1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước bước sang thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố (CNH, HĐH) đất nước, Văn kiện Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng xác định: Lãnh đạo kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt [28, tr.664]. Vì vậy,
xây dựng tổ chức cơ sở Đảng luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm và chú trọng.
Bởi vì, tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) là “gốc rễ” của Đảng, là cầu nối giữa Đảng
với dân, giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng, là nơi thực
hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nơi trực tiếp
giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên; nơi thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, an ninh - quốc phịng. Đời
sống các mặt của nhân dân lao động có được nâng lên hay khơng, hệ thống chính
trị cơ sở có thực sự trong sạch vững mạnh hay không đều tuỳ thuộc vào việc xây
dựng TCCSĐ.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết,
chỉ thị chỉ ra những yêu cầu, mục đích và nhiệm vụ, giải pháp xây dựng tổ chức
cơ sở đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, thời kỳ
cách mạng. Và những năm gần đây, vấn đề củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là vấn đề mang tính cấp bách trong công
tác xây dựng Đảng, như trong Nghị quyết lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn; Nghị quyết Hội nghị Trung
ương sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng cán bộ, đảng viên.
Cũng như các địa phương khác trong cả nước, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã
quán triệt sâu sắc những chủ trương, quan điểm chỉ đạo Đảng Cộng sản Việt
2
Nam về xây dựng Đảng nói chung, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng nói riêng ở các
địa phương trong toàn tỉnh. Đảng bộ các huyện vùng đồng bằng Thanh Hố ln
chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, nâng cao năng lực và sức chiến
đấu của các TCCSĐ đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đời sống của nhân dân
ngày càng được cải thiện, tình hình kinh tế, văn hố - xã hội, chính trị ổn định, quốc
phòng- an ninh được giữ vững. Nhân dân tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Xuất phát từ vị trí, chức năng, nhiệm vụ và vai trò của tổ chức cơ sở đảng,
Đảng bộ các huyện vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hoá càng đẩy mạnh hơn nữa
cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Các cấp uỷ cần quán triệt và thực
hiện tốt đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân. Bên cạnh những thành tựu đạt
được, xây dựng Đảng ở một số huyện vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hoá thời gian
qua còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém. Khơng ít tổ chức cơ sở đảng vẫn cịn
thiếu thống nhất, việc lãnh, chỉ đạo có việc, có nơi chưa triệt để…Vì vậy, việc
xây dựng tổ chức cơ sở đảng nhất là vùng đồng bằng để đáp ứng yêu cầu cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đang đặt ra những địi hỏi tất yếu và bức bách.
Nghiên cứu công tác xây dựng tổ chức cơ sở ở một số huyện vùng đồng bằng
tỉnh Thanh Hố góp phần làm sáng rõ những chủ trương của Đảng bộ, quá trình
chỉ đạo tổ chức thực hiện, nêu lên những thành tựu, hạn chế và một số kinh
nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh. Đối với tỉnh Thanh
Hoá, trong giai đoạn hiện nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu về tổ chức cơ
sở đảng dưới góc độ của ngành khoa học Lịch sử Đảng. Do vậy, tôi chọn đề tài
“Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở một số
huyện vùng đồng bằng từ năm 2000 đến năm 2010” làm luận văn Thạc sĩ lịch
sử chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những quan điểm, chủ trương, biện pháp để xây dựng Đảng nhằm nâng
cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở vùng đồng bằng, nông
thôn đã được thể hiện qua các văn kiện của Đảng. Đã có nhiều nhà khoa học và
3
các cơ quan khoa học chọn vấn đề tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn để làm đề tài
nghiên cứu khoa học, khai thác ở nhiều góc độ khác nhau, trong đó có nhiều đề
tài cấp Bộ, đề tài luận án Tiến sĩ, Thạc sĩ, bài viết…được nghiên cứu dưới góc độ
Xây dựng Đảng, Chính trị học như:
* Nhóm nghiên cứu lý luận chung về xây dựng tổ chức cơ sở đảng
Các sách: Tổ chức và hoạt động của chi bộ Đảng của Tiến sĩ Nguyễn
Mạnh Hùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; Về nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2005; Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng, Giáo trình Xây dựng Đảng,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Xây dựng Đảng, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội, 2004; Nguyễn Đức Hà, Một số vấn đề xây dựng tổ chức cơ sở đảng hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
* Nhóm nghiên cứu về quá trình xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở địa
phương, ban ngành:
Viện Mác-Lênin (1995): Vấn đề xây dựng Đảng ở một số vùng có đồng
bào theo đạo Thiên Chúa ở miền Bắc hiện nay (Đề tài khoa học cấp Bộ); Học
viện Chính trị - Hành chính khu vực I: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu cho các loại hình tổ chức cơ sở Đảng xã ở các tỉnh miền núi Tây Bắc Việt
nam - thực trạng và giải pháp (Đề tài khoa học cấp Bộ 2010); Đỗ Ngọc Ninh
(1995): Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng nông thôn (cấp xã) vùng đồng
bằng sông Hồng (Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng);
Nguyễn Đức Ái (2000): Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước (Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng);
Bùi Đức Nhẫn (2001): Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng vùng có đồng
bào theo đạo Công giáo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay (Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo);
Phạm Văn Minh (1998): Chất lượng tổ chức cơ sở Đảng nông thôn tỉnh Sơn La
hiện nay - thực trạng và giải pháp nâng cao (Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng);
Văn Thể (1993): Nâng cao chất lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
4
Đảng nông thôn ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay (Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng);
Hồng Mạnh Đồn (2002): Cơng tác vận động giáo dân của tổ chức cơ sở Đảng
(cấp xã) ở đồng bằng Bắc Bộ nước ta hiện nay (Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng).
* Nhóm các bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí:
Về xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, Lê Quang
Thưởng, Tạp chí Cộng sản số 2, 1997; Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
và sự quản lý của chính quyền cơ sở, Tạp chí Cộng sản số 19, 2001; Mấy giải
pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, Nguyễn Hữu Mộc,
Tạp chí xây dựng Đảng, số 2, 2001; Xây dựng tổ chức cơ sở đảng và phát triển
đảng viên trong khu vực kinh tế có vốn đấu tư nước ngồi hiện nay, Ngơ kim
Ngân, Tạp chí Lịch sử Đảng, 2001; Phát huy dân chủ trong cơ chế Đảng cầm
quyền ở nước ta hiện nay, Nguyễn Văn Huyên, Tạp chí Cộng sản số 13, 2003;
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về chính trị trong tình hình hiện nay,
Tạp chí Khoa học qn sự, 2006;
* Những cơng trình liên quan đến công tác xây dựng Đảng của Đảng
bộ tỉnh Thanh Hoá:
Lê Xuân Thành (2004), Chất lượng các Đảng bộ xã vùng đồng bằng tỉnh
Thanh Hoá giai đoạn hiện nay (Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị); Trịnh
Thanh Tâm (2008), Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng bộ xã
vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay (Luận văn Thạc sĩ Xây
dựng Đảng); Cao Thị Mai (2008), Công tác tuyên giáo của các Đảng bộ phường
ở tỉnh Thanh Hoá giai đoạn hiện nay (Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng);
Nguyễn Xn Phịng (2008), Cơng tác vận động nông dân của các Đảng bộ
huyện vùng Đồng bằng tỉnh Thanh Hoá giai đoạn hiện nay (Luận văn Thạc sĩ
Xây dựng Đảng); Trịnh Đình Châu (2008), Thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong việc bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý ở
các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá giai đoạn hiện nay (Luận văn Thạc sĩ Xây
dựng Đảng); Trần Quang Đảng (2008), Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát
của Uỷ ban kiểm tra huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong giai
5
đoạn hiện nay (Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng). Các cơng trình nghiên cứu
khoa học của các cơ quan, ban ngành, các nhà khoa học đã đề cập vấn đề xây
dựng tổ chức cơ sở đảng dưới nhiều góc độ khác nhau theo chuyên ngành cụ thể
và đi sâu nghiên cứu làm rõ về những vấn đề lý luận công tác xây dựng tổ chức
cơ sở đảng, khẳng định đường lối, quan điểm của Đảng về lãnh đạo xây dựng tổ
chức cơ sở đảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Đi sâu nghiên cứu q trình lãnh đạo thực hiện xây dựng tổ chức cơ sở
đảng ở một số huyện vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hoá trong 10 năm (2000 2010), góp phần tổng kết thực tiễn và cung cấp cơ sở khoa học để nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng vùng đồng bằng tỉnh Thanh
Hoá nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hố xã hội, quốc phịng - an ninh của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ yêu cầu khách quan xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ
một số huyện vùng đồng bằng Thanh Hoá.
- Làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng
bộ một số huyện vùng đồng bằng từ năm 2000 đến năm 2010.
- Đúc rút những kinh nghiệm chủ yếu trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng
của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, nhằm tiếp tục xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ngày
càng trong sạch vững mạnh đáp ứng công cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Chủ trương và quá trình tổ chức thực hiện xây
dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá ở một số huyện vùng
đồng bằng.
Phạm vi nghiên cứu: Xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở một số huyện vùng
đồng bằng tỉnh Thanh Hoá qua khảo sát chủ yếu ở 3 huyện: Đơng Sơn, Thiệu
Hố và n Định.
6
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2000 đến năm 2010
5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp
nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận và thực tiễn:
- Cơ sở lý luận của luận văn: dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam; Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá và của Ban Tổ chức Tỉnh uỷ
Thanh Hoá về xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn: Đánh giá thực trạng việc xây dựng tổ chức
đảng ở một số huyện thời gian qua, đồng thời đề ra những phương pháp, giải
pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu của luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp
nghiên cứu của khoa học lịch sử Đảng; phương pháp lôgic và phương pháp lịch
sử, đồng thời kết hợp với các phương pháp khác như: phương pháp phân tích,
phương pháp thống kê, so sánh để làm rõ nội dung của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, từ đó nâng cao nhận thức, ý thức,
tinh thần trách nhiệm về nhiệm vụ xây dựng Đảng của các tổ chức cơ sở đảng và
mỗi cán bộ, đảng viên ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn cách mạng
hiện nay.
- Luận văn có thể cung cấp căn cứ khoa học cho quá trình lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá về việc xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở một số
huyện vùng đồng bằng.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho Trường Chính trị tỉnh, các
trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện trên địa bàn tỉnh Thanh Hố về công tác
Xây dựng Đảng.
7. Kết cấu của luận văn
7
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn chia làm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
CÔNG TÁC XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
Ở MỘT SỐ HUYỆN VÙNG ĐỒNG BẰNG CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH THANH HOÁ TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005
1.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN - XÃ HỘI CỦA CÁC HUYỆN
VÙNG ĐỒNG BẰNG TỈNH THANH HOÁ VÀ THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CƠ SỞ
ĐẢNG TRƯỚC NĂM 2000
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên - xã hội của các huyện vùng đồng bằng
tỉnh Thanh Hoá tác động đến xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
Thanh Hóa là một tỉnh thuộc Bắc miền Trung, cách thủ đô Hà Nội
khoảng 150 km về phía Bắc và cách thành phố Hồ Chí Minh 1.560km về
hướng Nam, phía Bắc giáp tỉnh Sơn La, Hồ Bình, Ninh Bình, phía Nam giáp
tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hồ dân chủ nhân dân
Lào), phía Đơng giáp biển Đơng. Thanh Hố có diện tích 11.168km2, dân số
3,6 triệu người (năm 2009), đồng thời là một trong những tỉnh có cả 3 hệ
thống giao thông cơ bản là đường sắt, đường bộ và đường thuỷ.
Địa hình Thanh Hố đa dạng, có 3 vùng rõ rệt: Vùng núi - trung du,
vùng đồng bằng và vùng ven biển. Có 27 huyện, thị, thành trong đó vùng
đồng bằng có 8 huyện đó là: Vĩnh Lộc, Yên Định, Đông Sơn, Nông Cống,
Triệu Sơn, Hà Trung, Thọ Xuân và Thiệu Hoá.
Các huyện vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hoá nằm ở khu vực trung tâm
của tỉnh, phân bố ở trung và hạ lưu các con sông Mã, sông Chu và một số con
sông khác. Đất đai trong vùng được bồi đắp bởi hệ thống của sông Mã và một
phần do các con sông nhỏ bồi đắp như sơng Chu, sơng Cầu Chày…tạo cho
địa hình tương đối bằng phẳng, phì nhiêu, thuận lợi cho việc phát triển nông
nghiệp. Song, một số huyện ở vùng đồng bằng như Thọ Xn, Triệu Sơn,
Vĩnh Lộc, n Định, Nơng Cống có một phần diện tích ở phía Tây là núi đá
8
vôi nhỏ và giáp các huyện miền núi của tỉnh. Đây là vùng bán sơn địa, địa
hình chủ yếu là đồi núi thấp, có khả năng phát triển lâm nghiệp.
Khí hậu tồn vùng thuộc khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, với 4 mùa
rõ rệt xn, hạ, thu, đơng. Lượng mưa trung bình khoảng từ 1700mm đến
2200mm/năm. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 230C đến 240C. Số ngày
nắng trong năm khá cao. Tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế của vùng đó
là tài ngun đất. Đất nơng nghiệp màu mỡ, chủ yếu để trồng lúa nước cho
năng suất và chất lượng cao. Diện tích đất nơng nghiệp của 8 huyện vùng
đồng bằng hơn 105.631 ha, chiếm hơn 43% diện tích đất nơng nghiệp tồn
tỉnh Thanh Hố. Ngồi ra cịn có một phần diện tích đất đồi núi để phát triển
lâm nghiệp, một phần diện tích đất trũng và hồ để nuôi trồng thuỷ sản.
Ở các huyện vùng đồng bằng cịn có trữ lượng lớn để phát triển ngành
sản xuất vật liệu xây dựng nhiều nhất là ở huyện Vĩnh Lộc, n Định, Đơng
Sơn, Hà Trung. Có tài ngun khống sản q hiếm đó là quặng Crơm,
Secpentin ở Triệu Sơn, phốt phát ở Thọ Xuân với trữ lượng lớn. Bên cạnh cịn
có tài ngun khống sản như đất sét, cao lanh, than bùn, cát…
Trong suốt chiều dài lịch sử, vùng đồng bằng Thanh Hố cịn ghi dấu
nhiều chiến công trong lịch sử chống ngoại xâm cùng với dân tộc như: khởi
nghĩa Bà Triệu (năm 248) chống xâm lược Ngô; khởi nghĩa Lam Sơn đánh
đuổi quân Minh xâm lược (1418 - 1428); Khởi nghĩa Ba Đình chống
Pháp…từ trong kháng chiến vùng đồng bằng Thanh Hố có vai trị đặc biệt
quan trọng như: là nơi cung cấp nhân tài, của cải cho kháng chiến và góp
phần cản trở quân giặc khi Thanh Hoá là chiếc cầu nối giữa hai miền Bắc
- Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược Thanh Hoá là
vùng tự do và trở thành hậu phương vững chắc. Là nơi xây dựng và hoạt
động của lực lượng dân quân, du kích, bộ địa phương bổ sung lực lượng
cho kháng chiến đồng thời cũng là nơi sản xuất, bảo đảm hậu cần để chi
viện cho tiền tuyến. Chỉ tính riêng về đóng góp sức người cho kháng
9
chiến từ năm 1945 đến năm 1954 đã có 56.792 thanh niên lên đường làm
nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, 6.321 thanh niên xung phong, hàng chục vạn
lượt người tham gia dân công hoả tuyến mà lực lượng chủ yếu tham gia là
thanh niên vùng đồng bằng [3, tr.864].
Với sự đóng góp to lớn sức người, sức của cho hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, vùng đồng bằng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam đồng thời góp phần cùng quân
dân cả nước đánh bại kẻ thù xâm lược, giữ vững độc lập tự do và thống nhất
tổ quốc.
So với các huyện miền núi và các huyện ven biển của tỉnh, VĐB có
thuận lợi đó là:
Hệ thống tổ chức từ huyện đến cơ sở phát triển hồn chỉnh, hoạt động
có nề nếp, được thành lập từ rất sớm (từ năm 1930 - 1946), phát triển rất
nhanh. Có tới 2/3 đảng bộ xã được thành lập ngay sau khi Cách mạng Tháng
Tám thành công, 1/3 số đảng bộ được thành lập hoặc do sự chia tách trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, các huyện đều có bề dày truyền thống
cách mạng trong kháng chiến cũng như trong xây dựng đất nước thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong hai cuộc kháng trường kỳ cùng với cả nước,
Đảng bộ từ huyện đến xã, thị trấn đã đóng góp sức người sức của cho tiền
tuyến, đồng thời trực tiếp vừa sản xuất chiến vừa chiến đấu tại địa phương
giành nhiều thắng lợi. Những năm sau hịa bình lập lại (1954), Đảng bộ các
huyện VĐB đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cải tạo XHCN, đưa nông dân vào
con đường làm ăn tập thể và xây dựng nông thôn mới. Sau khi đất nước thống
nhất, nhất là từ năm 1987 đến nay, VĐB lại tiếp tục phát huy truyền thống
vượt khó vươn lên, động viên nhân dân cần kiệm để xây dựng và phát triển
kinh tế xã hội ở địa phương theo đường lối đổi mới của Đảng, xây dựng nông
thôn ngày một đổi mới ở tầm cao mới. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi
mới, một số đảng bộ xã như Quý Lộc (Yên Định), Thiệu Đô (Thiệu Hóa)…,đã
10
trở thành đơn vị điển hình tồn diện. Với ưu thế về dân số, lao động, thuận lợi
về giao thông, giàu tiềm năng để phát triển toàn diện kinh tế như nông nghiệp,
công nghiệp, dịch vụ…các huyện VĐB là địa bàn trọng điểm để đầu tư phát
triển công nghiệp gắn với đơ thị hóa nơng thơn. Lại là nơi lưu giữ nhiều di tích
lịch sử, văn hóa như thành nhà Hồ, khu Lam Kinh. Cùng với sự phát triển của
sự nghiệp văn hóa, văn nghệ, giáo dục - đào tạo và các hoạt động văn hóa xã
hội khác, vùng đồng bằng trở thành nơi phát triển văn hóa - xã hội tiêu biểu,
mang đậm nét đặc sắc của xứ Thanh.
Đảng bộ đã lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và
các đồn thể chính trị ở cơ sở tổ chức thực hiện được nhiều phong trào thi đua
sôi nổi lôi cuốn được đông đảo đảng viên và quần chúng nhân dân tham gia.
Nội dung của các phong trào thi đua là những nội dung cụ thể, thiết thực, bám
sát tâm tư, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Do đó, những năm qua ở 8
huyện phong trào thi đua phát triển tương đối đều khắp, thu hút được đông
đảo nhân dân tham gia, nổi lên một số phong trào điển hình tiên tiến như
phong trào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phong trào “Toàn dân đồn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, phong trào xóa đói giảm nghèo, xóa nhà tranh tre dột
nát, v.v..Trong đó, cán bộ, đảng viên là lực lượng đi đầu.
Ban Chấp hành Đảng bộ các huyện đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cấp
ủy cơ sở và các đồn thể tích cực đổi mới nội dung, phương thức sinh hoạt chi
bộ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của
địa phương, đơn vị. Các đảng bộ, chi bộ đã xác định được những chủ trương,
nghị quyết phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của chi bộ mình, đi vào những
vấn đề có tính thiết thực, hiệu quả, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc
đang đặt ra ở địa phương. Hàng tháng, hàng quý các cấp ủy họp kiểm điểm
tình hình trong thời gian qua, đề ra nhiệm vụ cho thời gian tới. Các cấp ủy đều
tổ chức cho nhân dân bàn bạc, thảo luận dân chủ trước khi quyết định phương
án thực hiện.
11
Đã lãnh đạo, củng cố và nâng cao vai trò, trách nhiệm và tính chủ động
của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân trong cơng tác
xây dựng Đảng. Đảng bộ các huyện vùng đồng bằng Thanh Hóa đã tập trung
củng cố, phát huy vai trị của Hội đồng nhân dân (HĐND) cấp huyện và cấp
xã, thị trấn; nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý điều hành của Ủy ban nhân
dân (UBND) các cấp trong việc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân ở địa phương. Huyện ủy các huyện đã chỉ đạo các cấp chính quyền
cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Trung ương, của Tỉnh trên các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phịng - an ninh…thành chủ trương, chính
sách phù hợp với địa phương được đông đảo nhân dân ủng hộ. Các cấp ủy, tổ
chức đảng đã chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo các đoàn thể nhân dân đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động, tích cực chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của hội viên, đồn viên
Vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hóa đều có quy mơ lớn về số lượng đảng
viên so với bình quân chung của cả nước và cả tỉnh. Theo thống kê năm 2000,
bình quân 1 đảng bộ xã VĐB Thanh Hóa có 215 đảng viên, gấp 1,6 lần so với
bình quân chung của đảng bộ xã cả nước; hiện nay nhiều đảng bộ có số đơng
đảng viên như Đảng bộ Thị trấn vạn Hà (Thiệu Hóa) 478 đảng viên,…
Do đảng viên đơng đó cũng là một trong những thế mạnh để các đảng
bộ lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển
kinh tế - xã hội và xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh hơn. Số đảng viên ở
đây được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trình độ học vấn, trình độ lý
luận chính trị cũng khác nhau, số đảng viên có tuổi cao vẫn chiếm nhiều như
chi bộ 7-8 (Đảng bộ xã Thiệu Giao-Thiệu Hóa) bình qn hơn 70 tuổi.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên của VĐB so với miền núi đã
được nâng lên một bước, đây là yếu tố quan trọng góp phần thực hiện thắng
lợi các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh và của địa phương. Đội
ngũ cán bộ, đảng viên từ sau khi thực hiện nghị quyết Trung ương 3 (khóa
12
VIII) và cuộc vận động đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết
TW 6 (lần 2, khóa VIII) đến nay đã có nhiều tiến bộ cả về trình độ kiến thức
văn hóa, lý luận chính trị, chun mơn nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị, năng
lực tổ chức thực hiện, tính tiền phong gương mẫu. Cán bộ chủ chốt từ huyện
đến cơ sở phần lớn đã được đào tạo bồi dưỡng, tập huấn qua nhiều trường lớp,
với nhiều nội dung nhất là trong công tác XDĐ. Số cán bộ trẻ, cán bộ nữ ngày
càng được quan tâm hơn. Nhiều cán bộ, đảng viên năng động, dám nghĩ dám
làm, hăng hái đi đầu trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất đạt hiệu quả cao. Nhiều tấm gương đảng viên
phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo làm giàu chính đáng xuất hiện.
Bên cạnh thuận lợi vẫn cịn khó khăn như: Một số tổ chức cơ sở đảng
vẫn chưa tích cực, thiếu tính chủ động bám sát chương trình kế hoạch của cấp
uỷ và cấp trên, thiếu tính nhạy bén nắm bắt và dự báo tình hình, chưa có kế
hoạch, giải pháp cụ thể, thiết thực. Một số tổ chức cơ sở đảng trong doanh
nghiệp còn lúng túng, nội dung, chất lượng sinh hoạt chi bộ vẫn là khâu yếu,
chuyển biến chậm. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên
vẫn cịn mang tính hình thức. Cơng tác phát triển đảng viên ở nơng thơn,
doanh nghiệp tư nhân gặp nhiều khó khăn. Việc phân công nhiệm vụ, quản lý
đảng viên ở một số chi bộ còn chưa chặt chẽ nhất là những chi bộ thường
xuyên có đảng viên đi làm ăn xa. Việc kết nạp đảng viên nơng thơn vẫn khó
khăn do thanh niên đi làm ăn kinh tế xa. Tình trạng “lão hố” đang là nguy cơ
báo động cho các chi bộ nông thơn…
Tuy nhiên trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội của 3 huyện
vùng đồng bằng trên địa bàn tỉnh Thanh Hố đã có sự phát triển khá đồng đều ở
các ngành, các lĩnh vực. Sự phát triển đó đã tạo nên sự ổn định về chính trị, đời
sống nhân dân khơng ngừng được nâng lên.
1.1.2. Tình hình tổ chức cơ sở Đảng một số huyện vùng đồng bằng
tỉnh Thanh Hoá trước năm 2000
13
Sau 15 năm tiến hành đổi mới, đất nước giành được nhiều thành tựu to
lớn tồn diện, tình hình chính trị ổn định, nhiều mục tiêu kinh tế đã hoàn
thành và vượt kế hoạch, đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế nghiêm
trọng và kéo dài, nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần được hình thành và
vận hành trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nguồn lực của
đất nước được tăng cường, lạm phát được kìm hãm, khủng hoảng kinh tế
được đẩy lùi từng bước, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân được cải
thiện, quốc phòng an ninh được củng cố vững chắc. Đường lối quan điểm của
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng là kim chỉ nam cho toàn Đảng, toàn dân
tộc, cho Đảng bộ, nhân dân tỉnh Thanh Hố trong giai đoạn cơng nghiệp hố,
hiện đại hố q hương, đất nước. Hơn 10 năm Đảng bộ tỉnh Thanh Hố đã
đẩy lùi khó khăn, thách thức tạo ra những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh
vực. Tháng 5 năm 1996 Đảng bộ tỉnh đã tiến hành đại hội lần thứ XIV. Đại
hội khẳng định:
Hệ thống chính trị được củng cố một bước, khối đại đoàn kết toàn
dân được mở rộng, chính quyền các cấp ngày càng vững mạnh và có
hiệu lực hơn. Nội bộ Đảng và nhân dân nhất trí, tính tiền phong
gương mẫu của đảng viên được nâng lên một bước, tổ chức cơ sở
đảng được củng cố. Đảng bộ ngày càng phát huy được vai trị lãnh
đạo thực hiện cơng cuộc đổi mới và tăng thêm niềm tin đối với quần
chúng. [4, tr.249]
Cuối năm 1996, thực hiện Nghị định 72/CP của Thủ tướng Chính phủ,
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo chia tách các huyện
Quan Hoá, Như Xuân, Thiệu Yên, Đông Sơn thành lập và tái lập các huyện
mới. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ cũng ra quyết định thành lập các Đảng bộ
huyện. Huyện Thiệu Yên tách thành huyện Yên Định (trở lại tên cũ gồm 27 xã
và 2 thị trấn), huyện Thiệu Hoá (trở lại tên cũ gồm 30 xã và 1 thị trấn). Năm
1999 Tỉnh uỷ chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2)
14
về xây dựng chỉnh đốn Đảng, tiến hành phê bình, tự phê bình ở 91 tập thể, 27
huyện, thị, thành nhờ đó tổ chức đảng được chỉnh đốn, vai trị của Đảng được
tăng cường, các biểu hiện lệch lạc được khắc phục. Công tác xây dựng, củng
cố cơ sở đảng gắn với việc xây dựng củng cố hệ thống chính trị (HTCT) xã,
thị trấn được cấp uỷ Đảng coi trọng. Việc phê bình tự phê bình được tiến
hành nghiêm túc theo đúng yêu cầu, nội dung và hướng dẫn của Trung
ương; đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch
vững mạnh là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt phấn đấu đến năm
2000, cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh chiếm 70 - 85%, cơ sở đảng yếu
kém giảm xuống dưới 2%.
Đồng thời chỉ đạo xây dựng các Ban cán sự Đảng - Đoàn các cơ quan dân
cử, các đoàn thể nhân dân, chỉ đạo sắp xếp các ban, ngành… theo hướng thu
gọn đầu mối. Công tác xây dựng, củng cố cơ sở đảng gắn với việc xây dựng
củng cố HTCT ở thơn, xóm, xã, thị trấn được các cấp uỷ coi trọng. Nhiều đơn
vị đã tổ chức thi bí thư chi bộ giỏi, phấn đấu giảm thấp tỷ lệ tổ chức cơ sở
đảng yếu kém. Đảng bộ tỉnh chỉ đạo các huyện xây dựng quy chế dân chủ ở
cơ sở, gắn công tác xây dựng Đảng với xây dựng cơ sở vững mạnh, an toàn
làm chủ và xây dựng nếp sống mới.
Nhờ chăm lo xây dựng Đảng nên chất lượng của hệ thống tổ chức Đảng
từ miền núi đến vùng đồng bằng không ngừng phát triển.
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết của Trung ương của Tỉnh uỷ, công tác
xây dựng Đảng ở các huyện vùng đồng đã đạt một số kết quả:
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng đã được coi trọng, đội ngũ báo cáo
viên được duy trì kết hợp với phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương
và địa phương như báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, tăng cường cơng
tác thơng tin, bồi dưỡng cán bộ đảng viên về đường lối, chủ trương của Đảng
các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, đấu tranh ngăn chặn những lệch lạc, những biểu
15
hiện sai trái trên các mặt của đời sống xã hội, củng cố khối đoàn kết thống
nhất trong Đảng và nhân dân. Các trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện
thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chính trị
cho cấp uỷ, đảng viên.
Cuộc vận động xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh có
nhiều chuyển biến tích cực, số cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh ngày càng
tăng, số tổ chức đảng yếu kém ngày càng giảm. Vai trò và năng lực lãnh đạo
của tổ chức Đảng được nâng lên. Số cơ sở đảng trong sạch vững mạnh của
một số huyện vùng đồng bằng ngày càng tăng từ 55% năm 1996 lên 70% năm
2000, nhiều cơ sở giữ vững đơn vị trong sạch vững mạnh nhiều năm liên tục.
Hầu hết các chi bộ, đảng bộ trong sạch, vững mạnh phát huy được vai trò
của tổ chức đảng, thực sự là hạt nhân trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Đã xây
dựng được quy chế hoạt động. Do đó, đã thể hiện rõ chức năng lãnh đạo
của cấp uỷ, chi bộ, chức năng quản lý điều hành của chính quyền, cơ quan
chun mơn. Bên cạnh đó đã duy trì và thực hiện tốt chế độ giao ban, kiểm
tra công tác, làm việc có chương trình, kế hoạch. Cơng tác lãnh đạo, triển
khai sơ kết, tổng kết kịp thời, tạo nhân tố mới, có sức thuyết phục. Đồng
thời xác định trách nhiệm quyền hạn của từng tổ chức trong đơn vị cơ sở,
trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân, bước đầu khắc phục được tình trạng
chồng chéo, trùng lặp, bao biện làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của
tổ chức cơ sở đảng, coi trọng và chú trọng hơn nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng, khơng có biểu hiện mất đồn kết.
Cơng tác bố trí, sử dụng, điều động, đề bạt cán bộ được thực hiện theo
đúng quy định của Trung ương, của tỉnh, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân
chủ. Cán bộ lãnh đạo được nâng cao cả về số lượng và chất lượng.
Công tác phát triển đảng viên được Đảng bộ các huyện đặc biệt chú
trọng, chỉ riêng huyện Yên Định từ năm 1997 đến năm 2000 đã kết nạp được
783 đảng viên, Thiệu Hoá 520 đảng viên. Đội ngũ đảng viên đã phát huy
những mặt tích cực các chương trình: Phát triển sản xuất, làm giàu chính
16
đáng, xố đói giảm nghèo, xây dựng các cơng trình phúc lợi giải quyết các
vấn đề xã hội để phân công đảng viên tham gia công tác phát triển đảng.
Công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật đảng, được tiến hành thường xuyên
liên tục, theo chương trình kế hoạch công tác của cấp uỷ: Trong nhiệm kỳ 19972000 Uỷ ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên
có dấu hiệu vi phạm. Cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và
phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương năm, Trung ương sáu (lần 2)
khoá VIII được triển khai nghiêm túc, đạt kết quả bước đầu. Nhìn chung các
cấp uỷ từ tỉnh đến cơ sở đã nhìn thẳng vào sự thật, lắng nghe ý kiến của nhân
dân, đánh giá đúng ưu điểm, khuyết điểm và có biện pháp khắc phục những
thiếu sót, khuyết điểm của tập thể, cá nhân. Chất lượng chính trị, tính chiến
đấu của tổ chức đảng và đảng viên được nâng lên một bước, tạo được niềm tin
của quần chúng. Nội bộ đoàn kết hơn, dân chủ ngày càng mở rộng.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ vẫn còn một số
mặt hạn chế đó là: Việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của cấp
trên ở một số cơ sở chưa nghiêm nên chậm đi vào cuộc sống, chương trình
hành động đề ra chưa sát hợp, thiếu tính khả thi, một số ít tổ chức cơ sở
đảng cịn vi phạm ngun tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt, công tác
tuyên truyền thời sự, chính sách cho cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Sức
chiến đấu và vai trò lãnh đạo của TCCSĐ ở một số địa phương chưa đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ, một số bộ phận cán bộ, đảng viên yếu về năng
lực, sa sút về phẩm chất…
Thực tiễn trong bốn năm (1997 - 2000) cho thấy những thành tựu, cũng
như những khuyết điểm, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng nói chung,
xây dựng tổ chức cơ sở đảng nói riêng đều gắn liền với trách nhiệm của cấp
uỷ đảng các cấp. Những thành công và hạn chế trong quá trình xây dựng tổ
chức cơ sở đảng trước năm 2000 là cơ sở, để Tỉnh đề ra chủ trương, chương
trình hành động, chỉ thị cụ thể thực hiện có hiệu quả cơng tác xây dựng tổ
17
chức cơ sở đảng trong những năm tiếp theo góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của địa phương.
1.2. ĐẢNG BỘ TỈNH QUÁN TRIỆT QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY
DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở MỘT SỐ HUYỆN VÙNG ĐỒNG BẰNG
(2000 - 2005)
1.2.1. Quan điểm và chủ trương của Đảng về xây dựng
tổ chức cơ sở Đảng
Tổ chức cơ sở đảng bao giờ cũng là một vấn đề quan trọng trong lý luận
xây dựng Đảng và thực tiễn công tác xây dựng đảng vô sản kiểu mới. Các nhà
kinh điển Mác-Lênin rất chú ý, cho rằng TCCSĐ là tồn bộ cơng tác và sức
chiến đấu của Đảng, là hạt nhân nền móng của Đảng là hạt nhân chính trị của
tổ chức xã hội. Khi bước sang giai đoạn lịch sử mới V.I.Lênin đã đấu tranh
kịch liệt chống chủ nghĩa đế quốc trong Quốc tế II để bảo vệ và phát triển tư
tưởng của C.Mác và Ăngghen, phát triển lý luận về xây dựng Đảng. Lênin cho
rằng bản chất giai cấp công nhân là của Đảng Cộng sản, Đảng phải là tổ chức
cao nhất, chặt chẽ nhất của giai cấp “Đảng là đội tiên phong của giai cấp phải
hết sức có tổ chức” [35, tr.557].
Để xây dựng đội tiên phong của giai cấp vô sản Nga, Lênin đặc biệt chú ý
đến việc xây dựng các “tiểu tổ”, các “nhóm” trong cơng tác ở các cơng xưởng,
nhà máy, Người coi đó là nhiệm vụ đầu tiên và cấp thiết của Đảng dân chủ xã
hội [33, tr.268]. Để Đảng thực sự là cơ thể sống từ Trung ương đến địa phương,
bám chắc vào cơ sở. Theo Lênin “mỗi nhà máy là một thành trì của chúng ta…
tơi muốn nhấn mạnh ở đâu, những “nhóm” nhà cách mạng cơng nhân nhất định
cũng phải là hạt nhân và người lãnh đạo, người chủ” [35, tr.268].
Đối với TCCSĐ ở nông thôn V.I.Lênin chỉ rõ:
Về cơng tác nơng thơn thì khơng cịn nghi ngờ gì cả, khó khăn ở đó
rất lớn, và tại Đại hội VIII của Đảng chúng ta đã đặt vấn đề đó một
cách đầy đủ, coi đó là một trong những vấn đề chủ yếu nhất. Ở nông
18
thôn cũng như ở thành thị, chỗ dựa của chúng ta chỉ có thể là đại
biểu của quần chúng lao động bị bóc lột [38, tr.352].
Như vậy, theo quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin, vai trò hạt
nhân chính trị, nền móng của tổ chức cơ sở đảng được đặt trong hai loại có
quy mơ khác nhau. Trong quan hệ với bản thân Đảng, tổ chức cơ sở là toàn bộ
các cơ sở của tổ chức đảng, trong phạm vi toàn xã hội, tổ chức cơ sở đảng là
hạt nhân chính trị của quần chúng.
Khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, Hồ Chí Minh chỉ rõ
Đảng không phải là tổ chức để làm quan phát tài. Sức mạnh của Đảng bắt
nguồn từ tổ chức, một tổ chức tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân.
Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ và có
tính kỷ luật cao. Tổ chức đảng phải tuân thủ theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, coi đó là kim chỉ nam để chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng. Đòi hỏi tổ
chức cấp dưới phải phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, chống mọi
biểu hiện cục bộ, bè phái…
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trị của chi bộ, theo Người “Để
lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt
là do đảng viên đều tốt” [48, tr.92]. Vì vậy “cần ra sức củng cố các chi bộ, để
các chi bộ trở nên thật sự là hạt nhân lãnh đạo ở mọi bộ, mọi ngành, mọi
nghề, mọi nơi” [49, tr.271]. Chi bộ là cầu nối giữa Đảng với dân, Hồ Chí
Minh chỉ rõ:
Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền
để liên hệ Đảng với quần chúng. Nhiệm vụ của chi bộ là:
- Luôn luôn tuyên truyền cho nhân dân và tổ chức nhân dân, để thực
hiện khẩu hiệu và chính sách của Đảng
- Luôn luôn chú ý đến tư tưởng và nhu cầu của nhân dân và kịp thời
báo cáo cho cấp trên biết rõ
19
- Luôn luôn quan tâm đến đời sống kinh tế, chính trị và văn hố của
nhân dân, đồng thời giáo dục nhân dân, tổ chức nhân dân để giải
quyết các vấn đề cho nhân dân.
Chỉ có làm đầy đủ những cơng việc ấy, thì Đảng mới liên hệ chặt
chẽ với quần chúng [47, tr.243].
Tại Hội nghị phổ biến Nghị quyết Trung ương lần thứ ba về xây dựng
Nhà nước (30.10.1961) Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Muốn làm nhà cho tốt
phải xây dựng nền móng cho vững. Muốn thực hiện kế hoạch cho tốt phải
chăm lo củng cố chi bộ” [50, tr.266].
Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, đặc biệt là
công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến
trình lãnh đạo cách mạng từ 1930 đến nay đã luôn luôn chú trọng về công tác
xây dựng Đảng, đặc biệt đến thời kỳ đổi mới công tác xây dựng Đảng càng
được quan tâm hơn nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng và đảng viên. Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng lần thứ VI (tháng12 năm 1986) xác định:
Việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, phát huy quyền
làm chủ tập thể của quần chúng nhân dân, nâng cao chất lượng đảng
viên…đều tuỳ thuộc vào sức chiến đấu của TCCSĐ. Những thành
tựu đã đạt được, những tiềm năng được khai thác, những kinh
nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần
chúng cơ sở mà hạt nhân lãnh đạo là tổ chức đảng. Nhưng mặt khác,
sự yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở của đảng đã hạn chế những
thành tựu của cách mạng.
Tổ chức cơ sở đảng phải là người nắm vững và bảo đảm cho mọi
hoạt động ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Ở những nơi thực hiện chế độ thủ trưởng, tổ chức cơ sở đảng
20
phải thực hiện đúng chức năng kiểm tra, kể cả kiểm tra người đứng
đầu cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng, mà trực tiếp là chi bộ, cần chăm lo việc giáo
dục, rèn luyện đảng viên. Chi bộ làm tốt việc phân công đảng viên,
đảng viên nào cũng được giao công tác, và phải làm tròn nhiệm vụ
[28, tr.138-139].
Để lãnh đạo thắng lợi cơng cuộc đổi mới cũng như tồn bộ sự nghiệp xây
dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, Đảng ta phải tự đổi mới và chỉnh đốn để có
kiến thức, năng lực và sức chiến đấu mới. Báo cáo Chính trị tại đại hội đại
biểu lần thứ VII (tháng 6 năm 1991) đã đề ra mục tiêu:
Chấn chỉnh tổ chức và bộ máy của Đảng, tạo ra sự chuyển biến có ý
nghĩa cách mạng trong tổ chức và bộ máy ở các cấp. Xây dựng các
cấp uỷ từ Trung ương đến cấp uỷ đảng cơ sở thực sự có đủ trí tuệ và
năng lực lãnh đạo phù hợp với yêu cầu ở mỗi cấp. Kịp thời thay đổi,
bổ sung các cấp uỷ viên khi cần thiết, không chờ hết nhiệm kỳ…
chấn chỉnh tổ chức và hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng cho phù
hợp với sự thay đổi của các tổ chức kinh tế, xã hội và phương thức
lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới. Khắc phục bằng được tổ
chức cơ sở đảng kém nát. Chú ý củng cố tổ chức đảng ở các vùng
tôn giáo, dân tộc thiểu số [28, tr.357-358].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, Đại hội VII của
Đảng đã khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn qn và tồn dân tiếp tục
đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, đưa đất nước ta vượt qua những thử
thách, đi dần vào thế ổn định và phát triển năng động, vững chắc. Đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII (tháng 6 năm 1996) đã tổng kết 10 năm
thực hiện công cuộc đổi mới, kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII, đề ra mục tiêu, phương hướng và giải pháp
thực hiện CNH, HĐH đất nước đến năm 2020 và trước mắt đến năm 2000.
21
Thắng lợi của công cuộc đổi mới chứng tỏ Đảng ta tiếp tục giữ vững và phát
huy được bản lĩnh và kinh nghiệm của thời kỳ trước. Đại hội nêu rõ:
Hướng chủ yếu củng cố, chỉnh đốn các tổ chức cơ sở đảng là phải
làm cho các cơ sở này quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước, đề ra chủ trương, giải pháp đúng và lãnh đạo tổ chức
thực hiện tốt các nhiệm vụ của đơn vị, phát triển kinh tế, xố đói
giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao động, chống tham
nhũng, ức hiếp quần chúng, lãnh đạo giải quyết những nguyện
vọng chính đáng, thiết thực, bức xúc của nhân dân…Các tổ chức
cơ sở đảng phải động viên và tổ chức nhân dân thường xuyên tham
gia xây dựng Đảng; đóng góp ý kiến xây dựng các nghị quyết của
Đảng [28, tr.724].
Báo cáo Chính trị tại đại hội IX, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh:
Tất cả các đảng bộ, chi bộ ở cơ sở đều phải nắm vững và thực
hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính
quyền, đồn thể, các tổ chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác
và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở, nâng cao tính chiến đấu, khắc
phục tình trạng thụ động, ỷ lại, bng lỏng vai trị lãnh đạo. Cấp
uỷ cấp trên tập trung chỉ đạo củng cố các đảng bộ, chi bộ yếu
kém, kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ những nơi có
nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Nâng cao chất lượng sinh
hoạt cấp uỷ, chi bộ… [29, tr.112].
Thực hiện nghiêm túc những nguyên lý về Đảng và xây dựng Đảng của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra nguyên tắc
và quan điểm đổi mới của Đảng. TCCSĐ là nền tảng của Đảng, là cầu nối
giữa Đảng với dân, có vị trí rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng.
Toàn Đảng phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của TCCSĐ; đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh
22
vực hoạt động của đời sống xã hội ở cơ sở, nhất là những địa bàn, lĩnh vực
trọng yếu, có nhiều khó khăn. Lấy hiệu quả hoạt động của HTCT ở cơ sở làm
thước đo kết quả hoạt động công tác xây dựng Đảng; tăng cường mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng, phát huy
sức mạnh tổng hợp của HTCT trong việc tham gia xây dựng Đảng, tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên
phải chịu sự giám sát của nhân dân; thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ. Xây dựng TCCSĐ phải kết
hợp chặt chẽ với Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm hương đạo đức Hồ
Chí Minh, với xây dựng chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở
vững mạnh, với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là bí
thư chi bộ, đảng bộ, người đứng đầu và các cấp uỷ viên; nâng cao chất lượng
TCCSĐ phải được tiến hành một cách có hệ thống và tồn diện; phát huy
những kết quả, kinh nghiệm thực hiện các nghị quyết của Đảng và từ thực
trạng TCCSĐ; kết hợp cấp uỷ cấp trên với tính tự giác, năng động, sáng tạo
của cơ sở.
Để nâng cao chất lượng TCCSĐ, cần phải hoàn thiện việc xây dựng
quy chế hoạt động, nắm vững và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của
các loại hình TCCSĐ theo quy định của Trung ương, tiếp tục kiện toàn đảng
uỷ, chi uỷ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở, củng cố,
kiện toàn các đảng bộ, chi bộ, nâng cao chất lượng quản lý đảng viên và
sinh hoạt chi bộ, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của chính
quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, đề cao trách nhiệm và
tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của cấp trên, trước tiên là cấp trên
trực tiếp của TCCSĐ.
Những năm qua, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước
và hội nhập kinh tế quốc tế, số lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong
23
Đảng tăng nhanh và có những thay đổi đáng kể: số tổ chức cơ sở đảng ở khu
vực xã, phường, thị trấn tăng nhanh do chia tách và thành lập mới, số tổ chức
cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước giảm do cổ phần hoá và giải thể, số
tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần và
doanh nghiệp có vốn nhà nước liên doanh với nước ngồi tăng; một số loại
hình tổ chức cơ sở đảng mới được định hình và đi vào hoạt động (tổ chức cơ
sở đảng trong doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, trong doanh nghiệp tư
nhân, trong trường học và bệnh viện ngồi cơng lập…)
Do đặc điểm, tính chất và chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại hình
TCCSĐ khác nhau nên vai trò lãnh đạo và chất lượng hoạt động của từng loại
hình tổ chức cơ sở đảng cũng khác nhau và khơng đồng đều.
Hiện nay, vai trị, vị trí của TCCSĐ rất to lớn vì đây là nơi thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Xây
dựng Đảng càng mạnh về tổ chức thì việc thực hiện các nghị quyết của Đảng,
của Nhà nước càng thành công; phải chấp hành tốt đường lối, chủ trương của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Từ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà
nước phải đề ra làm nhiệm vụ chính của đảng bộ, chi bộ, thực hiện có hiệu
quả. Phải biết biến các chương trình, nghị quyết thành hành động cụ thể và phù
hợp với địa phương, đơn vị; xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh
trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện tốt nguyên tắc tập trung
dân chủ; thực hiện tốt việc phê bình và tự phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường
đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý
cán bộ, đảng viên nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, nâng
cao trình độ kiến thức, năng lực cơng tác; làm tốt cơng tác phát triển đảng viên;
lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc
phịng an ninh và các đồn thể chính trị - xã hội trong sạch vững mạnh; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước; liên hệ mật
thiết với nhân dân, chăm lo bảo vệ lợi ích tinh thần và vật chất cho nhân dân lao
24
động, lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện tốt đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện, chấp hành
nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật Nhà nước. Kiểm tra việc
tổ chức Đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Từ những quan điểm về lý luận và từ những kinh nghiệm thực tiễn về
công tác xây dựng Đảng ở nước ta, TCCSĐ có vai trị rất lớn đó là: TCCSĐ là
nền tảng của Đảng, thơng qua các loại hình TCCSĐ để tập hợp tồn thể đảng
viên thành một bộ máy hồn chỉnh có tính hệ thống, thành một chính đảng có
sức chiến đấu cao. Sức mạnh của Đảng được nâng lên nhờ các loại hình
TCCSĐ hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân
phụ trách, thiểu số phục tùng theo đa số. Chính nhờ yếu tố này mà Đảng ta trở
thành một Đảng cầm quyền và thống nhất. Tính tổ chức chặt chẽ và sự kết nối
là điều kiện, là cơ sở tồn tại cho một Đảng tiến hành đấu tranh giành chính
quyền, giữ chính quyền. TCCSĐ phân bố rộng khắp cả nước, nơi nào có đảng
viên nơi đó có tổ chức Đảng. Trong hệ thống chính trị - xã hội ở bất kỳ bộ
phận nào, trong điều kiện Đảng cầm quyền, tổ chức cơ sở đảng phải trở thành
hạt nhân chính trị và là bộ phận trong hệ thống ấy. Mọi chủ trương, đường lối,
chỉ thị, nghị quyết, chính sách của Đảng đều được chuyển tải từ tổ chức đến
cán bộ, đảng viên và nhân dân và trở thành hành động cụ thể của đông đảo
đảng viên.
Tổ chức cơ sở đảng là môi trường hoạt động trực tiếp của đảng viên, có
trách nhiệm quản lý, giáo dục, bồi dưỡng, kiểm tra, giám sát đảng viên. Dù ở
vị trí công tác nào đảng viên cũng phải ở trong một chi bộ, một tổ chức để
tham gia sinh hoạt.Trong một tổ chức cơ sở đảng, quan hệ đồng chí, giữa các
đảng viên với nhau rất chặt chẽ, gần gũi, thông qua sinh hoạt đảng phê bình và
tự phê bình chỉ cho nhau biết khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục mặt yếu
phát huy mặt mạnh, tích cực. Tổ chức có trách nhiệm xây dựng kế hoạch bồi
dưỡng, đào tạo về trình độ lý luận, chun mơn và nghiệp vụ cho đảng viên.
25
TCCSĐ trở thành nơi tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất cộng sản cho người đảng
viên và là nơi hoàn thiện nhân cách, đạo đức.
1.2.2. Quá trình xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở một số huyện vùng
đồng bằng tỉnh Thanh Hoá (2000 – 2005)
Trong hơn 15 năm đổi mới đất nước làm cho vị thế của nước ta đã được
nâng cao trên trường quốc tế. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế được
tăng cường. Chính trị ln ln ổn định, văn hố xã hội phát triển. Môi trường
thuận lợi cho việc hợp tác, liên kết quốc tế tạo điều kiện cho nước ta tranh thủ
ngoại lực, phát huy nội lực.
Đại hội đại biểu lần thứ XVI của Đảng bộ tỉnh xác định: “Tập trung xây
dựng, củng cố hệ thống tổ chức Đảng các cấp; hướng mạnh về cơ sở, triển
khai thực hiện tốt các quy định của Ban Bí thư Trung ương (Khố IX) về chức
năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng” [6, tr.66-67].
Quán triệt quan điểm của Trung ương và thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh
uỷ Thanh Hoá, Ban Chấp hành Đảng bộ các huyện đã chỉ đạo xây dựng tổ
chức cơ sở đảng
Ở xã, phường, thị trấn: là hạt nhân lãnh đạo tồn diện các mặt cơng tác ở
cơ sở, cần nắm bắt nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là
then chốt chăm lo xây dựng chính quyền và các đồn thể nhân dân, bảo đảm
sự kết hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị đưa đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đến với mọi người dân và tổ
chức thực hiện tốt và giải đáp mọi tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, khơi
dậy trí tuệ, nguồn lực của nhân dân, khơng ngừng nâng cao trình độ dân sinh,
dân trí, dân chủ ở cơ sở. Đấu tranh ngăn chặn từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã
hội trên địa bàn.
Các đơn vị hành chính, sự nghiệp: có trách nhiệm lãnh đạo bảo đảm việc
quán triệt và thức hiện đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước
trên các lĩnh vực hoạt động chuyên mơn, khoa học, giáo dục, y tế, văn hố...