiện mục tiêu xã hội đã cam
kết. Sự hỗ trợ về tài chính là điều kiện để DNXH
có thể đứng vững và cạnh tranh được với các
doanh nghiệp truyền thơng, từ đó tạo ra lợi nhuận
và sử dụng lợi nhuận từ việc kinh doanh thực hiện
các cam kết xã hội, môi trường như đã cơng bơ.
Ngồi sự hỗ trợ về tài chính, cần có sự hỗ trợ khác
từ phía Nhà nước như hỗ trợ về quản trị doanh
nghiệp, đào tạo nhằm ứng dụng tiến bộ khoa học,
kỹ thuật phục vụ cho hoạt động quản lý DNXH.
Thứ hai, quy định rõ cơ quan quản lý nhà nước
đôi với DNXH. Với mục tiêu xã hội, môi trường sẽ
có những điều kiện tốt để doanh nghiệp huy động
và nhận nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân bên
ngồi. Nếu Nhà nước khơng giám sát một cách chặt
chẽ có thể dẫn đến một số đối tượng lợi dụng
DNXH để thu lợi bát chính. Đặc biệt, khi các tổ
chức sự nghiệp nhà nước có thu chuyển sang cơ chế
tự chủ tài chính, các doanh nghiệp nhà nước cung
câp dịch vụ cơng ích,... chuyển đổi thành DNXH rất
cần sự giám sát chặt chẽ từ các cơ quan chuyên
trách về loại hình doanh nghiệp này trong đó có
cam kết xã hội của doanh nghiệp khi thành lập để
đảm bảo các tổ chức đó khơng đi lệch hướng so với
chủ trương xã hội hóa mà Nhà nước đặt ra. Với cơ
quan quản lý chuyên trách sẽ đề ra chính sách hợp
lý để khuyến khích mơ hình phát triển trên thực tế.
Thứ ba, cần có sự thơng tin, tun truyền từ
phía Nhà nước nâng cao nhận thức của người dân
về DNXH. Mục tiêu xã hội, mơi trường là mục
đích chính cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của
DNXH. Khi kinh tế càng phát triển, cũng phát
sinh nhiều vấn đề về mặt xã hội như chênh lệch
giàu nghèo, bất bình đẳng giới, cũng như sự ô
nhiễm về môi trường,... tăng theo. Đê’ phát triển
bền vững, những vân đề trên cần phải được giải
quyết. Tuy nhiên, không thê’ tự bản thân một cá
nhân hay một tổ chức nào có thể làm tốt được, cần
có sự chung tay của tồn xã hội, các thành phần
kinh tế. DNXH ra đời chung tay cùng Nhà nước
giải quyết các vân đề này rât cần sự ủng hộ của
công chúng trong việc tạo điều kiện cho doanh
nghiệp có thê’ đứng vững trên thương trường thơng
qua việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ mà DNXH
cung cấp. Muôn vậy, người dân trong xã hội phải
hiểu được bản chầt, mục đích hoạt động của
doanh nghiệp thơng qua sự tun truyền và phổ
biến từ phía Nhà nước về DNXH ■
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Quốc hội (2014). Luật Doanh nghiệp 2014
2. Quốc hội (2020). Luật Doanh nghiệp 2020
3. Chính phủ (2015). Nghị định số 96/20Ỉ5/NĐ-CP ngày 19/10/2015 Quy định chi tiết một số điều của Luật
Doanh nghiệp.
4. Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh và Trần Thị Hồng Gấm (2012). Báo cáo nghiên cứu
Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam - Khái niệm, bối cảnh và chính sách. Hà Nội, tr. 53-60.5. Dân trí (2019).
Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam: Có mặt ồ cả 3 miền, ngày càng trẻ và giàu tham vọng. Truy cập tại:
/>
54
SỐ 25-Tháng 11/2021
LUẬT
6. Hoài Phong (2020). Những rào cản của doanh nghiệp tạo tác động xã hội. Truy cập tại: />
nhung-rao-can-cua-doanh-nghiep-tao-tac-dong-xa-hoi-4200048.html
7. Ngọc Khanh (2019). Phát triển doanh nghiệp xã hội: Hụt hơi từ chính sách. Truy cập tại:
/>
Ngày nhận bài: 6/9/2021
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 6/10/2021
Ngày chấp nhận đăng bài: 16/10/2021
Thông tin tác giả:
ThS. NGUYỄN THỊ YEN
Viện Kinh tế và Quản lý - Đại học Bách khoa Hà Nội
THE LEGAL STATUS OF SOCIAL ENTERPRISES
UNDER VIETNAM’S LAWS
• Master. NGUYEN THI YEN
School of Economics and Management
Hanoi University of Science and Technology
ABSTRACT:
Vietnam is a developing country, and the average income and living conditions of Vietnamese
have increased in recent years. Along with the countrys economic growth, many new social and
environmental problems have arisen such as social violence, overcrowding in the education and
> healthcare systems, food safety, hunger, jobs for the disadvantaged, waste treatment, air pollution,
(cultural preservation, etc. It is necessary to have the cooperation of many stakeholders to solve
these problems and the state should consider social enterprises as a partner to help the state realize
its socio-environmental goals. Hence, it is important for Vietnam to promulgate suitable policies
and creat a legal framework for social enterprises to develop. This paper examines the legal status
of social enterprises and the legal basis for the establishment and operation of this enterprise type
in Vietnam.
Keywords: legal status, social enterprise, Vietnamese law.
So 25-Tháng 11/2021
55