MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC
Cơ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN sự VÀ TÔ CHỨC, cơ QUAN HỮU
QUAN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN sự.............................................................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điêm và ý nghĩa của môi quan hệ giữa các cơ quan thi
hành án dân sự và tố chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự................... 7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành án dân sự................................................ 7
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với
các tổ chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự.......................................... 15
1.1.3. Ý nghĩa của mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các tổ
chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự................................................... 22
1.2. Cơ sở của việc quy định về mối quan hệ giữa các cơ quan thi hành án dân
sự và tổ chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự...................................... 25
1.3. Nội dung và nguyên tắc thực hiện mối quan hệ giữa các cơ quan thi hành
án dân sự và tổ chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự.......................... 31
1.3.1. Nội dung mối quan hệ giữa giữa cơ quan thi hành án dân sự với các tổ
chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự................................................... 31
1.3.2. Nguyên tắc thực hiện mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với
các tổ chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự......................................... 34
1.4. Điều kiện đảm bảo hiệu quả thực hiện mối quan hệ giữa các cơ quan thi
hành án dân sự và tổ chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự................. 36
1.4.1. Các quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân
sự với các tổ chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự.............................. 36
1.4.2. Trình độ, năng lực chun mơn, kiến thức xã hội, kỹ năng giao tiếp và
tác phong làm việc của Chấp hành viên................................................................... 39
1.4.3 Nhận thức của tô chức, cơ quan hữu quan vê công tác thi hành án dân sự.... 41
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC cơ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN sự VÀ TỐ
CHƯC, Cơ quan Hữu quan trong thi hành Án dân sự.................. 46
2.1. Quy định về mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan ra
bản án, quyết định dân sự......................................................................................... 46
2.2. Quy định về mối quan hệ của cơ quan thi hành án dân sự với Viện kiểm
sát............................................................................................................................. 51
2.3. Quy định về mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với ủy ban nhân
dân các cấp............................................................................................................... 52
2.4. Quy định môi quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với Công an nhân
dân và cơ quan điều tra hình sự................................................................................ 58
2.5. Quy định về mối quan hệ với cơ quan chuyên môn......................................... 66
2.5.1. Mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan đăng ký tài
sản, đăng ký giao dịch bảo đảm............................................................................... 66
2.5.2. Mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan tài chính.............. 69
2.5.3. Mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với Kho bạc nhà nước, Chi
nhánh Ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng............................................... 70
2.5.4. Mối quan hệ của cơ quan thi hành án dân sự với Quản tài viên và doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tổ chức thực hiện việc định giá, thanh lý tài
sản............................................................................................................................. 76
2.5.5. Môi quan hệ của cơ quan thi hành án dân sự với văn phòng thừa phát lại.... 79
2.6. Mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhân dân và cá nhân khác
liên quan................................................................................................................... 81
CHƯƠNG 3 THỰC TIỀN THựC HIỆN VÀ NHŨNG GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THựC HIỆN MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC cơ
QUAN THI HÀNH ÁN DÂN sự VÀ TỔ CHÚC, cơ QUAN HỮU QUAN
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN sự......................................................................... 83
3.1. Thực tiên thực hiện môi quan hệ giữa các cơ quan thi hành án dân sự và tô
chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự................................................... 83
3.1.1. Những kết quả đạt được................................................................................. 85
3.1.2. Hạn chế, vướng mắc....................................................................................... 88
3.1.3. Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc.......................................................... 91
3.2. Những giải pháp nhăm nâng cao hiệu quả thực hiện môi quan hệ giữa các
cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân
sự.............................................................................................................................. 94
3.2.1. Phương hướng của giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện môi quan hệ
giữa giữa cơ quan thi hành án dân sự với các tổ chức, cơ quan hữu quan trong
thi hành án dân sư..................................................................................................... 94
3.2.2. Các giãi pháp nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ giữa giữa cơ
quan thi hành án dân sự với các tổ chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án
dân sự......................................................................................................................100
KẾT LUẬN............................................................................................................. 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 114
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thi hành án dân sự là hoạt động đưa các bản án, quyết định của tòa án, các
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực
tế. Đây là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng, bảo đảm cho bản án,
quyết định cùa Tòa án được chấp hành nghiêm chỉnh. Bản án, quyết định của
Tồ án dù có được xét xử nghiêm minh đến đâu, cơng việc hồ giải dù có
được làm tốt đến đâu, song nếu khơng đựợc thi hành triệt để thì tính nghiêm
minh của pháp luật chưa cao. Do vậy thi hành án dân sự có vai trị quan trọng
trong hoạt động tố tụng nói chung và q trình giải quyết vụ án nói riêng;
thơng qua hoạt động thi hành án, bản án, quyết định của tòa án, của các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ được thi hành, bảo đảm lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Điều 106 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Bản án, quyết định của Tịa án
nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tô chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành ”
đưa đến thực hiện đường lối đồi mới đến nay với chủ trương, định hướng
quan trọng tạo cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật; đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan thi hành án dân sự; tăng cường pháp chế trong hoạt
động thi hành án dân sự, ngày 14/11/2008, lần đầu tiên Quốc hội đã thơng qua
Luật thi hành án dân sự (có hiệu lực từ ngày 01/7/2009). Nghị định
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 về việc hướng dẫn Luật thi hành án dân sự,
Thông tư liên tịch số 05/2016/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày
29/5/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao quy định hoạt động của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự;
Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC ngày 10/6/2016 của Bộ Tư
pháp, Bộ tài chính hướng dẫn bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi
hành; Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN
1
ngày 14/01/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài Chính, Bộ Lao động Thương binh
và Xã hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc cung cấp thông tin
về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án và thực hiện phong tòa,
khấu trừ để thi hành án dân sự; Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTPBCA ngày 30/03/2012 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an về việc quy định cụ thể
phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong cơ quan thi hành án dân sự, Thông tư liên
tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC ngày 10/6/2016 của Bộ tư pháp, Bộ Tài
chính về hướng dẫn bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành...
Trên cơ sở đó, việc tổ chức thi hành Luật thi hành án dân sự đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng, nhận thức của các cơ quan, tố chức, cá nhân và các
tầng lớp nhân dân về ý nghĩa, vai trị của cơng tác thi hành án dân sự được
nâng lên rõ rệt, vị thế của cơ quan thi hành án dân sự được nâng lên một
bước... và nhờ đó, kết quả cơng tác thi hành án dân sự đã có những chuyển
biến tích cực và đạt kết quả khả quan.
Thực tiễn công tác thi hành án dân sự thời gian qua cho thấy ràng bên cạnh
những kết quả đạt được thì cơng tác thi hành án dân sự cũng còn những tồn
tại, hạn chế nhất định. Nhà nước chưa tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho
cơ quan thi hành án dân sự nói chung và chấp hành viên - người được phân
công trực tiếp giải quyết việc thi hành án nói riêng để chủ động thực thi nhiệm
vụ thi hành các Bản án, Quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan
tài phán khác thông qua Quyết định thi hành án một cách có hiệu quả. Việc tổ
chức thi hành án phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp của các ngành, các cấp có
liên quan như chính quyền địa phương, cơ quan công an và một số cơ quan
chuyên môn khác như tài ngun mơi trường, văn phịng nhà đất... Chấp hành
viên chưa có đủ các điều kiện về pháp luật đề tự mình chủ động thi hành triệt
đe các Bản án, Quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Điều này là một trong
những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của công tác thi
hành án dân sự cũng như sự mong đợi của xã hội.
Mặt khác, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
mình các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác cũng có trách nhiệm phối hợp hỗ
2
trợ giúp đỡ cơ quan thi hành án và châp hành viên trong việc thi hành án theo
các quy định của pháp luật. Do đó, hình thành mối quan hệ giữa cơ quan thi
hành án dân sự, chấp hành viên với các cơ quan, tổ chức hũu quan và cá nhân
khác là đòi hỏi yêu cầu khách quan hiện nay.
Tuy nhiên, việc phối hợp trong thi hành án dân sự trên thực tế đôi khi vần
chưa chặt chẽ và mang tính đồng bộ, nhiều nơi sự phân cơng, phổi hợp vẫn
chưa được chú trọng dẫn đến hiệu quả công tác thi hành án dân sự chưa cao,
vẫn còn gặp phải những vướng mắc khó khăn nhất định trong q trình thực
hiện nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên.
Với vai trò như vậy, công tác thi hành án dân sự không chi là công việc của
riêng cơ quan thi hành án dân sự mà nó là trách nhiệm chung của tồn xã hội,
địi hỏi mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đều phải nâng cao trách
nhiệm và tích cực phối hợp tốt để cùng hoàn thành nhiệm vụ chung.
Hiện nay việc tổ chức thi hành các quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp
luật, bão đảm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho thấy, nhiều đương sự có điều kiện
thi hành án nhưng vẫn cố tình chây ỳ, khơng tự nguyện thi hành án, thậm chí
có trường hợp cịn chống đối quyết liệt. Trong nhiều trường hợp, để giải quyết
việc thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải tiến hành nhiều thủ tục như:
thông báo thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, thuyết phục người phải
thi hành án tự nguyện thi hành, thỏa thuận thi hành án, áp dụng biện pháp bảo
đảm, tổ chức cưỡng chế... dẫn đến việc tồ chức thi hành án bị kéo dài. Việc
phối hợp với các cơ quan, tồ chức, ban ngành liên quan trong thi hành án dân
sự là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của công tác thi
hành án dân sự.
Xuất phát từ tình hình thực tế của ngành thi hành án nói chung và cùa chấp
hành viên nói riêng, với ý nghĩa, vai trị của công tác phối hợp trong thi hành
án dân sự, để việc tố chức thi hành án các quyết định, bản án theo quy định
của pháp luật có hiệu quả nhất thì việc chọn đề tài "Mối quan hệ giữa cơ
quan thi hành án và cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự' là cấp
3
thiết và có ý nghĩa thực tiễn trước yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác thi hành
án dân sự hiện nay, hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hiện hành
về thi hành án dân sự, địa vị pháp lý của chấp hành viên cũng như trách nhiệm
của các cơ quan, tố chức, cá nhân liên quan phối hợp với cơ quan thi hành án
trong việc thi hành án dân sự. Góp phần đẩy nhanh tiến độ phân loại hồ sơ,
giải quyết dứt điểm việc thi hành án.
2. Mục đích nghiên cứu:
Xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động thi hành án dân sự, nên trong thi
hành án dân sự luôn xuất hiện và gặp phải những khó khăn, vướng mắc vượt
quá thẩm quyền giải quyết của cơ quan thi hành án dân sự nói chung và của
chấp hành viên nói riêng. Do đó trong thi hành án dân sự, sự phối họp tích
cực, chủ động và hiệu quả của các cơ quan hữu quan sẽ nhàm tháo gỡ được
những vướng mắc, khó khăn trong thi hành án và thực thi nhiệm vụ tổ chức
thi hành bản án, quyết định, là yếu tố cần được chú trọng quan tâm và triển
khai thực hiện.
Chính vì thế, mục tiêu của đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực
tiễn cho việc đưa ra các giải pháp trong việc phối họp giữa chấp hành viên và
tổ chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự là cần thiết và mang tính
thực tế.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đẻ có thể đạt được các mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, địi hỏi luận
vãn phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, luận văn đưa ra các phân tích, đánh giá tổng quan tình hình
nghiên cứu pháp luật về thi hành án dân sự, mối quan hệ giữa cơ quan thi
hành án dân sự với các tổ chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự.
Thứ hai, luận văn đánh giá thực trạng pháp luật thi hành án dân sự đe đưa
ra những điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật thi hành án dân sự; và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về việc phối
hợp trong công tác thi hành án dân sự ở Việt Nam để phân tích những nguyên
nhân và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quá thi hành án dân sự.
4
Thứ ba, luận văn đê xuât các giải pháp vê việc phơi hợp giữa châp hành
viên nói riêng, cơ quan thi hành án dân sự nói riêng với các cơ quan hữu quan
trong thi hành án dân sự, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác thi
hành án dân sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài:
Đe tài tập trung nghiên cứu lý luận và các quy định của pháp luật về việc
phối hợp giữa cơ quan thi hành án nói chung, chấp hành viên nói riêng với các
cá nhân, tổ chức, cơ quan hữu quan trong công tác thi hành án dân sự theo quy
định của Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành trong hệ
thống thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng việc phối hợp
trong thi hành án dân sự hiện nay và rút ra những giải pháp hoàn thiện pháp
luật thi hành án dân sự nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự trong thời
gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Luận văn được thực hiện trên cơ sớ quan điểm cua Chú nghĩa Mác - Lênin,
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điềm của Đảng, Nhà
nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh, phương pháp tổng hợp nhằm thông qua thực tiễn để đánh giá
thực trạng và đưa ra quan điểm, đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu
quả việc tổ chức thi hành án.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đe tài mong muốn làm sáng tở giữa lý luận và thực tiễn nhằm tăng cường
và nâng cao hiệu quả đối với việc phối hợp trong công tác thi hành án dân sự
giữa cơ quan thi hành án dân sự nói chung, chấp hành viên nói riêng với các
tố chức, cá nhân, cơ quan hữu quan liên quan.
Kết quả nghiên cún luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo phục vụ cho
việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự,
góp phần đẩy nhanh tiến độ phân loại hồ sơ, giải quyết dứt điểm việc thi hành
5
án.
7. Cơ câu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án và các
cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng về mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án và các cơ
quan hữu quan trong thi hành án dân sự hiện nay.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác phối
họp giữa cơ quan thi hành án và các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân
sự.
6
CHƯƠNG 1 NHỮNG VÁN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ MỐI QUAN HỆ GIỮA
CÁC Cơ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN sự VÀ TỞ CHỨC, cơ QUAN
HỮU QUAN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN sự
1.1. Khái niệm, đặc điếm và ý nghĩa của mối quan hệ giữa các cơ quan
thi hành án dân sự và tổ chức, CO’ quan hữu quan trong thi hành án dân
sự
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành án dân sự
•
•
•
Trong đời sống xã hội, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự cỏ tính bắt
buộc chung do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và
được Nhà nước bảo đảm thực hiện, vì vậy pháp luật là cơ sở cho hành vi xử
sự của các chủ thể và đòi hỏi các chủ thể phải thực hiện các hành vi họp
pháp - phù họp với pháp luật, có ích cho xã hội. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khác nhau, trong xã hội vẫn có những chủ thế vi phạm pháp luật, xâm
hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ (lợi ích của Nhà nước, xã
hội, tổ chức và cá nhân) hoặc giữa các chủ thể có thể phát sinh các tranh chấp.
Khi hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và
khi các tranh chấp phát sinh mà các bên không tự giải quyết được thì việc xét
xử, giải quyết tranh chấp được giải quyết bởi các cơ quan, tồ chức có thẩm
quyền (theo quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam, hoạt động xét xử,
giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh) và kết quả của việc xét xử, giải quyết tranh
chấp được thể hiện là các bản án, quyết định, trong đó xác định cụ thể trách
nhiệm pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể (hình phạt, chế tài, nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại ...).
về nguyên tắc, các bản án, quyết định chỉ thể hiện kết quả về mặt pháp lý,
nếu không được thực thi trên thực tế thì khơng đạt được mục đích cuối cùng
của hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp. Do đó, đế đảm bảo quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể trên thực tế thì các bản án, quyết định phải được thi
hành nghiêm chỉnh theo trình tự, thủ tục pháp luật về thi hành án. Hoạt động
thi hành án có thể được nghiên cứu, tiếp cận ớ nhiều góc độ khác nhau nhưng
7
theo nghĩa chung nhât có thê quan niệm: Thỉ hành án là hoạt động của cơ
quan nhà nước có thâm quyền thực hiện các thủ tục, trình tự được pháp luật
quy định nhằm đảm hảo đầy đủ, kịp thời quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tô
chức theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành.
Thuật ngữ “Thi hành án dân sự” từ lâu đã trở thành đề tài tranh luận sôi nổi
trên diễn đàn khoa học pháp lý. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Thi hành” được
hiếu là: "Làm cho thành có hiệu lực điều đã được chính thức quyết định" [15,
tr. 903]; “án” ở đây là bản án, quyết định, hay văn bản pháp lý thể hiện phán
quyết của Tịa án hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Phán quyết
của những cơ quan này có thể có hoặc khơng mang tính quyền lực nhà nước
nhưng đều yêu cầu các chủ thể của pháp luật phải tuân thủ đầy đủ. Tuy nhiên,
không phải lúc nào phán quyết của cơ quan giải quyết vụ việc cũng được bên
có nghĩa vụ nghiêm chỉnh chấp hành bởi nó liên quan đến tính tự giác, thái độ,
quyền lợi và khả năng thi hành của những đối tượng này. Neu khơng được
thực thi thì tính áp đật trong những phán quyết này mới chỉ thể hiện trên văn
bản giấy tờ, hay nói cách khác là những điều đã được chính thức quyết định
chưa được làm cho có hiệu lực. Chính vì vậy “Thi hành án” có thể hiểu là việc
thực hiện để đảm bảo hiệu lực thực tế của Bản án, Quyết định của Tịa án
hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
về bản chất, thi hành án là quá trình thực tế hóa các quyền và nghĩa vụ
theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, tuy nhiên, tùy theo tính chất cùa
bản án, quyết định thì việc tổ chức thi hành án được thực hiện theo các trình
tự, thủ tục có tính đặc thù nhất định. Theo quy định pháp luật hiện hành của
Việt Nam, các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành được thi hành theo trình
tự, thủ tục thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và thi hành án hành chính,
trong đó cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên có thẩm quyền tồ chức
thi hành phần "dân sự" trong các bản án, quyết định theo trình tự, thủ tục thi
hành án dân sự là: bản án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu tài sản,
truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết
định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết
8
định hành chính của Tịa án, qut định của Tịa án giải quyêt phá săn, quyêt
định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên
quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài
thương mại (Điều 1, Luật thi hành án dân sự).
Với phạm vi thi hành phần dân sự như trên nên thi hành án dân sự có
những nguyên tắc đặc thù nhất định so với thi hành án hình sự, thi hành án
hành chính. Ví dụ như: ngun tắc tơn trọng quyền tự định đoạt và sự thỏa
thuận của đương sự; khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án; nguyên
tắc nhân đạo trong thi hành án dân sự; việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế
chỉ khi đương sự không tự nguyện thi hành án; bảo đảm sự phối hợp giữa các
cơ quan với việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, cá nhân...Nhũng
nguyên tắc này cũng là cơ sở cho việc quy định trình tự, thủ tục tổ chức thi
hành án phù hợp với tính chất, đặc điểm của hoạt động thi hành án dân sự. Vì
vậy, từ những khái qt, phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm: thi hành
án dân sự là hoạt động đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định
về dân sự có hiệu lực thi hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
Mặc dù đã có nhiều khoa học nghiên cứu về lĩnh vực thi hành án dân sự
nhung vẫn chưa cỏ sự thống nhất quan điểm về khái niệm thi hành án dân sự.
Xoay quanh vấn đề này, dưới góc độ khoa học pháp lý vẫn cịn có nhiều quan
điểm khác nhau về khái niệm thi hành án dân sự. Ý kiến thứ nhất cho rằng thi
hành án dân sự là một hoạt động của tố tụng dân sự [30, tr. 11], Ý kiến thứ hai
cho rằng thi hành án dân sự là một dạng của hoạt động hành chính. Ý kiến thứ
ba cho rằng thi hành án là một dạng hoạt động hành chính - tư pháp vì thi
hành án dân sự là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành quyết định của
Tòa án - cơ quan tư pháp [31, tr. 10].
Quan điềm thứ nhất: thi hành án dân sự là một giai đoạn của quá trình tố
tụng, diễn ra ngay sau giai đoạn xét xử, được pháp luật tổ tụng quy định. Thi
hành án dân sự là hoạt động bảo vệ pháp luật, phù hợp với hoạt động của tố
tụng tư pháp, với lý do cơ bản là có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án
dựa trên cơ sở và kết quả của công tác xét xử. “Xét xử và thi hành án là hai
9
mặt thơng nhât của q trình bảo vệ lợi ích của đương sự”; Khơng có hoạt
động thi hành án thì mọi phán quyết của Tòa án cũng như các các quyết định
khác chỉ là trên văn bản giấy. Hoạt động thi hành án gắn liền với quá trình xét
xử và chịu sự chi phối của quá trình xét xử nên thi hành án khơng thể tách ra
khởi q trình tố tụng mà phải coi nó là giai đoạn tố tụng.
Quan điểm thứ hai: thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp vì thi hành án
dân sự bảo đảm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định
khác theo quy định pháp luật. Quan điểm này xuất phát từ nguyên lý “gốc”
của hoạt động thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định
khác theo quy định của pháp luật và khi thực hiện nhiệm vụ cơ quan thi hành
án chỉ tuân theo pháp luật và thi hành theo đúng nội dung bản án, quyết định
của Tòa án. Hoạt động hành chính trong lĩnh vực thi hành án chẳng qua cũng
chỉ để đảm bảo phục vụ cho chức năng chính của cơ quan thi hành án là tố
chức thi hành án theo quy định cùa pháp luật.
Quan điểm thứ ba cho rằng, thi hành án dân sự là hoạt động hành chính tư pháp, thi hành án dân sự khơng thể là giai đoạn của tố tụng bởi vì thi hành
án dân sự có mục đích khác với bản chất và mục đích của tố tụng, mục đích
của tố tụng là xác định các chứng cứ tìm ra sự thật của các vụ việc đã diễn ra
để trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết theo đúng các quy định của pháp luật.
Với mục đích đó, tồn bộ quá trình tố tụng diễn ra theo một quy trình hết sức
chặt chẽ và phải bảo đảm các nguyên tắc như bình đẳng, cơng khai, dân chủ,
tơn trọng quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng... và khi đã có phán
quyết của Tịa án thì q trình tố tụng kết thúc. Trong khi đó, thi hành án dân
sự là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định
của Tòa án, và quyết định khác do luật định đã có hiệu lực thi hành. Vì vậy,
có thể nói tố tụng là q trình đi tìm chân lý, cịn thi hành án dân sự là q
trình thực thi chân lý bằng cơng lý. Q trình này có thế do chính các chù thể
tự giác thi hành án hoặc do cơ quan có thẩm quyền buộc các chủ thể đó phải
thi hành án theo đúng nội dung bản án, quyết định. Các quan điểm trên mỗi
quan điểm đều có cơ sở khoa học riêng đề lý giải nhưng theo quan điểm cá
10
nhân học viên đông ý với quan điêm cho răng thi hành án dân sự là hoạt động
hành chính - tư pháp vì các lẽ sau:
Thứ nhất, đây khơng phải là hoạt động tố tụng, không phải là giai đoạn
cuối cùng của q trình tố tụng, khơng phải là giai đoạn tố tụng và không chỉ
chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng mà chịu sự điều chỉnh chủ yếu của
pháp luật về thi hành án dân sự;
Thứ hai, xét về cơ cấu tổ chức hiện nay của các cơ quan thi hành án dân sự
được tổ chức theo ngành dọc trực thuộc do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý, cơ
quan thi hành án dân sự ở trung ương là Tổng cục thi hành án dân sự trực
thuộc Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư
pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự và thi hành án hành
chính trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý chuyên ngành về thi hành án
dân sự và thi hành án hành chính theo quy định của pháp luật, cơ quan thi
hành án dân sự ở địa phương bao gồm Cục thi hành án dân sự tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương và các Chi cục thi hành án dân sự huyện, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh với nhiệm vụ chính là tổ chức thi hành các bản án, quyết
định của Tòa án và các quyết định khác theo quy định pháp luật, trong đó cỏ
các bản án, quyết định hành chính theo trình tự, thủ tục hành chính;
Thứ ba, theo nghị quyết sổ 49-NQ/TW, ngày 02/06/2005 về “Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020” xác định các cơ quan tư pháp bao gồm: Tòa
án nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân; cơ quan điều tra; cơ quan thi hành án.
Hơn nữa trong thực tiễn hoạt động cùa cơ quan thi hành án dân sự càng thấy
rõ hơn yêu cầu khách quan của việc bảo đảm sự gắn kết giữa hoạt động xét xử
và hoạt động thi hành án, yêu càu tăng cường sự phối hợp cũng như vai trị
trách nhiệm của Tịa án, Cơng an, Viện kiểm sát và ủy ban nhân dân các cấp
trong hoạt động thi hành án dân sự đe các bản án, quyết định được thi hành có
hiệu quả. [12]
Điều này dẫn đến hoạt động thi hành án dân sự có những đặc điểm cơ bản
dựa trên bản chất của hoạt động thi hành án dân sự là thi hành phán quyết
được tuyên trong bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền giải quyết,
11
không phải là việc giải quyêt lại nội dung vụ việc.
Đầu tiên là về mặt nguyên tắc, trong quá trình giải quyết vụ việc tại Tòa
án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thì các cơ quan, tổ chức này căn cứ vào
chứng cứ và các quy định của pháp luật đế ra phán quyết xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên. Còn khi cơ quan thi hành án dân sự thực hiện nhiệm vụ
không phải giải quyết lại nội dung vụ việc mà cơ quan thi hành án dân sự yêu
cầu các đương sự thực hiện nghiêm chỉnh các quyền và nghĩa vụ được ấn định
trong bản án, quyết định dân sự đồng thời phổ biến cho đương sự biết các quy
định pháp luật có liên quan. Trong quá trình thi hành vụ việc, cơ quan thi hành
án dân sự nếu phát hiện sai sót của cơ quan ra bản án, quyết định dân sự trong
việc áp dụng pháp luật có thể kiến nghị những cơ quan này kịp thời sửa chữa,
bổ sung từ đó có căn cứ cho việc giải quyết thi hành án tiếp theo.
Thứ hai, chủ thể tổ chức thực hiện hoạt động thi hành án dân sự là cơ quan,
tổ chức thi hành án dân sự mà cụ thể là các chấp hành viên hoặc các Thừa
phát lại. Việc thi hành án dân sự ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản, quyền nhân
thân của các đương sự và những người có liên quan nên đề đảm bảo việc thi
hành án đạt hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự và
những người có liên quan thì việc thi hành án dân sự phải do cơ quan nhà
nước chuyên trách thực hiện - cơ quan thi hành án dân sự. Tuy nhiên, đe việc
thi hành án dân sự được nhanh chóng, đạt hiệu quả cao cũng như huy động
các nguồn lực trong xã hội thì một số cơng việc thi hành án dân sự được
chuyển giao cho các cá nhân, tổ chức tư nhân thực hiện - đó chính là các Thừa
phát lại.
Thứ ba là đối tượng của thi hành án dân sự là các bản án, quyết định dân
sự của Tòa án, quyết định của Trọng tài thương mại và Hội đồng xử lí vụ việc
cạnh tranh, cụ thế: Bản án, quyết định dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động; Hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu
lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản
án, quyết định hình sự; Phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của
Tồ án; Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định cúa
12
Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam; Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của
bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; Quyết định của
Trọng tài thương mại; Quyết định Tòa án giải quyết phá sản.
Tuy nhiên, các bản án, quyết định dân sự nói trên để được đưa ra thi hành
theo thủ tục thi hành án dân sự thì phải là các bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật hoặc các bản án, quyết định của Tịa án cấp sơ thấm chưa có
hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay theo quy định của pháp luật. Có
thể thấy đối tượng của hoạt động thi hành án dân sự có phạm vi rộng hơn đối
tượng của hoạt động thi hành án hình sự. Neu như đối tượng của hoạt động thi
hành án hình sự chỉ có những vụ việc được giải quyết theo thủ tục tố tụng
hình sự thì đối tượng của hoạt động thi hành án dân sự gồm cả những vụ việc
giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự, dân sự, hành chính, thủ tục phá sản của
Tịa án, Trọng tài thương mại và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Thứ ba, hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động có sự tham gia cùa
nhiều cơ quan, tổ chức do các cơ quan đều có một chức năng nhiệm vụ riêng
nhằm chun mơn hóa và phân cơng lao động. Bên cạnh các cơ quan tiến
hành tố tụng như Tịa án, Viện Kiểm sát, cơ quan cơng an cịn có sự tham gia
của các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, tài chính, các tổ chức tín dụng ngân hàng, cơ quan - đơn vị nơi người phải thi hành án làm việc. Sự tham gia
đông đảo của các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự xuất phát từ tính
phức tạp của cơng tác này. Thi hành án dân sự là giai đoạn có tác động đến lợi
ích của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội. Do vậy, sự tham gia đầy đủ, tích cực của các chủ thể có
liên quan được xem là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả việc thi
hành án.
Mặc dù có sự tham gia của nhiều cơ quan nhưng cơ quan thi hành án dân
sự giữ vị trí trung tâm, là cơ quan trực tiếp tổ chức thi hành án, cơ quan thi
hành án dân sự phải thể hiện được vai trò của cơ quan đầu mối cơng việc, chủ
trì thực hiện sự phối hợp. Chấp hành viên cần đề cao sự chủ động trong sự
13
phối họp với các cơ quan, tồ chức hay cá nhân có liên quan để nhận được sự
hỗ trợ từ phía các cơ quan, tổ chức này.
Thứ tư, hoạt động thi hành án dân sự được thực hiện trên cơ sở các nguyên
tắc nhất định và theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật thi hành án
dân sự quy định. Hoạt động thi hành án dân sự bao gồm nhiều hoạt động khác
nhau của cơ quan thi hành án dân sự, Viện kiểm sát, Tòa án, Trọng tài thương
mại, Hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh, đương sự, người đại diện của đương
sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến thi hành án... Do đó, để hoạt
động thi hành án dân sự được diễn ra một cách minh bạch, khách quan thì
hoạt động thi hành án dân sự phải thực hiện theo đúng các nguyên tắc và trình
tự, thủ tục mà pháp luật quy định, thi hành án dân sự là hoạt động kết hợp và
sử dụng linh hoạt nhiều biện pháp khi tổ chức thi hành.
Mặc dù chấp hành viên khi thực hiện nhiệm vụ nhân danh và sử dụng
quyền lực Nhà nước buộc các cơ quan, tổ chức hay cá nhân phải nghiêm
chỉnh thi hành nội dung phán quyết cua cơ quan, tổ chức giải quyết vụ việc
nhưng quá trình tổ chức thi hành án đòi hỏi phải vận dụng linh hoạt các biện
pháp giáo dục - thuyết phục, cưỡng chế. Chấp hành viên phải luôn coi giáo
dục - thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án là biện pháp ưu tiên hàng
đầu, việc tồ chức cưỡng chế là giải pháp cuối cùng và nếu vận dụng tùy tiện
dễ gây ra phản ứng chống đối mạnh từ phía đương sự, tạo dư luận xã hội tiêu
cực.
Thứ năm, thi hành án dân sự là hoạt động mang tính thực tiễn, vơ cùng
phức tạp, chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn
và tại từng địa phương khác nhau. Hoạt động thi hành án dân sự liên quan đến
trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân, liên quan đến nhiều mặt của
đời sống xã hội và ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều thành phần xã hội. Đặc
trưng này của hoạt động thi hành án dân sự dẫn đến yêu cầu đó là các chấp
hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án dân sự phải có kiến thức xã hội
sâu rộng, nắm bắt được đặc điểm xã hội từng vùng miền, địa phương cụ thể để
vận dụng vào công tác, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cũng xuất phát từ đặc
14
điểm này mà yêu cầu về sự phối họp giũa cơ quan thi hành án dân sự và các
cơ quan có liên quan là một u cầu mang tính khách quan, tất yếu.
Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên của thi hành án, có thể hiểu rằng:
"Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do cơ
quan thi hành án tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định nhằm đảm bảo
thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tịa án hoặc quyết định khác
của cơ quan có thâm quyền ”và mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự
với các tố chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự giũ' một vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động thi hành án được thực hiện đúng
theo quy định và thời hạn của pháp luật.
1.1.2. Khái niệm và đặc điếm mối quan hệ giữa CO’ quan thi hành án
dân sự vói các tổ chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự
Để hiểu được khái niệm về mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự
với các tổ chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự, trước hết chủng ta
phải hiểu được khái niệm về sự phối hợp, về mối quan hệ và các cơ quan, tổ
chức trong thi hành án dân sự là những cơ quan, tổ chức nào, theo đó, mối
quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các tổ chức, cơ quan hữu quan
trong thi hành án dân sự là sự phối hợp giữa hành vi, hoạt động của các cơ
quan, tổ chức theo quy định về thi hành án dân sự giữ vai trò chủ đạo nhằm
thống nhất, họp tác thực hiện hiệu quả cùng nhau cho một mục tiêu thực hiện
yêu cầu, quy định về thi hành án một cách đảm bảo các yêu cầu do pháp luật
đề ra.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “phối họp” là “cùng hành động hoặc hoạt
động hồ trợ lẫn nhau” [15, tr. 759]. Như vậy, theo nghĩa chung nhất thì phối
hợp thi hành án dân sự là sự tham gia và hồ trợ lẫn nhau cùng thực hiện nhiệm
vụ của nhiều chủ thể khi thực hiện việc thi hành các bản án, quyết định dân
sự. Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm về sự phối hợp giữa các cơ quan
trong thi hành án dân sự cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Quan điểm thứ nhất, Vi Trọng Thụ cho rằng, mối quan hệ giữa cơ quan thi
hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong thi hành án dân sự là
15
việc cơ quan thi hành án dân sự chủ động liên hệ, đê nghị, yêu câu các cơ
quan, tổ chức hữu quan hồ trợ cơ quan thi hành án dân sự trong việc tồ chức
thi hành bản án, quyết định của Tịa án theo trình tự, thủ tục nhất định, bảo
đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được thi hành” [33, tr. 11, 12].
Quan điểm thứ hai, Lê Thị Hồng Hạnh cho rằng, mối quan hệ giữa các cơ
quan trong thi hành án dân sự là cơ chế phối hợp thực hiện chức năng nhiệm
vụ cùa các cơ quan có liên quan trong lĩnh vực thi hành án dân sự nhằm thực
hiện nghiêm chỉnh triệt để, nhanh chóng, chính xác, có hiệu quả bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án [10, tr. 20, 21],
Quan điểm thứ ba, Lê Hồng Suy cho rằng, các cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải hồ trợ thực hiện các yêu
cầu của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên trong việc giải quyết thi
hành án dân sự [32, tr. 11].
Các quan điểm về mối quan hệ giữa các cơ quan trong thi hành án dân sự
nêu trên đều có điểm chung đó là việc nhận định tất cà các chủ thể tham gia
phối hợp đều bị quy định và chịu sự ràng buộc của yếu tố mục đích, mục đích
sự phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án dân sự hướng tới chính là bản
án, quyết định dân sự sau khi ban hành phải được thực thi trên thực tế. Hoạt
động thi hành án dân sự không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân, tài sản
của đương sự mà cịn ảnh hường và có liên quan đến nhiều cơ quan, tố chức;
liên quan đến việc quán lý con người, quản lý tài sản cùa người phải thi hành
án, người được thi hành án. Vì vậy trong q trình thi hành án dân sự ln đòi
hỏi sự phối hợp, sự hồ trợ của các cơ quan, tồ chức hữu quan. Nếu khơng có
sự phối hợp, hồ trợ của các cơ quan, tổ chức hữu quan thì cơ quan thi hành án
dân sự khơng thế thực hiện tốt chức nãng, nhiệm vụ của mình và đơi khi
khơng có khả năng tự mình thực hiện, do vậy, bản án, quyết định của Tịa án
sẽ khơng được thi hành hoặc thi hành không triệt để ảnh hường đến quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự pháp luật khơng được tôn trọng, trật tự kỷ cương
không được đảm bảo và sẽ ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân vào các cơ
quan nhà nước, vào pháp luật.
16
Tuy nhiên, quan điêm thứ nhât có những điêm chưa hợp lý: Thứ nhât, thực
tế công tác thi hành án dân sự đã chỉ ra rằng sự chủ động trong việc thực hiện
sự phối hợp trước tiên thuộc về cơ quan thi hành án dân sự, nhưng cũng cỏ
nhiều nội dung phối hợp mà sự chủ động thuộc về các cơ quan, tổ chức hũư
quan, chẳng hạn trong phối hợp chuyển giao bản án, quyết định thì sự chủ
động thuộc về cơ quan ra bản án, quyết định; sự chủ động trong công tác giao
nhận vật chứng thuộc về cơ quan công an. Thứ hai, cần phải thấy rằng trong
sự phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án dân sự hiện nay thì mối quan
hệ ở đây là mối quan hệ đa chiều, tức là trách nhiệm phối hợp khơng chỉ đơn
thuần từ phía các cơ quan, tổ chức hữu quan mà cịn có cả trách nhiệm của cả
cơ quan thi hành án dân sự. Thứ ba, đối tượng của hoạt động thi hành án dân
sự hiện nay gồm các bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài
thương mại và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Do vậy, nếu cho rằng sự
phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án dân sự chỉ để “bảo đảm cho bàn
án, quyết định của Tịa án được thi hành” là chưa hồn tồn chính xác.
Đối với quan điểm thứ hai, nhận định mối quan hệ giữa các cơ quan trong
thi hành án dân sự là việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của các cơ quan có
liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự. Tuy vậy, cũng giống như quan
điểm thứ nhất, quan điểm thứ hai cũng có điểm hạn chế đó là việc làm “hẹp”
đi phạm vi thấm quyền của cơ quan thi hành án dân sự khi cho rằng hoạt động
thi hành án nhằm thực hiện có hiệu quả “bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tịa án” trong khi đó ngay từ PLuật thi hành án dân sự năm
2004 tại Điều 2 đã quy định những bản án, quyết định dân sự được cơ quan thi
hành án dân sự tổ chức thi hành cịn có quyết định của Trọng tài thương mại
Việt Nam.
Quan điểm thứ ba đã vơ tình đánh mất đi tính chủ động trong việc thực
hiện trách nhiệm phối hợp từ phía các cơ quan hữu quan đối với cơ quan thi
hành án dân sự khi cho ràng “sự hỗ trợ” chì phát sinh khi có “yêu cầu” từ cơ
quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên. Như đã phân tích ở quan điểm thứ
nhất, trong nhiều nội dung phối hợp thì sự chủ động trước tiên thuộc về phía
17
các cơ quan hữu quan, trách nhiệm phôi hợp của các cơ quan này tự động phát
sinh khi có đủ căn cứ do pháp luật quy định, chẳng hạn cơ quan Cơng an có
trách nhiệm chuyển vật chứng sang cơ quan thi hành án dân sự khi có quyết
định chuyển vật chứng của VKSND [33, Mục 21.2], bởi vậy nếu cho rằng
trách nhiệm phối hợp chỉ phát sinh khi có “yêu cầu” từ phía cơ quan thi hành
án dân sự và chấp hành viên là khơng chính xác.
Mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các tổ chức, cơ quan hữu
quan trong thi hành án dân sự trước hết dựa trên yêu cầu của các quy định
pháp luật về thi hành án dân sự cũng như sự liên quan đến nội dung vụ việc đã
được xử lý và có bản án, quyết định của các cơ quan tài phán. Ngồi ra, mối
quan hệ này cịn thể hiện trên phương diện hợp tác và thực hiện hiệu quả trong
việc phối hợp vai trò, chức năng và hiệu quả các cơ quan liên quan trong công
tác thi hành án dân sự nhằm đảm bảo các yêu càu của đương sự được thực
hiện và hiệu lực của phán quyết tư pháp có sức mạnh quyền lực nhà nước
cũng như sự hoạt động nhịp nhàng trơn chu của bộ máy nhà nước, tránh tồn
đọng các vụ việc không được xử lý.
Các cơ quan, tổ chức hữu quan trong thi hành án dân sự là các cơ quan, tố
chức có liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự, phối họp, hồ trợ cơ quan
thi hành án dân sự tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo quy định của
pháp luật, gồm cơ quan tòa án, viện kiếm sát, công an, ủy ban nhân dân các
cấp, cơ quan quản lý tài sản đăng ký bảo đảm...Có thể phân loại theo nhiều
tiêu chí khác nhau nhưng để thuận tiện cho việc nghiên cứu trong phạm vi đề
tài này thì việc phân loại theo chức năng nhiệm vụ, tính chất, mức độ liên
quan của việc phối họp với công tác thi hành án dân sự là phù họp nhất là
giữa các cơ quan trong hệ thống cơ quan tư pháp, các cơ quan nhà nước
trong hệ thống cơ quan hành chính, các cơ quan, tơ chức khác liên quan đến
các hoạt động thi hành án.
Như vậy ta có thể hiểu khái niệm: “Mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án
dãn sự và cơ quan, tổ chức hữu quan trong thi hành án dân sự là việc cơ quan
thi hành án dân sự chủ động phổi hợp liên hệ, đầu mối, bàn bạc yêu cầu hoặc
18
đề nghị các cơ quan, tô chức, các ban ngành có chức năng, thẩm quyền liên
quan đến việc tơ chức thực thi các bản án quyết định của Tòa án do cơ quan
thi hành án dân sự tỏ chức thi hành nhằm đảm bảo các bản án, quyết định của
tòa án được thực thi có hiệu quả trên thực tế”.
•
•
•
•
jf
Với các điểm nêu trên thì mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự và
cơ quan, tổ chức hữu quan mang lại nhiều đặc điểm khác biệt của riêng lĩnh
vực thi hành án dân sự được thể hiện thông qua quy định pháp luật, thực tiễn
đạo đức cũng như trách nhiệm cơng vụ:
Đầu tiên là tính tn thủ quy định cùa pháp luật tất cả các cơ quan, tổ chức
và cá nhân đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật và nhất là các cơ
quan thực thi pháp luật phải chấp hành nghiêm và thực hiện đúng các quy
định pháp luật. Khi các cơ quan, tổ chức hữu quan phối hợp hỗ trợ cho cơ
quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án
phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà pháp luật
đã quy định. Chấp hành viên, người đại diện cho cơ quan thi hành án dân sự
khi thực hiện nhiệm vụ của mình chỉ tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm
•
•
•
•
A
A
•
•
•
trước pháp luật, thực hiện đúng các quy định pháp luật về thi hành án dân sự
và các quy định pháp luật khác có liên quan, khơng làm những điều Chấp
hành viên không được làm theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự.
Thứ hai là chủ động, thường xuyên trong quá trình tố chức thi hành vụ việc
mà theo đó cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên phải phối hợp với các
cơ quan, tổ chức hữu quan theo trình tự, thủ tục quy định, việc phối hợp này
phải được thực hiện thường xuyên vì hầu như các giai đoạn trong quá tình tổ
chức thi hành án đều phải có sự tham gia, phối hợp của các cơ quan, tổ chức
hữu quan. Đổ phối hợp đạt hiệu quả thì các cơ quan, tổ chức hữu quan phải
cung cấp đầy đủ chính xác và kịp thời các yêu cầu của cơ quan thi hành án
dân sự, của chấp hành viên, trong trường hợp có nhiều cơ quan, tổ chức cùng
tham gia, phối hợp đế thực hiện một nhiệm vụ thì u cầu phải có sự phối hợp
chặt chẽ và đồng bộ. Pháp luật đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của
các cơ quan có liên quan tùy thuộc vào vị trí, vai trị của cơ quan đó trong
19
công tác thi hành án dân sự, điêu này thê hiện sự chun mơn hóa trong phân
cơng nhiệm vụ. Ví dụ: Cơ quan cơng an có trách nhiệm bảo đảm sự an toàn
cho hoạt động thi hành án dân sự; ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm hồ
trợ cơ quan thi hành án dân sự xác minh, vận động người phải thi hành án tự
nguyện thi hành, về phía cơ quan thi hành án dân sự, khi thực hiện sự phối
hợp chấp hành viên cần có cái nhìn đa chiều về vị trí, vai trị của các cơ quan
tham gia phối hợp, cơ quan thi hành án dân sự là bên có yêu càu phối hợp cần
có sự chủ động liên hệ làm việc, xây dựng kế hoạch làm việc cụ thể trước khi
đề nghị các cơ quan có liên quan tham gia. Hiệu quả của sự phối hợp phụ
thuộc vào việc các cơ quan thực hiện trách nhiệm của mình đen đâu, chang
hạn: cơ quan Cơng an không cử lực lượng tham gia bảo vệ cưỡng chế, buổi
cưỡng chế gặp sự chống đối quyết liệt từ gia đình đương sự dẫn đến việc
cưỡng chế khơng thành cơng.
Thử ba là không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ và hoạt động chuyên môn
của các cơ quan, tổ chức hữu quan khi phối hợp thực hiện việc thi hành án dân
sự kể cả phối hợp tự nguyện và phối hợp bất buộc thì cơ quan thi hành án dân
sự, chấp hành viên không được làm ảnh hưởng đến chức năng, nhiệm vụ
chuyên môn của các cơ quan, tồ chức hữu quan phối hợp trong quá trình thi
hành án dân sự. Tuy nhiên, các cơ quan, tổ chức khác thực hiện nhiệm vụ
chun mơn của mình phải ln có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ cơ quan thi
hành án dân sự trong hoạt động thi hành án dân sự để đảm bảo cho các bàn án,
quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế một cách nhanh chóng, thuận
lợi nhất. Số lượng các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động thi
hành án dân sự ít hay nhiều phụ thuộc vào mức độ phức tạp của việc thi hành
án do vậy khi được phân công nhiệm vụ tổ chức thi hành vụ việc chấp hành
viên cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ và yêu cầu của việc thi hành án để
xây dựng kế hoạch phối hợp thực hiện, phối hợp với cơ quan nào và nội dung
phối hợp là gì do chấp hành viên chủ động quyết định. [29]
Ngoài ra, các cơ quan trong thi hành án dân sự không bị giới hạn trong thời
gian cơ quan thi hành án dân sự giải quyết một vụ việc cụ thể cũng như các cơ
20
quan có liên quan đên việc thi hành án dân sự không thực hiện trách nhiệm
phối hợp trong thi hành án dân sự phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
Xuất phát từ bản chất của sự phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án
dân sự đó là việc thực hiện trách nhiệm của các cơ quan đối với công tác thi
hành án dân sự, trách nhiệm phối hợp có thể nãy sinh trước khi cơ quan thi
hành án dân sự thụ lý giải quyết vụ việc hoặc sau khi việc thi hành án đã kết
thúc, ví dụ: Cơ quan Cảnh sát điều tra và cơ quan thi hành án dân sự phối hợp
chuyền giao vật chứng trước thời điếm cơ quan thi hành án dân sự thụ lý giải
quyết vụ việc; Các cơ sở giam giữ của cơ quan Cơng an có thể phối hợp với
cơ quan thi hành án dân sự trong thực hiện thủ tục hồ sơ xét đặc xá, giảm án
phạt tù cho người phải thi hành án là người đang chấp hành hình phạt tù dù
việc thi hành án dân sự đã kết thúc. Như vậy có thể thấy sự phối hợp giữa các
cơ quan trong thi hành án dân sự không hề bị “bó hẹp” trong thời gian cơ
quan thi hành án giải quyết một vụ việc cụ thể. Trách nhiệm là những việc
phải làm, những điều phải thực hiện, được phân công theo chức trách của mỗi
cơ quan và đàm bảo phải hoàn thành. Khi một cơ quan được pháp luật quy
định trách nhiệm tham gia phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự đồng
nghĩa với việc cơ quan đó phải thực hiện những điều, những công việc nhất
định cùng cơ quan thi hành án dân sự hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nếu
một cơ quan từ chối thực hiện trách nhiệm, thực hiện không đúng hoặc thực
hiện không đầy đủ trách nhiệm phối hợp trong thi hành án dân sự làm ảnh
hưởng đến kết quả việc thi hành án thì cơ quan đó phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật. Trách nhiệm trước pháp luật ở đây được hiểu là việc cơ quan không
thực hiện đúng trách nhiệm phối hợp thi hành án dân sự sẽ bị xử lý theo
nhũng biện pháp đã được pháp luật quy định, phải chịu những hậu quả bất lợi
do hành vi vi phạm đem lại. Việc quy định trách nhiệm pháp lý đối với các cơ
quan tham gia phối hợp thi hành án dân sự nhằm mục đích ràng buộc, răn đe,
phịng ngừa việc các chủ thể này chối bỏ trách nhiệm, đảm bảo cho các quy
định về sự phối hợp được thực hiện nghiêm chỉnh.
21
1.1.3. Y nghĩa của môi quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự vói
các tổ chức, cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự
Mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các tố chức, cơ quan hữu
quan trong thi hành án dân sự góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [18,
Điều 2]. Phân công quyền lực nhà nước không phải là sự thỏa hiệp hay chia rẽ
quyền lực mà mục đích của nó là tránh việc tập trung quyền lực vào một chủ
thể dẫn đến chuyên quyền, độc đoán. Mồi hệ thống cơ quan được giao một
nhánh quyền lực, thực hiện quản lý chuyên sâu một lình vực nhung sự độc lập
trong hoạt động của các cơ quan chỉ có tính chất tương đối bởi giữa các lĩnh
vực, các mảng hoạt động vẫn có sự giao thoa nhất định. Hơn nữa, mặc dù có
sự phân cơng nhưng mục đích cuối cùng cùa việc phân cơng quyền lực là thực
hiện có hiệu quả quyền lực nhà nước để quản lý nhà nước và xã hội. Do vậy
yêu cầu đặt ra là các cơ quan phải liên kết, phối hợp để cùng thực hiện nhiệm
vụ chung. Sự phối họp giữa các cơ quan diễn ra đa dạng trên nhiều lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội trong đó bao gồm cả cơng tác thi hành án dân
sự, chính vì vậy thực hiện sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan trong thi
hành án dân sự cũng góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của bộ
máy Nhà nước.
Thi hành án dân sự là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền về tài săn và
nhân thân của các bên đương sự đế giải quyết việc thi hành án, cơ quan thi
hành án dân sự phải tiến hành nhiều thủ tục như: Tống đạt, xác minh, áp dụng
các biện pháp đảm bảo, biện pháp cưỡng chế thi hành án v.v... vì thế, cơ quan
thi hành án dân sự không thể “đơn thân độc mã” thực hiện được các cơng việc
trên, mà cần có sự phối họp với các cơ quan, tố chức có liên quan. Ví dụ: Liên
quan đến quyền sử dụng đất cơ quan thi hành án dân sự cần sự phối hợp của
cơ quan quản lý tài nguyên và môi trường; liên quan đến tài khoản cần sự phối
hợp của ngân hàng, tổ chức tín dụng v.v... Việc phối họp tốt với các cơ quan,
22