Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

TIỂU LUẬN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA GỐC NÔNG NGHIỆP ĐƯỢC THỂ HIỆN TRONG PHONG TỤC HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.53 KB, 11 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GỊN

TIỂU LUẬN
MƠN CƠ SỞ VĂN HĨA VIỆT NAM

- Mã học phần : 865002
- Tên học phần : Cơ sở văn hóa Việt Nam
- Học kỳ
:3
- Năm học
: 2020-2021

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 8 năm 2021


ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GỊN

TÊN TIỂU LUẬN: ĐẶC TRƯNG VĂN HĨA GỐC NÔNG NGHIỆP
ĐƯỢC THỂ HIỆN TRONG PHONG TỤC HÔN NHÂN CỦA
NGƯỜI VIỆT.

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 8 năm 2021


NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ CHẤM THI
Cán bộ chấm thi 1:
..................................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................................


.................................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................................
Cán bộ chấm thi 1:
.................................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................

Điểm: ……………..

Điểm: ……………..

CÁN BỘ CHẤM THI 1
KÝ TÊN

CÁN BỘ CHẤM THI 2
KÝ TÊN

..............................................

..............................................


NỘI DUNG
1. Loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp
Việt Nam do ở tận cùng phía đơng-nam nên thuộc loại văn hóa gốc nơng nghiệp
điển hình. Vậy những đặc trưng chủ yếu của loại hình văm hóa gốc nơng nghiệp là gì?
Trong cách ứng xử với mơi trường tự nhiên, nghề trồng trọt buộc ngươi dân phải
sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kêt trái và thu hoạch. Do sống phụ thuộc nhiều

vào thiên nhiên nên dân nơng nghiệp có ý thức tơn trọng và ươc vọng sống hòa hợp vời
thiên nhiên. Người Việt Nam mở miệng là nói “lạy trời”, “nhờ trời”, “ơn trời”…
Vì nghề nơng, nhât là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào tất
cả mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời trong đất, trơng mây; Trơng mưa, trơng gió,
trơng ngày, trơng đêm…) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy tổng hợp.
Tổng hợp kéo theo hiện chứng – cái mà người nông nghiệp quan tâm không phải là các
yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp là bao quát được
mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối quan hệ giữa chúng. Người Việt tích
lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này: Quạ tắm thì
ráo, sáo tắm thì mưa; Ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống; Được mùa lúa thì úa mùa cau,
được mùa cau thì đau mùa lúa…
Về mặt tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa sống theo ngun tắc trọng
tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống hịa thuận trên cơ
sở lấy tình nghĩa làm đầu
Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần coi trọng ngôi nhà à coi trọng cái bếp à coi
trọng người phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ nét: Phụ nữ Việt Nam là người quản lí
kinh tế, tài chính trong gia đình – người nắm tay hịm chìa khóa. Chính bởi vậy mà người
Việt Nam coi Nhất vợ nhì trời; Lệnh ơng khơng bằng cồng bà…; cịn theo kinh nghiệm
dân gian thì Ruộng sâu trâu nái, khơng bằng con gái đầu lịng. Phụ nữ Việt Nam cũng
chính là người có vai trị quyết định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu, Con
dại cái mang. Vì tầm quan trọng của người mẹ cho nên trong tiếng Việt, từ cái với nghĩa
1


là “mẹ” đã mang thêm nghĩa “chính, quan trọng”: sơng cái, đường cái, đũa cái, cột cái,
trống cái, ngón tay cái, máy cái…Tư tưởng coi thường phụ nữ là từ Trung Hoa truyền vào
(Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vơ; Nam tơn nữ ti; Tam tịng); đến khi ảnh hưởng này
trở nên đậm nét (từ lúc nhà Lê tôn Nho giáo làm quốc giáo), người dân đã phản ứng dữ
dội về việc đề cao “Bà chúa Liễu” cùng những câu ca dao như: Ba đồng một mớ đàn ông,
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha, Ba trăm một mụ đàn bà, Đem về mà trải chiếu hoa cho

ngồi!
Không phải ngẫu nhiên mà vùng nông nghiệp Đông Nam Á này được nhiều học
giả phương Tây gọi là “xứ sở Mẫu hệ” (le Pays du Matriarcat). Cho đến tận bây giờ, ở các
dân tộc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Chàm hoặc hồn tồn khơng chịu
ảnh hưởng như nhiều dân tộc Tây Nguyên (Êđê, Giarai…), vai trò của người phụ nữ vẫn
rất lớn: phụ nữ chủ động trong hôn nhân, chồng về ở đằng nhà vợ, con cái đặt tên theo họ
mẹ… Cũng không phải ngẫu nhiên mà cho đến nay, người Khmer vẫn gọi người đứng
đầu phum, sóc của họ là mê phum, mê sóc (mê=mẹ), bất kể đó là đàn ơng hay đàn bà.
Lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người làm nông
nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt, ln biến báo cho
thích hợp với từng hồn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lí sống Ở bầu thì trịn, ở ống thì dài; Đi
với Bụt mặc áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy…
Sống theo tình cảm, con người cịn phải biết tơn trọng và cư xử bình đẳng, dân chủ
với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền qn chủ phong kiến phương
Đơng và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn
đến tâm lí coi trọng cộng đồng, tập thể. Người nơng nghiệp làm gì cũng phải tính đến tập
thể, ln có tập thể đứng sau.
Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn giờ giấc (giờ cao
su), sự thiếu tơn trọng pháp luật… Lối sống trọng tình làm cho thói tùy tiện càng trở nên
trầm trọng hơn: Một bồ cái lí khơng bằng một tí cái tình… Nó dẫn đến tệ “đi cửa sau”
trong giải quyết cơng việc: Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế… Trọng tình và linh hoạt
2


làm cho tính tổ chức của người nơng nghiệp kém hơn so với cư dân các nền văn hóa gốc
du mục.
Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp và phong cách linh hoạt
còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Nam khơng những khơng có chiến
tranh tơn giáo mà, ngược lại, mọi tôn giáo thế giới (Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên
chúa giáo…) đều được tiếp nhận. Đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược, người Việt

Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa. Ngày xưa, trong kháng chiến chống ngoại xâm,
mỗi khi thế thắng đã thuộc về ta một cách rõ ràng, cha ông ta thường dừng lại chủ động
cầu hòa, “trải chiếu hoa” cho giặc về, mở đường cho chúng rút lui trong danh dự.
Các đặc trưng vừa phân tích của loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp có thể được
trình bày trong bảng sau:
VĂN HĨA GỐC NƠNG NGHIỆP

TIÊU CHÍ
Đặc trưng gốc

Khí hậu

Nắng nóng lắm, mưa ẩm nhiều

Nghề chính

Trồng trọt

Ứng xử với mơi trường tự nhiên

Sống định cư, thái dộ tơn trọng, ước mong sống
hịa hợp với thiên nhiên

Lối nhận thức, tư duy

Thiên về tổng hợp và biện chứng (trong quan hệ),
chủ quan, tình cảm và kinh nghiệm

Tổ chức cộng


Nguyên tắc

Trọng tình, trọng đức, trọng văn, trọng nữ

đồng

Cách thức

Linh hoạt và dân chủ, trọng tập thể

Ứng xử với môi trường xã hội

Dung hợp trong tiếp nhận, mềm dẻo, hịa hiếu
trong đối phó

3


2. Phong tục hôn nhân của người Việt:
2.1. Phong tục hôn nhân của người Việt truyền thống
Trước đây (và cả bây giờ) người Việt gọi lễ cưới là là hôn lễ. Theo giải thích của
Đào Duy Anh, chữ “hơn” ngun nghĩa là chiều hôm, theo phong tục tập quán từ xa xưa
người ta làm lễ cưới vào buổi chiều tối.
Dân gian coi cưới xin là một trong ba việc lớn của đời người (sự nghiệp, làm nhà và cưới
vợ) khi nhấn mạnh trong câu ca dao: “tậu trâu cưới vợ làm nhà…”
Ảnh hưởng văn hố Trung Hoa, hơn nhân của người Việt xưa có sáu lễ chính. Để tiến đến
lễ cưới, hai gia đình phải thực hiện những lễ chính sau:
Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp “nhạn” để tỏ ý đã kén
chọn ở nơi ấy.
Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng Đẻ

của người con gái.
Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau
thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thơi, quan niệm thống hơn người ta tìm cách
hóa giải.
Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn
chắc chắn.
Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới.
Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ
đến để rước dâu về.
2.2. Ý nghĩa của phong tục hôn nhân:
Phục vụ quyền lợi gia tộc
-Hôn nhân xác lập quyền lợi (quan hệ) giữa hai gia tộc.
- Đối với gia tộc, hôn nhân là công cụ duy nhất và thiêng liêng duy trì dịng dõi và
phát triển nguồn nhân lực (quan tâm đến năng lực sinh sản của họ).

4


- Hơn nhân làm lợi cho gia đình (con gái phải đảm đang đem lại vật chất cho gia
đình nhà chồng: con trai phải thành đạt đem lại vẻ vang (tinh thần) cho gia đình nhà vợ.
Đáp ứng quyền lợi của làng xã
- Hôn nhân đáp ứng yêu cầu ổn định của làng xã - chọn vợ chồng cùng làng–>Tiền
cheo là một lệ phí nói lên điều đó.
- Nhìn chung, lịch sử hôn nhân Việt Nam luôn là lịch sử hơn nhân vì cộng đồng,
tập thể: Mỵ Châu – Trọng Thủy; Huyền Trân – Chế Mân; Ngọc Hân – Nguyễn Huệ...
Đáp ứng nhu cầu riêng tư:
- Sự phù hợp của đôi trai gái
- Quan hệ mẹ chồng – nàng dâu...
2.3. Duy trì phong tục hơn nhân ngày nay:
Nhà nước phong kiến Việt Nam, triều đại nhà Nguyễn chấm dứt sau Cách mạng

tháng Tám (1945), cùng với sự hình thành của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, đã
có quy định như sau về hôn nhân:
Việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam
nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, Xoá bỏ những tàn tích cịn lại của
chế độ hơn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái,
Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách của cải trong việc cưới
hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ...
Dần dần, những quy định trên được thể chế hóa thành luật .
Ở phương diện luật định, sau khi đăng ký kết hôn đôi trai gái được pháp luật bảo
vệ. Tuy nhiên, trong tâm thức và văn hóa dân tộc, lễ cưới chứ không phải tờ hôn thú, mới
là thời điểm để họ hàng, bè bạn và mọi người chính thức cơng nhận đơi trai gái là vợ
chồng. Cũng vì vậy, tại lễ cưới nhiều vấn đề xã hội diễn ra, khen chê của dư luận xã hội
đều tập trung vào đó, "ma chê cưới trách" nhưng lại "ai chê đám cưới, ai cười đám ma".
Một đám cưới theo nghi thức cổ truyền có thể vừa được khen, vừa bị chê. Người khen thì
5


cho rằng thế mới là đám cưới Việt Nam, thế mới khơng sợ sự du nhập của văn hóa bên
ngồi, nhưng người chê thì lại nói rằng thế là rườm rà, lãng phí và luỵ cổ.
Tuy vậy, chính quyền khơng cấm việc tổ chức cưới hỏi theo phong tập tập quán
xưa, mà chỉ ban hành "quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới hỏi", theo đó,
quy định rằng: "các thủ tục có tính phong tục, tập qn như chạm ngõ, lễ hỏi, xin dâu cần
được tổ chức đơn giản và gọn nhẹ" và "việc cưới cần được tổ chức trang trọng vui tươi,
lành mạnh phù hợp với phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc".
Trình tự tiến đến lễ cưới của người Việt Nam, có thể có những cách thức, tên gọi
khác nhau, đa số có những điểm chung:
Đăng ký kết hôn: Lễ cưới ngày nay thường được tổ chức sau khi đã được chính
quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn.
Chụp ảnh, quay phim: Ở một số thành phố lớn, cô dâu và chú rể thường đến một số
địa điểm đẹp ngoài trời để chụp ảnh làm kỷ niệm.

Chuẩn bị vật phẩm hôn lễ, quà cưới, phòng cưới, tiệc cưới, quần áo, xe hoa,...
Phải chọn một người trung gian, đóng vai trị bắc cầu cho hai bên gia đình. Đó
thường là người đứng tuổi, có uy tín, có kinh nghiệm trong ăn nói, thường được gọi là
Chủ hôn.
Lễ dạm ngõ
Được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai đem lễ sang. Đồ lễ bắt buộc phải có là trầu,
cau, rượu, chè, bánh, kẹo, nước uống,... Lễ vật được dâng lên bàn thờ tổ tiên. Sau đó, nhà
trai sẽ đem về phần lễ mà nhà gái đã lưu lại, được gọi là lại quả.
Lễ Ăn hỏi
Hay còn gọi là lễ vấn danh, theo tục xưa là hỏi tên tuổi cô gái, nhưng ngày nay cha
mẹ đôi bên đã biết rõ rồi. Cô gái nhà nào đã nhận lễ vấn danh coi như đã có nơi, có chốn.
6


Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ, chia trầu. Nhà gái trích trong lễ vật nhà trai đưa đến
một lá trầu, một quả cau, một gói trà nhỏ, một cái bánh cốm hoặc vài hạt mứt. Tất cả gói
thành hộp hay phong bao giấy hồng, mang đến cho các gia đình họ hàng, bạn hữu của nhà
gái. Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng khơng phải có lễ vật này mà chỉ cần thiệp báo hỉ. Cũng
trong lễ ăn hỏi, hai họ định luôn ngày cưới.
Lễ nạp tài: Là ngày nhà trai đem sính lễ sang nhà gái để đón dâu (như ở dưới sẽ
nêu).
Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo
đồn đón dâu đã đến.
Tục chăng dây: ở một số đám cưới, nhà gái bố trí vài em nhỏ bụ bẫm, xinh xắn,
mặc áo đỏ chăng dây trước cửa nhà gái. Khi nhà trai đến, một trong các em nhỏ chạy về
báo cho nhà gái biết. Nhà trai chuẩn bị một ít kẹo để phân phát cho lũ trẻ chăng dây này,
khi đã nhận được kẹo bọn chúng sẽ rút dây để đoàn nhà trai đi vào nhà gái (tục này hiện
nay đã mai một, khơng cịn thấy xuất hiện ở nhiều địa phương).
Lễ rước dâu: Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành một đồn, có cụ già cầm hương
đi trước, cùng với người mang lễ vật. Nhà gái cho mời cụ già thắp hương vái trước bàn

thờ rồi cùng ra đón đồn nhà trai vào. Cơ dâu cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với
tổ tiên. Sau đó hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Lễ Vu Quy này có thể diễn ra
trước một ngày so với lễ Thành Hôn của nhà trai.
Rước dâu vào nhà: đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình vơi,
tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà. Hiện tượng này được giải thích theo nhiều
cách. Thường người ta cho rằng việc làm này có ý nghĩa khắc phục những chuyện cay
nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này.
Lễ tơ hồng: khi hai họ ra về, một số người trừ người thân tín ở lại chứng kiến cơ
dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng. Người ta cho rằng vợ chồng lấy được nhau là do ông Tơ
bà Nguyệt trên trời xe duyên cho. Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng đơn
7


giản, ơng cụ già cầm hương lúc đón dâu, hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng làm chủ lễ.
Hai vợ chồng lạy lễ tơ hồng rồi vái nhau.
Trải giường chiếu: bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều cháu,
phúc hậu, hiền từ, khi cô dâu chú rể vào phịng tân hơn, bà này sẽ trải đôi chiếu lên
giường ngay ngắn, xếp gối màn cẩn thận,...
Lễ hợp cẩn: đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn bày
trầu rượu và một đĩa bánh phu thê. Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi mời đơi vợ
chồng cùng uống.
Tiệc cưới: dù đám cưới lớn hay nhỏ, cũng phải có tiệc cưới. Đặc biệt là ở nơng
thơn, tính cộng đồng xóm giềng, làng xã, họ hàng đang cịn mạnh thì tiệc cưới là một dịp
tốt để củng cố tính cộng đồng ấy. Ở thành phố, người ta thường tổ chức tiệc cưới ngay sau
lễ thành hôn, cho nên nhiều khi cái "tục" của sự ăn lấn át mất cái "thiêng" của lễ cưới.
Tiệc cưới có thể tổ chức nhà gái (trước hôm cưới) và nhà trai (trong ngày cưới); nhưng
cũng có thể hai nhà tổ chức chung thành một tiệc.
Lễ cheo: một số vùng của Việt Nam cịn có lễ cheo. Lễ cheo có thể tiến hành trước
nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc kinh phí
đem đến cho làng hay cho xóm có con gái đi lấy chồng. Lễ cưới là để họ hàng công nhận,

lễ cheo là để xóm làng tiếp thu thêm thành viên mới, nhân tố mới của làng.
Lễ lại mặt: (còn gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ), sau lễ cưới (2 hoặc 4 ngày), hai vợ
chồng trẻ sẽ trở về nhà cha mẹ vợ mang theo lễ vật để tạ gia tiên.
Tóm lại: các nghi lễ cưới theo văn hóa Việt Nam hiện nay đều tuân thủ các lễ như
vậy, song ở các vùng miền khác nhau có sự thay đổi chút ít để phù hợp hơn nhưng mơ
hình chung khơng thể phá vỡ mơ hình trên. Chỉ có các dân tộc thiểu số vẫn cịn duy trì
văn hóa mẫu hệ (con mang họ mẹ) thì mới có hình thức ngược lại với trên, cịn các dân
tộc theo văn hóa phụ hệ (con theo họ cha) thì hầu như trong lễ cưới thì họ là người quyết
định ngày giờ và cách thức cưới hỏi.
8



×