MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1:
3
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG
BỘ QUÂN ĐỘI VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN
12
1.1.
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010
Yêu cầu khách quan Đảng bộ Quân đội lãnh đạo công
12
1.2.
tác thanh niên (2000 – 2010)
Chủ trương của Đảng bộ Quân đội về công tác
thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
28
1.3.
hiện đại hóa
Đảng bộ Qn đội chỉ đạo thực hiện công tác thanh
Chương 2:
2.1.
niên (2000 - 2010)
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
Nhận xét quá trình Đảng bộ Quân đội lãnh đạo công
35
50
50
2.2.
tác thanh niên (2000 - 2010)
Kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng bộ Quân đội
lãnh đạo công tác thanh niên (2000 - 2010)
67
82
84
92
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, các thế hệ thanh niên Việt Nam
đã luôn nêu cao tinh thần yêu nước, không ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng
hy sinh vì sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Được Đảng và Bác Hồ sáng lập,
lãnh đạo và rèn luyện, trong hơn 80 năm qua, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, làm tốt nhiệm vụ đoàn
kết, tập hợp, giáo dục, vận động thanh niên tham gia các phong trào cách
mạng. Dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng, thanh niên thời đại Hồ Chí Minh
đã khơng ngừng phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện xuất
sắc nhiệm vụ được giao, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân viết
nên những trang sử hào hùng, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đẩy
mạnh cơng cuộc đổi mới vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ngày nay, trong công cuộc đổi
mới đất nước, thanh niên và CTTN càng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng.
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: Thanh niên là một bộ phận nòng cốt của xã
hội, rường cột của dân tộc, là lực lượng xung kích của cách mạng và là chủ
nhân tương lai của đất nước; công tác thanh niên là công tác mang tính chiến
lược có ý nghĩa sống cịn của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII nêu rõ: "Sự nghiệp đổi mới có thành
cơng hay khơng, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong
cộng đồng thế giới hay khơng, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con
đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh
niên".
Là một bộ phận của thanh niên cả nước, thanh niên quân đội là lực lượng
đơng đảo, xung kích trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, nguồn đào tạo cán bộ cho quân đội và góp phần tăng cường lực lượng
cho các tổ chức, các ngành, các lĩnh vực trong công cuộc đổi mới đất nước.
2
CTTN trong qn đội có vai trị hết sức quan trọng, vừa tăng cường sức mạnh
chiến đấu của quân đội, vừa góp phần tăng cường sức mạnh tồn diện của đất
nước, của dân tộc, đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như
phục vụ cho nhiệm vụ lâu dài của quân đội và cách mạng.
Là một tổ chức đảng trực thuộc, Đảng bộ Quân đội luôn quán triệt và
vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng nói chung, trong đó có các
chủ trương, biện pháp về CTTN. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Quân đội, từ
năm 2000 đến 2010, CTTN đã góp phần xây dựng được thế hệ thanh niên quân
đội thời kỳ mới có phẩm chất đạo đức, tri thức, sức khỏe, lịng trung thành vô
hạn; không ngừng kế tục truyền thống của dân tộc, giữ vững và phát huy bản
chất, truyền thống “Trung với Đảng, trung với Nước, hiếu với Dân” của Quân
đội nhân dân Việt Nam; nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền đất
nước; xung kích, đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ; chấp nhận khó khăn, gian
khổ, hăng hái học tập, rèn luyện, cơng tác, góp phần xây dựng quân đội nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, CTTN vẫn còn những
tồn tại, hạn chế: Nhận thức về vai trị, vị trí đối với CTTN của một số cấp ủy
Đảng chưa đầy đủ; việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực và kỹ năng tổ chức các
hoạt động cho đội ngũ cán bộ làm CTTN còn hạn chế. Sự ảnh hưởng của các
tệ nạn xã hội và những tác động mặt trái của cơ chế thị trường vào nhận thức,
tư tưởng, đạo đức, lối sống của thanh niên; bên cạnh những ưu điểm về phẩm
chất chính trị, trình độ học vấn, sức khỏe,… TNQĐ cũng còn bộc lộ những
hạn chế về phương pháp, tác phong công tác, kinh nghiệm trong giải quyết
các mối quan hệ xã hội,…
Thực trạng trên đặt ra yêu cầu khách quan là cần phải nghiên cứu có tính
chất hệ thống, tồn diện nhằm đánh giá đúng những ưu điểm, hạn chế, nguyên
nhân… qua đó, rút ra một số kinh nghiệm để Đảng bộ Quân đội tiếp tục hoàn
3
thiện chủ trương, chính sách, lãnh đạo, chỉ đạo CTTN trong thời kỳ mới; góp
phần nâng cao chất lượng CTTN trong quân đội, xây dựng quân đội vững mạnh
về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài “Đảng bộ Quân đội lãnh đạo công
tác thanh niên từ năm 2000 đến năm 2010” làm Luận văn thạc sĩ Lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cơng tác thanh niên là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của Đảng nên được
các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà khoa học trong nước và trên thế giới quan
tâm, nghiên cứu với các cấp độ khác nhau, có thể chia thành các nhóm cơng
trình như sau:
Một là, nhóm các cơng trình nghiên cứu về thanh niên và cơng tác
thanh niên, tiêu biểu có:
Về sách, luận văn, luận án: Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đề tài cấp Bộ, Trung ương Đồn
TNCS Hồ Chí Minh, Hà Nội (2002); Nguyễn Văn Hùng, Ban Dân vận Trung
ương, (Chủ biên) (2001), Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác vận động
thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội; Tơ Thành Phát (2002), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo công tác thanh niên thời kỳ đổi mới từ 1991 – 2001, Luận văn thạc sĩ
Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Lê Thị
Hồi Thanh (2003), Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong
giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nguyễn Hữu Đức (Chủ
biên) (2003), Giáo dục, rèn luyện thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội;
Phùng Văn Thiết (2006), Biến động cơ cấu xã hội giai cấp và vấn đề giáo dục
4
chính trị cho thanh niên ở nước ta, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội…
Những cuốn sách và cơng trình nghiên cứu trên, các tác giả đã luận bàn
xoay quanh các vấn đề về giáo dục chính trị, truyền thống, đạo đức, bồi
dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên hiện nay; xác định vai trò của
thanh niên, việc vận động thanh niên của các tổ chức đoàn trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về các bài báo khoa học, tiếp cận nghiên cứu về thanh niên và cơng tác
thanh niên ở phạm vi, góc độ khác nhau có các bài báo khoa học như: Đỗ
Mười, “Phấn đấu vào Đảng thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh là lý tưởng cao đẹp của thanh niên”, Báo Quân đội nhân
dân, số ra ngày 20/3/1995; Hồng Bình Qn, “Vấn đề phát triển Đảng trong
thanh niên sinh viên hiện nay”, Báo Quân đội nhân dân, (số 5, 5/1999);
Nguyễn Văn Sáu (2004), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác phát
triển Đảng”, Tạp chí Xây dựng Đảng (số 6); Trần Lưu Hải (2008), “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Xây dựng Đảng (số 7); Trương
Hồng Giang (2008), “Giáo dục truyền thống cho thanh niên thời kỳ hội
nhập”, Tạp chí Thanh niên (số 25); Dương Tự Đam (2009), “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước về cơng tác thanh niên”, Tạp chí
Thanh niên (số 1); Nguyễn Hoàng Hiệp (2009), “Đổi mới phương thức tập
hợp thanh niên vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí Quốc
phịng tồn dân (số 3); Nguyễn Năng Nam (2010), “Tăng cường giáo dục về
văn hóa, lối sống cho thanh niên hiện nay”, Tạp chí Thanh niên (số 28); Trần
Thơng (2010), “Vai trị của tổ chức Đồn trong tập hợp thanh niên”, Tạp chí
Thanh niên (số 30); Cao Văn Trọng (2010), “Đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ
theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Thanh niên (số 4).
Nội dung các bài báo trên đều tập trung đề cập đến vấn đề thanh niên
5
và CTTN, mặc dù ở các cấp độ khác nhau, nhưng các bài báo đều khẳng
định: Công tác phát triển Đảng trong thanh niên là một nhiệm vụ quan trọng
của CTTN; để thế hệ thanh niên Việt Nam hiện nay xứng đáng là đội hậu bị,
lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới thì cần phải tăng cường công tác
giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng của cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp đối với
thanh niên và CTTN.
Hai là, nhóm các cơng trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến công
tác thanh niên Quân đội
Về luận văn, luận án: Phạm Gia Cư (2000), Nâng cao chất lượng công
tác thanh niên ở các đơn vị cơ sở làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến
đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay, Luận án tiến
sĩ Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quân sự; Nguyễn Văn Lượng (1995),
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với thanh niên quân đội
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quân sự; Nguyễn
Hữu Ngà (2002), Nâng cao chất lượng lãnh đạo công tác thanh niên ở các hệ
học viên Trường sĩ quan Đặc công hiện nay, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng,
Học viện Chính trị quân sự; Đỗ Hoàng Ngân (2011), Bồi dưỡng năng lực cơng
tác thanh niên của đội ngũ chính trị viên ở các đơn vị cơ sở làm nhiệm vụ huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay,
Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị, Hà Nội.
Các cơng trình luận văn, luận án trên đã đề cập, luận bàn xoay quanh
vấn đề CTTN dưới nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau; tuy nhiên, các cơng
trình này chưa đi sâu vào nghiên cứu Đảng bộ Quân đội lãnh đạo CTTN. Mặc
dù vậy, các cơng trình nghiên cứu kể trên đã thể hiện thành quả lao động miệt
mài, sáng tạo của các tác giả góp phần thiết thực vào nâng cao chất lượng
CTTN quân đội hiện nay.
6
Về các bài báo khoa học: Nguyễn Vĩnh Thắng (2005), “Giáo dục, bồi
dưỡng, rèn luyện đoàn viên thanh niên quân đội hiện nay theo tư tưởng Bác
Hồ”, Tạp chí Thanh niên Quân đội (số 35); Võ Văn Thưởng (2007), “Để
phong trào thanh niên Quân đội là mũi nhọn xung kích của phong trào thanh
niên cả nước”, Tạp chí Thanh niên Quân đội (số 44); Bùi Văn Huấn (2008),
“Phát huy vai trị xung kích của thanh niên qn đội trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Cộng sản (số 793);
Nguyễn Ngọc Hải (2008), “Phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối
với tổ chức đoàn trong quân đội”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự
(số 4); Nguyễn Mạnh Dũng (2010), “Thanh niên Quân đội rèn đức, luyện tài,
xung kích, sáng tạo, phấn đấu xứng danh Bộ đội Cụ Hồ, Tạp chí Thanh niên
(số 12). Trương Văn Bảy, “Thanh niên Quân đội phát huy, làm phong phú
thêm phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ”, Báo Quân đội nhân dân, ngày 12/3/2011;
Thái Đức Hạnh, “Xây dựng thế hệ thanh niên Quân đội toàn năng”, Báo Tiền
phong, ngày 29/11/2012.
Các bài báo trên đã đề cập làm rõ nội dung, biện pháp CTTN quân
đội hiện nay, trong đó nhấn mạnh vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn
của tổ chức đảng, người chủ trì, các cơ quan chức năng đối với CTTN
trong qn đội.
Nhóm các cơng trình khoa học của một số tác giả nước ngoài nghiên cứu
về thanh niên và công tác thanh niên
Các sách, như: X. M. Lê-pê-khin (1975), Những nguyên lý lêninnít về
giáo dục thanh niên, Nxb Lê-nin-Grat, Liên Xô. Dựa trên cơ sở học thuyết
Mác - Lênin về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc giáo dục thanh niên,
tác giả đã luận giải làm rõ nội dung những nguyên lý lêninnít về giáo dục
thanh niên; phương pháp, hình thức, kinh nghiệm trong cơng tác giáo dục
thanh niên của Đoàn Thanh niên Cộng sản Liên Xô.
7
M. I. Calinin (1982), Bàn về thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Bằng
những trải nghiệm của bản thân, tác giả đã đúc rút một số kinh nghiệm trong công
tác giáo dục thanh niên, đồng thời tác giả cũng đưa ra những yêu cầu cụ thể về
phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong của cán bộ làm công tác thanh niên.
Ngồi ra, bàn về thanh niên và cơng tác thanh niên cịn có các cơng trình
nghiên cứu của các tác giả như: A.Vi-nơ-gra-đơp (1979), Cán bộ Đồn phải là
người như thế nào, Nxb Thanh niên, Hà Nội; V.A.Xu-khơm-lin-xki (1983),
Hình thành niềm tin cho thế hệ trẻ, Nxb Thanh niên, Hà Nội; V.I.V anôp và
B.Lixin (1985), Đào tạo và giáo dục cán bộ Đoàn, Nxb Thanh niên, Hà Nội;
V.I. Tsuprov (1998), Thanh niên trong quá trình tái sản xuất xã hội, Viện xã hội
học, Hà Nội; Giáo trình cơng tác chính trị của Qn Giải phóng nhân dân
Trung Quốc, Nxb Đại học quốc phịng Qn Giải phóng nhân dân Trung Quốc,
1987 (người dịch: Dương Minh Hào, Dương Thù Trang, Phòng Biên tập sách
Quốc tế, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội).
Với những cách tiếp cận khác nhau, các cơng trình đã đi sâu nghiên cứu
về vị trí, vai trị của thanh niên và CTTN; nội dung, phương thức giáo dục
thanh niên; yêu cầu về phẩm chất, năng lực, phương pháp cơng tác của cán bộ
làm CTTN và cán bộ Đồn; những kinh nghiệm trong đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ, năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ Đồn nói chung,
năng lực CTTN nói riêng.
Có thể khẳng định, các cơng trình nghiên cứu trên là những tư liệu quý,
đã có những đóng góp nhất định về mặt lý luận và thực tiễn đối với CTTN
theo những góc độ khác nhau ở những chuyên ngành cụ thể. Các công trình
đã đi sâu nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về CTTN của Đảng; khẳng
định đường lối, quan điểm của Đảng về CTTN, giáo dục, bồi dưỡng thanh niên,
xây dựng các tổ chức đoàn vững mạnh xuất sắc là đúng đắn, phù hợp với yêu
cầu thực tiễn cách mạng. Đồng thời, các cơng trình nghiên cứu đã bước đầu đề
xuất được những kinh nghiệm, giải pháp quan trọng về CTTN trong tình hình
8
mới. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có cơng trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu,
phân tích, luận giải một cách có hệ thống, tồn diện về chủ trương, sự chỉ đạo
của Đảng bộ Quân đội lãnh đạo CTTN từ năm 2000 đến năm 2010 dưới góc độ
Khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Các cơng trình trên là nguồn tư liệu
quan trọng, có giá trị lý luận và thực tiễn đáng tin cậy mà tác giả tham khảo
trong q trình nghiên cứu và hồn thiện Luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ Quân đội lãnh đạo công tác
thanh niên từ năm 2000 đến năm 2010; qua đó, rút ra nhận xét và những kinh
nghiệm chủ yếu để có thể vận dụng trong những năm tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ yêu cầu khách quan Đảng bộ Quân đội lãnh đạo CTTN trong
những năm 2000 - 2010.
Phân tích, luận giải làm sáng tỏ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Quân
đội về CTTN từ năm 2000 đến năm 2010.
Nhận xét quá trình lãnh đạo CTTN của Đảng bộ Quân đội từ năm 2000
đến năm 2010 và rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ Quân đội về CTTN.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của
Đảng bộ Quân đội đối với CTTN.
Về thời gian: Từ năm 2000 đến năm 2010. Tuy nhiên, để bảo đảm tính hệ
thống, đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài có sử dụng tài liệu, tư liệu trước và
sau khoảng thời gian nói trên.
Về khơng gian: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các đơn vị Quân đội nhân
9
dân Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác - Lênin và phương pháp luận sử học.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lơgíc và kết hợp hai
phương pháp đó là chủ yếu.
Ngồi ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như: So sánh,
khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp,.v.v.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ
Quân đội về CTTN trong Quân đội, khẳng định vai trò quan trọng của Đảng
bộ Quân đội trong lãnh đạo hoạt động công tác quần chúng nói chung, CTTN
nói riêng từ năm 2000 đến năm 2010.
Trên cơ sở đó, tiếp tục khẳng định vai trò to lớn của TNQĐ và CTTN
trong Quân đội trước yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay. Đề tài góp phần vào việc tổng kết kinh nghiệm quá trình
Đảng bộ Quân đội lãnh đạo CTTN trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc học tập,
nghiên cứu về CTTN ở các đơn vị, học viện, nhà trường trong Quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI
VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010
10
1.1. Yêu cầu khách quan Đảng bộ Quân đội lãnh
đạo cơng tác thanh niên
1.1.1. Vị trí, vai trị của thanh niên và cơng tác thanh
niên trong Qn đội
* Vị trí, vai trị của thanh niên và cơng tác thanh niên
Cơng tác thanh niên là một bộ phận của công tác quần chúng, là cơng
tác vận động chính trị đối với thanh niên, nhằm tập hợp, giác ngộ, giáo dục
thanh niên trở thành những con người mới xã hội chủ nghĩa. Vấn đề giáo dục
thế hệ trẻ và CTTN luôn được các nhà tư tưởng, nhà sư phạm, nhà sử học ở
mọi thời đại quan tâm nghiên cứu.
Với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, C.Mác đã
khẳng định: Sự thành bại của các cuộc cách mạng phần lớn phụ thuộc vào thế
hệ trẻ và CTTN. Khi bàn về vai trò của thanh niên đối với sự nghiệp cách
mạng, C.Mác nhấn mạnh: Thanh niên là cội nguồn của sự sống của dân tộc và của
giai cấp công nhân. Do đó, các đảng cộng sản phải biết lãnh đạo, tổ chức giáo dục
thanh niên, và chỉ có như vậy thì thế hệ trẻ mới phát huy được vai trò to lớn của
mình. Ph.Ăngghen là người đầu tiên đưa ra quan niệm thanh niên là đội quân
xung kích quyết định của đạo quân vô sản quốc tế, đội hậu bị của đảng cộng sản.
Kế thừa và phát triển những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong
điều kiện mới, trong tác phẩm Nhiệm vụ của đoàn thanh niên, V.I. Lênin chỉ rõ:
“Cần phải nói đến vấn đề này vì theo một ý nghĩa nào đó có thể nói rằng: Nhiệm
vụ thực sự xây dựng Cộng sản chủ nghĩa chính là của thanh niên” [42, tr.354].
Người nhấn mạnh, Đảng phải biết lãnh đạo, giáo dục thanh niên, biến Cộng sản
chủ nghĩa từ những công thức, những lời dạy, những phương pháp, những chỉ thị,
những cương lĩnh có sẵn và cái học thuộc lịng thành những cái thực tế sinh động.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ln đánh giá cao vai trị, vị trí của thanh niên và CTTN trong
sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Bồi
11
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Vì
vậy, Người đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với thanh niên và CTTN. Chính
Người đã là một chiến sĩ tiên phong “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết
họ, huấn luyện họ, đưa họ ra tranh đấu giành tự do, độc lập”. Và, cũng chính
Người đã sáng lập, rèn luyện Đoàn Thanh niên cộng sản, đã chỉ thị trực tiếp cho
Trung ương Đảng về nhiệm vụ CTTN sau khi Đảng được thành lập. Sau khi
giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Nhà nước đề ra các
chính sách thanh niên phù hợp với từng thời kỳ cách mạng. CTTN mà cơ bản là
đào tạo, giáo dục, phát huy thanh niên; theo Người, là sự tác động đồng bộ của
các chủ thể từ gia đình, đồn thể, xã hội cho đến các cấp Đảng và Nhà nước.
Người nhấn mạnh: “Thanh niên là bộ phận quan trọng của dân tộc”, từ đó “nước
nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên” [48, tr.84].
Người giải thích khái niệm đó trên cơ sở khẳng định sự phát triển trong tương lai
của đất nước và tiền đồ vẻ vang của dân tộc nằm trong tay thanh thiếu niên.
Trong ý nghĩa là lực lượng quyết định con đường đi lên của đất nước, là lớp
người kế tục sự nghiệp của các thế hệ cha anh.
Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
thanh niên và CTTN, Đảng Cộng sản Việt Nam ln đánh giá đúng vai trị, vị
trí chiến lược của thanh niên và CTTN trong sự nghiệp cách mạng của Đảng
và dân tộc. Đảng ta xác định, thanh niên là một “lực lượng xã hội hùng hậu”,
là đội quân xung kích cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
và là lớp người thừa kế trung thành, xuất sắc sự nghiệp cách mạng. Đảng luôn
tin tưởng sâu sắc vào lực lượng thanh niên; chăm lo giáo dục, bồi dưỡng và
tạo điều kiện cho thanh niên rèn luyện và trưởng thành; thường xuyên quan
tâm phát huy vai trò làm chủ và tiềm năng to lớn của thanh niên. CTTN là
nhiệm vụ rất quan trọng của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Nhiều văn kiện của Đảng đã nêu lên quan điểm về thanh niên
và CTTN. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: CTTN là một nhiệm vụ chính trị
có ý nghĩa chiến lược đối với tương lai dân tộc và vận mệnh của Tổ quốc. Tại
12
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII), đồng chí
Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nhấn mạnh trong phát biểu khai mạc: “Việc quan
trọng hàng đầu là phải xây dựng một chiến lược thanh niên trong thời kỳ mới”
[19, tr.23]. Nghị quyết chỉ rõ:
Sự nghiệp đổi mới có thành cơng hay khơng, đất nước bước vào thế kỷ 21
có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tùy thuộc
vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh niên;
công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng [19, tr.82].
Từ vai trò chiến lược to lớn của thanh niên, Đảng ta coi chính thanh niên
chứ khơng phải ai khác, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố
và nguồn lực con người.
Công cuộc đổi mới đất nước đã thu được những thành tựu to lớn và
quan trọng. Sức mạnh mọi mặt của đất nước đang tạo ra thế và lực mới đưa
nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong những thành tựu chung đó, có sự đóng góp xứng đáng của thanh niên.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, quyết tâm ra sức phấn đấu đến năm 2020 cơ bản đưa nước
ta trở thành một nước công nghiệp. Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, thanh niên chiếm vị trí trung tâm
trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Thực hiện thắng
lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp là nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng, toàn dân, là
“sứ mệnh lịch sử” của thanh niên.
* Vị trí, vai trị của thanh niên và CTTN trong Quân đội
- Đặc điểm CTTN trong Quân đội
13
Thanh niên Quân đội là một bộ phận của thanh niên cả nước, hoạt động
trong môi trường quân sự với u cầu nhiệm vụ mang tính đặc thù. Vì vậy,
CTTN trong Quân đội có những đặc điểm chủ yếu như sau:
Một là, CTTN trong Quân đội được tiến hành trong môi trường hoạt
động quân sự, gắn sát với nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu. Đây là đặc điểm nổi bật chi phối trực tiếp đến việc xác định nội dung,
hình thức, phương pháp tiến hành CTTN trong Quân đội. Do nhiệm vụ chính
trị của các đơn vị trong Quân đội chủ yếu là huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu
và thực hiện các nhiệm vụ theo yêu cầu của cấp trên nên CTTN luôn phải
bám sát nhiệm vụ của đơn vị. CTTN phải hướng vào nâng cao chất lượng
huấn luyện, trình độ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu của các đơn vị.
Mặt khác, vì được tiến hành trong mơi trường qn sự, do đó, CTTN
trong Qn đội mang đậm dấu ấn của hoạt động quân sự; từ việc xác định
mục tiêu, nội dung nhiệm vụ cho đến hình thức, phương pháp tiến hành,… tất
cả đều được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, thống nhất. Đặc điểm này
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính ủy
(chính trị viên) và người chỉ huy các cấp đối với CTTN, nhưng lại có hạn chế
dễ làm cho hoạt động CTTN bị “qn sự hóa”, hoạt động theo mệnh lệnh,
khn mẫu, hành chính, thiếu tính sáng tạo.
Hai là, CTTN trong Quân đội được tiến hành theo cơ chế lãnh đạo,
chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất “Cấp ủy đảng lãnh đạo; chính ủy (chính trị
viên) trực tiếp chỉ đạo, quản lý, điều hành; cơ quan chính trị chỉ đạo, hướng
dẫn nghiệp vụ; các cơ quan chức năng phối hợp tổ chức; tổ chức Đoàn sáng
tạo thực hiện” [27, tr.58]. Thực hiện cơ chế này, cấp ủy các cấp ở đơn vị cơ
sở trực tiếp lãnh đạo về mọi mặt đối với CTTN trong đơn vị. Theo phân cấp,
chính ủy (chính trị viên) trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo, điều
hành CTTN trong đơn vị. Cơ quan Chính trị chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ
CTTN và hoạt động của Đoàn thanh niên ở cơ sở. Các cơ quan liên quan có
trách nhiệm phối hợp với cơ quan Chính trị cùng cấp tổ chức thực hiện kế
14
hoạch CTTN. Tổ chức Đồn ở đơn vị có trách nhiệm tổ chức thực hiện toàn
diện các nội dung CTTN.
Ba là, đối tượng của CTTN trong Quân đội chủ yếu là những đoàn viên
thanh niên được tuyển chọn kỹ về lý lịch chính trị, sức khỏe, trình độ văn hóa;
có tư duy năng động, giàu ước mơ hoài bão. Thanh niên trong Quân đội chủ
yếu là lực lượng hạ sĩ quan, binh sĩ thực hiện nghĩa vụ quân sự, học viên các
học viện, nhà trường, sĩ quan trẻ, đảng viên trẻ và thanh niên là công nhân
viên chức, lao động quốc phịng được tuyển chọn kỹ về lý lịch chính trị gia
đình, bản thân, trình độ văn hóa, sức khỏe,… qua các kỳ thi tuyển, đợt tuyển
quân hàng năm tại các địa phương, cơ quan xí nghiệp; có tuổi đời từ 18 đến
30. Do đặc thù hoạt động quân sự nên TNQĐ sống, sinh hoạt, học tập, ăn, ở,
… tập trung trong doanh trại Quân đội theo tổ chức biên chế của từng loại
hình đơn vị. Chính vì vậy, đã tạo cho họ tính thống nhất, tính kỷ luật, ý thức
tập thể cao. Đây chính là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh; đồng
thời, cũng chính là một đặc điểm thuận lợi khi tiến hành CTTN trong Quân
đội. Tuy nhiên, đoàn viên thanh niên làm nghĩa vụ quân sự theo Luật nên thời
gian tại ngũ không dài, quân số liên tục biến động; tuổi còn trẻ nên dễ bị tác
động bởi những lối sống tiêu cực, thực dụng, các tệ nạn xã hội,… do đó đây
cũng là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với công tác giáo dục, rèn luyện đoàn viên
thanh niên trong Quân đội hiện nay.
Bốn là, CTTN trong Quân đội được tiến hành trong điều kiện phần lớn
đội ngũ làm CTTN là cán bộ kiêm nhiệm, trẻ, khỏe, năng động, hăng hái
nhiệt tình, có năng khiếu nhưng chưa được đào tạo cơ bản qua các trường
Đoàn nên kiến thức và kinh nghiệm về CTTN còn hạn chế. Xuất phát từ đặc
thù của CTTN trong lực lượng vũ trang nên cán bộ CTTN hầu hết là kiêm
nhiệm. Họ rất đa dạng về chuyên môn, nghiệp vụ: có cán bộ chính trị, chỉ huy,
tham mưu, hậu cần, kỹ thuật,… Đội ngũ cán bộ làm CTTN trong Quân đội
chủ yếu là cán bộ trẻ, có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình trách
nhiệm trong cơng tác, có kiến thức tồn diện, có năng khiếu trong các hoạt
15
động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao. Tuy nhiên, do chưa được đào tạo cơ
bản tại các trường Đoàn hoặc qua các lớp tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu nên
còn hạn chế về kiến thức và kỹ năng CTTN. Mặt khác, do sự biến động của
quân số, yêu cầu biên chế tổ chức và việc điều động kiện tồn cán bộ hàng
năm, vì vậy đội ngũ cán bộ làm CTTN cũng thường xuyên biến động. Đặc
điểm này đặt ra yêu cầu phải xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
và luân chuyển cán bộ làm CTTN trong Quân đội cơ bản, lâu dài; đồng thời,
thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ để đội ngũ này nâng
cao trình độ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của CTTN Quân đội trong tình hình
mới.
- Vị trí, vai trị của thanh niên trong Qn đội
Cùng với quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội
nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, sự chỉ đạo
của Tổng cục Chính trị và Trung ương Đồn TNCS Hồ Chí Minh; thanh niên
Quân đội đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, từng bước khẳng định vị
trí, vai trị quan trọng của mình đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
dân tộc và Quân đội, thể hiện:
Thứ nhất, TNQĐ là lực lượng chủ yếu có ý nghĩa chiến lược trong xây
dựng Quân đội và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Lịch sử hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội
nhân dân Việt Nam cho thấy, ở mọi thời kỳ, trong Quân đội thanh niên luôn là
bộ phận đơng đảo nhất, với trên 10 nghìn tổ chức cơ sở Đoàn, cùng hàng chục
vạn thanh niên. Đặc biệt, ở các đơn vị cơ sở làm nhiệm vụ chiến đấu, huấn
luyện sẵn sàng chiến đấu, thanh niên chiếm tỷ lệ trên 80% quân số; ở cấp đại
đội, hầu hết cán bộ, chiến sĩ đều ở độ tuổi thanh niên. Sĩ quan trẻ và đảng viên
trẻ dưới 30 tuổi chiếm từ 30% đến 40% tổng số sĩ quan và đảng viên trong
toàn quân. Đây là lực lượng chủ yếu trong thực hiện các nhiệm vụ của Quân
đội, trong đó có nhiệm vụ xây dựng Quân đội và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc. Sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, từng
16
bước hiện đại hoàn thành nhanh hay chậm; nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có được
giữ vững hay khơng, phần lớn phụ thuộc vào sức mạnh của lực lượng TNQĐ.
Vì vậy, TNQĐ không chỉ là lực lượng chủ yếu, mà cịn là lực lượng có ý
nghĩa chiến lược trong xây dựng Quân đội cũng như trong thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, TNQĐ là đội quân xung kích trong thực hiện nhiệm vụ chính
trị của Quân đội.
Thanh niên Quân đội là lực lượng chủ yếu, trực tiếp thực hiện các
nhiệm vụ của Quân đội; là đội quân xung kích cách mạng trong thực hiện
những cơng việc khó khăn, đòi hỏi sự hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo.
Là một bộ phận của của thanh niên cả nước, vì vậy, TNQĐ cũng thơng qua
các hoạt động xung kích cách mạng để thể hiện và khẳng định vai trị của
mình. Bằng các chương trình hành động, các phong trào thi đua, các mơ hình
hoạt động phong phú, sinh động, phát huy sự sáng tạo của tập thể và từng cá
nhân, tạo nên sức mạnh tổng hợp, TNQĐ không chỉ góp phần thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chính trị của Qn đội mà cịn góp phần giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an tồn xã hội trên địa bàn đóng qn, tạo mơi trường thuận lợi để
các địa phương phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, TNQĐ là lực lượng quan trọng trong kế thừa và tiếp nối truyền
thống của Đảng, của dân tộc và Quân đội.
Mạch nguồn của lịch sử, cội nguồn sức mạnh của Đảng ta, dân tộc ta,
Quân đội ta là những giá trị truyền thống, những tinh hoa được bảo tồn, kế
thừa và phát huy trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Sự nghiệp xây dựng
Quân đội và củng cố quốc phòng, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên phát huy cả nguồn lực và
sức mạnh của truyền thống. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong thử thách khắc
nghiệt của chiến tranh hay trong điều kiện có hịa bình, độc lập, trên các mặt
trận, ở mọi thời kỳ, TNQĐ luôn giữ gìn và phát huy tốt các giá trị truyền
thống của dân tộc, của Đảng và Quân đội. Thực tế đã chứng minh, TNQĐ đã
17
đóng góp và hiến dâng cho Tổ quốc hàng triệu đồn viên thanh niên ưu tú,
nhiều đồng chí được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân khi còn ở lứa tuổi thanh niên; hàng chục ngàn Anh hùng liệt sĩ đã
cống hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân của mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc.
Đó là những tấm gương tiêu biểu, thể hiện bản chất tốt đẹp của thanh niên
Quân đội, đồng thời góp phần quan trọng trong giữ gìn và tơ thắm truyền
thống quý báu của dân tộc, của Đảng và Quân đội.
Thứ tư, TNQĐ là lực lượng dự bị hùng hậu của Đảng, lực lượng bổ
sung và kế tục trực tiếp đội ngũ cán bộ cho Quân đội.
Trải nghiệm trong môi trường Quân đội, thanh niên được tôi luyện và
trưởng thành về mọi mặt, được trau dồi về tư tưởng, khí phách, được hun đúc
những ước mơ, hồi bão lớn. Thơng qua các hoạt động của mình, TNQĐ có
cơ hội cống hiến và trưởng thành; đồng thời cũng chính từ các hoạt động ấy
để phát hiện, lựa chọn những thanh niên tiêu biểu, ưu tú bồi dưỡng tạo nguồn
phát triển Đảng. Đây là nguồn chủ yếu bổ sung cho Đảng, góp phần nâng cao
năng lực, sức chiến đấu cho Đảng bộ Quân đội. Mặt khác, TNQĐ cũng là lực
lượng bổ sung và kế tiếp đội ngũ cán bộ cho Quân đội thông qua thực tiễn
hoạt động, lựa chọn những thanh niên có thành tích xuất sắc, tiêu biểu, đủ
điều kiện cử đi đào tạo, đây chính là nguồn trực tiếp bổ sung, kế cận đội ngũ
cán bộ ở các đơn vị trong Quân đội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, được rèn luyện trong thực tiễn hoạt động
quân sự, TNQĐ đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành; nhiều cơng
trình, phần việc của TNQĐ không chỉ mạng lại giá trị, ý nghĩa trong xây
dựng lực lượng mà cịn có những đóng góp to lớn cho xã hội. Từ các phong
trào xung kích của TNQĐ đã có nhiều điển hình tiêu biểu như những sĩ
quan, chiến sĩ trẻ đạt thành tích cao trong các cuộc hội thao, hội diễn quân
sự, các cuộc thi sáng tạo trẻ; nhiều đồng chí đã lập những chiến cơng hiển
hách trong chiến đấu, trong phòng chống bão lũ, thiên tai,… Những kết quả
to lớn đó cho thấy, sự trưởng thành không ngừng của TNQĐ là cơ sở thực
18
tiễn quan trọng khẳng định TNQĐ đã và đang thực sự là đội quân dự bị tin
cậy của Đảng, là nguồn nhân lực quan trọng trực tiếp bổ sung, tạo nguồn xây
dựng đội ngũ cán bộ cho Quân đội.
1.1.2. Thực trạng công tác thanh niên Quân đội trước năm 2000
Nhằm khơng ngừng phát huy vai trị to lớn của TNQĐ trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng bộ Quân đội tiếp tục
lãnh đạo các đơn vị trong toàn quân xây dựng và kiện toàn tổ chức đồn, nêu
cao tinh thần xung kích cách mạng, vượt mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Trên thực tế,
CTTN trong Quân đội đã đạt được một số thành tựu nổi bật, đó là:
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy Quân sự Trung ương,
Bộ Quốc phịng, Tổng cục Chính trị, CTTN trong Qn đội đã luôn chú trọng
và đặt lên hàng đầu công tác giáo dục chính trị tư tưởng nhằm định hướng tư
tưởng, thống nhất nhận thức cho đoàn viên thanh niên trong tình hình mới.
Tập trung tuyên truyền giáo dục cho thanh niên về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, nhiệm vụ của Quân đội
và đơn vị… Đoàn thanh niên đã tổ chức mở nhiều đợt sinh hoạt chính trị, diễn
đàn rộng lớn trong toàn quân. Từ việc tổ chức nhiều hoạt động trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, phong trào đã thu hút sự quan tâm, tham gia của
đông đảo đồn viên thanh niên; góp phần xây dựng, củng cố niềm tin vào con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về mục tiêu và nhiệm vụ của TNQĐ,
làm phong phú thêm đời sống tinh thần, giữ vững trận địa tư tưởng, hạn chế
những ảnh hưởng tác động tiêu cực đối với thanh niên. TNQĐ đã triển khai có
hiệu quả các cuộc vận động, đợt sinh hoạt chính trị, diễn đàn thanh niên, nổi
bật như: “Thanh niên Quân đội mẫu mực xây dựng chính quy”, “Tuổi trẻ
Quân đội vững bước dưới cờ Đảng”, “Tuổi trẻ với truyền thống”,… Qua đó,
đã trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, tuyên truyền.
Cùng với tuổi trẻ cả nước, TNQĐ đã phát huy cao vai trò xung kích
sáng tạo của tuổi trẻ, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Tinh
19
thần đó, được cụ thể hóa bằng các phong trào thi đua xung kích của TNQĐ.
Từ phong trào thi đua “Ba nhất” (nhất về huấn luyện quân sự, rèn luyện kỹ
thuật; nhất về gương mẫu, kỷ luật; nhất về lao động và sản xuất) trong Quân
đội đã trở thành một trong ba ngọn cờ thi đua tiêu biểu của toàn miền Bắc
trong những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX. Đây cũng là niềm tự hào của
tuổi trẻ Qn đội, một thành tích vẻ vang góp phần tăng thêm niềm tin vào
thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng của đất nước. Phong trào thi đua “Ba
nhất” không chỉ đã lơi cuốn tất các các đơn vị trong tồn quân tham gia mà
còn lan tỏa ra nhiều địa phương, đơn vị trong cả nước.
Bước vào những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới đất nước, tiếp
nối phong trào “Ba nhất”, ngày 26/3/1987, Tổng cục Chính trị đã phát động
phong trào “Phấn đấu xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Đây là định hướng chính
trị, tư tưởng quan trọng, xuyên suốt của cơng tác Đồn và phong trào thanh
niên Qn đội, là mục tiêu phấn đấu, đồng thời là nguồn cổ vũ lớn lao và là
niềm tự hào chính đáng của cán bộ, đoàn viên, thanh niên toàn quân. Phong
trào đã được cụ thể hóa bởi các mơ hình “Chi đồn văn hóa mới” với 3 u
cầu: “Đẹp người, đẹp doanh trại, đẹp tình quân dân” phát triển thành “3 đỉnh
cao Quyết thắng” là một nỗ lực phấn đấu không ngừng của tuổi trẻ Quân đội.
Kết quả của phong trào đã thu hút hàng vạn lượt đoàn viên thanh niên tham
gia, với những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xây dựng Quân đội, tạo
điều kiện thuận lợi và môi trường văn hóa lành mạnh để TNQĐ liê tục cống
hiến và trưởng thành.
Năm 1997, tại Đại hội Đoàn toàn quân lần thứ VII, Tổng cục Chính trị
đã phát động phong trào thi đua “Giành 3 đỉnh cao Quyết thắng” với: Lý
tưởng đẹp - Trách nhiệm cao; Học tập tốt – Hành động giỏi; Đoàn kết tốt –
Kỷ luật nghiêm”. Phong trào đã tạo động lực và giải pháp đột phá xây dựng
được nhiều mơ hình, điển hình tiên tiến, động viên, cổ vũ thanh niên trong
toàn quân thi đua lập cơng trên các lĩnh vực, góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của Quân đội. Thực hiện đúng yêu cầu đã xác định, phong
20
trào thi đua đã hướng về cơ sở, vì cơ sở; xuất phát từ thanh niên, vì thanh niên
và của thanh niên. Chính vì vậy, phong trào đã nhanh chóng phát triển cả bề
rộng lẫn chiều sâu; tập trung được mọi nỗ lực của tổ chức Đoàn và tuổi trẻ
toàn qn xung kích thực hiện những việc khó, việc mới, các cơng trình, phần
việc có ý nghĩa chính trị sâu sắc.
Trong lãnh đạo, Đảng bộ Quân đội luôn xác định thanh niên là lực
lượng chủ yếu, nòng cốt trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Qn
đội. Vì vậy, để CTTN đạt hiệu quả, phát huy tốt vai trò của thanh niên, Đảng
bộ Quân đội xác định phải quan tâm xây dựng và kiện toàn tổ chức Đoàn các
cấp vững mạnh.
Thực hiện chủ trương trên, Đảng bộ Quân đội đã thường xuyên định
hướng nội dung, chương trình hoạt động đối với CTTN. Quan tâm chỉ đạo
kiện toàn các tổ chức Đoàn từ cơ sở đến toàn quân bảo đảm đủ về số lượng,
đáp ứng yêu cầu cao về chất lượng; thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn,
bồi dưỡng nghiệp vụ CTTN cho đội ngũ cán bộ làm CTTN toàn quân. Đội
ngũ cán bộ làm CTTN trong Quân đội đã ln phát huy tốt vai trị là người
“thủ lĩnh” trong tổ chức các hoạt động xung kích cách mạng của thanh niên.
Đề xuất được nhiều sáng kiến có giá trị thiết thực trong việc đưa Nghị quyết
của Đảng đến với thanh niên; tham mưu cho cấp ủy các cấp đề ra những chủ
trương, biện pháp lãnh đạo CTTN của đơn vị có hiệu quả. Hàng năm, có
khoảng 90% cán bộ Đồn được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cơng tác.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động tham quan, làm điểm, trao đổi rút kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn để bồi dưỡng cán bộ. Thực hiện nghiêm các chế
độ, nền nếp sinh hoạt Đoàn; tổ chức xét, phân loại tổ chức Đoàn và đoàn viên
thanh niên chặt chẽ, đúng quy trình. Các tổ chức Đồn đã chủ động tiếp thu,
kịp thời đề xuất nhiều ý kiến phản ánh nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của
thanh niên lên cấp trên. Tổ chức nhiều hoạt động phối hợp với tổ chức Đoàn
21
địa phương nơi đóng quân, góp phần xây dựng cơ sở chính trị, củng cố quốc
phịng - an ninh, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội trên địa bàn đóng qn.
Bên cạnh đó, tổ chức Đồn các cấp trong Qn đội đã tích cực làm tốt
cơng tác tun truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về Đảng cho đồn viên
thanh niên. Tổ chức cho thanh niên đóng góp ý kiến cho các tổ chức Đảng
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương sáu lần 2 (khóa VIII), nhất là những
vấn đề có liên quan đến thanh niên và CTTN. Nhận thức, trách nhiệm của tổ
chức Đoàn và đoàn viên thanh niên tham gia xây dựng Đảng ngày càng được
nâng cao. Duy trì nền nếp việc tổ chức cho thanh niên tham gia đóng góp ý
kiến, phê bình cán bộ, đảng viên, tổ chức cơ sở đảng theo định kỳ. Thông qua
các phong trào thi đua, các hoạt động xung kích cách mạng, thanh niên đã
trực tiếp góp phần hiện thực hóa chủ trương của Đảng trong cuộc sống. Phần
lớn TNQĐ đều có nguyện vọng phấn đấu để trở thành đảng viên của Đảng.
Theo kết quả điều tra cho thấy, “đa số thanh niên có nhu cầu và động cơ phấn
đấu vào Đảng đúng đắn; có 75% số người được hỏi cho rằng vào Đảng là để
cống hiến nhiều hơn cho Quân đội, cho sự nghiệp cách mạng của Đảng; 25%
cho đó là vinh dự của bản thân và gia đình” [76, tr.35].
Thơng qua các hoạt động của thanh niên đã kịp thời phát hiện, bồi
dưỡng, lựa chọn, giới thiệu những đoàn viên thanh niên ưu tú vào nguồn phát
triển Đảng. Số lượng đoàn viên ưu tú được giới thiệu và kết nạp vào Đảng
ngày càng tăng (trung bình mỗi năm tăng từ 3 đến 4%). Trước năm 2000,
“trung bình mỗi năm các tổ chức Đoàn trong toàn quân đã bồi dưỡng, giới
thiệu kết nạp vào Đảng cho khoảng hơn 9.000 đảng viên; chiếm trên 85%
tổng số đảng viên mới kết nạp của tồn qn” [76, tr.31], trực tiếp góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cho Đảng bộ Quân đội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trước năm 2000,
trong lãnh đạo CTTN Quân đội vẫn cịn bộc lộ một số hạn chế, đó là:
Thứ nhất, công tác tuyên truyền giáo dục thanh niên ở một số đơn vị
chưa được đầu tư quan tâm đúng mức, thiếu chiều sâu, thiếu những cách làm
22
mới hấp dẫn, cuốn hút thanh niên. Sinh hoạt Đoàn cịn đơn điệu; tính chiến
đấu trong cơng tác tư tưởng, cơng tác giáo dục của Đồn chưa cao. “Kiến thức
và năng lực làm công tác giáo dục của một số cán bộ làm CTTN còn hạn chế.
Nhận thức của một bộ phận thanh niên về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong điều kiện mới chưa sâu sắc” [76, tr.33]; còn biểu hiện mơ hồ trong
nhận diện kẻ thù. Ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật, phẩm chất đạo đức, lối
sống của một bộ phận thanh niên cịn hạn chế; có biểu hiện chạy theo lối sống
thực dụng, ý thức tự giác chưa cao, ngại học tập, ngại tu dưỡng rèn luyện; tình
hình vi phạm kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước trong thanh niên chuyển
biến chậm và chưa vững chắc, còn vụ việc vi phạm kỷ luật nghiêm trọng làm
ảnh hưởng đến bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội.
Thứ hai, phong trào thanh niên có sự phát triển nhưng chưa đồng đều,
thiếu tính bền vững; nội dung còn dàn trải, chỉ tiêu thi đua chưa sát với đặc
điểm, nhiệm vụ của đơn vị, nhất là trong rèn luyện kỷ luật, xây dựng nếp sống
chính quy. Mơ hình, điển hình tiên tiến, đỉnh cao trên các lĩnh vực chưa thật
sự nổi bật. Việc đầu tư nghiên cứu, phát hiện xây dựng điển hình tiên tiến,
nhân rộng mơ hình tiêu biểu cịn chậm và chưa liên tục.
Thứ ba, thực hiện vai trò tự chủ, tự quản của tổ chức đồn ở đơn vị cơ
sở cịn nhiều hạn chế; khả năng đại diện quyền lợi và tác động ảnh hưởng của
tổ chức Đoàn đối với thanh niên chưa rộng rãi, chưa sâu sắc.
Thứ tư, hoạt động phối hợp với các tổ chức Đoàn địa phương ở một số
đơn vị chưa hiệu quả; triển khai thực hiện chương trình phối hợp kết nghĩa
chưa đồng bộ. Chế độ nắm tình hình, sơ kết rút kinh nghiệm, trao đổi thông
tin giữa đơn vị và địa phương chưa thường xuyên, nội dung, hình thức hoạt
động cịn đơn điệu, hiệu quả chưa cao.
Thứ năm, về nhận thức và hiệu quả lãnh đạo của một số cấp ủy, chỉ huy
đơn vị về CTTN còn hạn chế. Chưa làm tốt việc quán triệt, cụ thể hóa các
nghị quyết của Đảng về CTTN thành chỉ thị, nghị quyết, quy chế lãnh đạo, chỉ
đạo CTTN ở cấp mình; phương pháp, tác phong cơng tác của một số cán bộ
23
thiếu sâu sát, tỉ mỉ, công tác kiểm tra chưa thường xuyên; còn biểu hiện nặng
về sử dụng, chưa thật coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm CTTN.
“Một số ít cấp ủy đảng, chỉ huy đơn vị chưa nhận thức đầy đủ về vai trị, vị trí
của thanh niên và CTTN” [76, tr.35]; do đó có lúc chưa thực sự quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện cho các hoạt động của thanh niên.
Những hạn chế trên đặt ra yêu cầu khách quan cần phải tăng cường hơn
nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Quân đội đối với CTTN nhằm phát
huy tốt hơn vai trò của thanh niên Quân đội đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân
đội và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong những năm 2000 đến 2010.
1.1.3. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về
công tác thanh niên từ năm 2000 đến năm 2010
Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về vai trị của thanh niên và CTTN, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn quan tâm, nhận thức đúng và đánh giá cao vai trị, vị trí của thanh niên
và CTTN đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trong những năm từ 2000
đến 2010, Đảng xác định chủ trương lãnh đạo CTTN được thể hiện trên
những nội dung như sau:
* Quan điểm chỉ đạo
Thứ nhất, thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của
đất nước, là một “lực lượng xã hội hùng hậu”, là đội quân xung kích cách
mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là lớp người thừa kế trung
thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng; “một trong những nhân tố quyết định
sự thành bại của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội” [23, tr.41]. Thanh niên được đặt ở vị trí
trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con
người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo
đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước.
Thứ hai, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng và phát triển tồn diện về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc
24
làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trị xung kích của thanh
niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “đào tạo thanh niên thành
lớp người “vừa hồng, vừa chuyên” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; trong đó, Đồn TNCS Hồ
Chí Minh, gia đình, nhà trường và xã hội có vai trị quan trọng [23, tr.42]
Thứ ba, Đảng lãnh đạo CTTN và trực tiếp lãnh đạo Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh. “Xây dựng Đồn vững mạnh là nội dung quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước” [23, tr.42].
Đảng đề ra đường lối, chủ trương định hướng cho thanh niên hành động; xác
định các chuẩn mực cho thanh niên phấn đấu; xây dựng các tấm gương điển
hình tiêu biểu cho thanh niên học tập và noi theo.
Thứ tư, Nhà nước quản lý thanh niên và CTTN; thể chế hóa đường lối,
chủ trương của Đảng về thanh niên và CTTN thành pháp luật, chính sách,
chiến lược, chương trình hành động và cụ thể hóa trong các chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh hằng năm của
các cấp, các ngành.
Thứ năm, sự nỗ lực học tập, rèn luyện và “phấn đấu không ngừng của
thanh niên theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng để xây
dựng thế hệ thanh niên thời kỳ mới” [23, tr.42- 43]. Mở rộng mặt trận đoàn kết,
tập hợp thanh niên là nội dung quan trọng của cơng tác Đồn để giáo dục, bồi
dưỡng, động viên và phát huy vai trò thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
* Mục tiêu
Để hiện thực hóa các quan điểm chỉ đạo trên, Đảng đã định hướng mục
tiêu chủ yếu của CTTN đến năm 2010 như sau:
Nâng cao nhận thức chính trị, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh
niên. Tập trung giáo dục, định hướng, cổ vũ thanh niên thực hiện có hiệu quả
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tạo chuyển biến
thực sự trong đạo đức, lối sống và hành động của thanh niên.
25