ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
TRẦN THỊ ANH VĂN
TÍN HIỆU THẨM MỸ VỀ MÀU SẮC
TRONG CA DAO NGƢỜI VIỆT
Chun ngành: Ngơn ngữ học
Mã số: 8229020
TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Đà Nẵng - Năm 2022
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG
PHẠM
Cơng trìnhĐẠI
đượcHỌC
hồnSƢ
thành
tại
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
TRẦN THỊ THU THỦY
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ ĐỨC LUẬN
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
MÔN NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƢỚNG
PHÁT
TRIỂN
NĂNG
LỰCThị
HỌC
SINH TẠI CÁC
Phản
biện
1: PGS.TS
Trương
Nhàn
TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
QUẬN
KHÊ Thị
THÀNH
Phản
biệnTHANH
2: TS Nguyễn
ThanhPHỐ
NgânĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
Mã số: 8140114
nghiệp Thạc sĩ ngành Ngôn ngữ học họp tại Trường Đại học Sư
phạm vào ngày 05 tháng 7 năm 2022
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN
1
MỞ ĐẦU
Tín hiệu thẩm mỹ khơng chỉ được xem là yếu tố nghệ thuật,
là chìa khóa để biểu đạt tư tưởng, nội dung, phản ánh hiện thực mà
còn là chiếc cầu nối truyền đạt tư tưởng của tác giả văn chương đến
người đọc để tạo ra giá trị thẩm mỹ cho tác phẩm. Do đó, việc nghiên
cứu tín hiệu thẩm mỹ trong văn chương vẫn là vấn đề cần thiết và
quan trọng. Tín hiệu thẩm mỹ xuất hiện và mang nhiều ý nghĩa trong
các tác phẩm văn học, trong đó có ca dao. Tín hiệu thẩm mỹ về màu
sắc trong ca dao là một tín hiệu nghệ thuật chứa đựng nhiều ý nghĩa
biểu trưng. Tư tưởng, quan điểm của các tác giả dân gian được thể
hiện rõ dưới góc độ tín hiệu thẩm mỹ. Việc nghiên cứu tín hiệu thẩm
mỹ về màu sắc trong ca dao người Việt sẽ giúp cho người đọc dễ
dàng cảm nhận được cái hay, cái đẹp được thể hiện trong mỗi tác
phẩm.
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, ca dao luôn là
mảnh đất màu mỡ cho những ai tìm tịi, sáng tạo trong nghiên cứu
khoa học trên các lĩnh vực văn hóa, văn học và ngôn ngữ. Bởi ca dao
tuy ngắn gọn nhưng chất chứa và truyền tải nhiều màu sắc của cuộc
sống, chứa đựng nhiều cung bậc tình cảm khiến bao trái tim con
người phải thao thức. Đó cũng chính là một phần hấp dẫn của các tác
phẩm ca dao. Bức tranh màu sắc đã được khắc họa khá đậm nét trong
ca dao người Việt. Chính những từ ngữ chỉ màu sắc đã góp phần tạo
nên những hình tượng thẩm mỹ tiêu biểu, làm nên vẻ đẹp đầy sức
sống và đậm chất thuần Việt của loại hình thơ ca dân gian đặc sắc
này.
Chính vì những lí do trên mà chúng tơi đã chọn đề tài “Tín
hiệu thẩm mỹ về màu sắc trong ca dao ngƣời Việt” làm đề tài
nghiên cứu với mong muốn góp phần vào sự phát triển của khuynh
2
hướng đọc - hiểu tác phẩm ca dao từ góc độ ngơn ngữ đồng thời góp
phần làm sáng tỏ những giá trị đặc sắc của ngôn ngữ ca dao người
Việt, giúp cho việc cảm thụ và giảng dạy tốt hơn ca dao trong nhà
trường phổ thông.
Chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của luận văn là các
tín hiệu thẩm mỹ về màu sắc trong ca dao người Việt với phạm vi
nghiên cứu chủ yếu khảo sát nghiên cứu các câu ca dao mang màu
sắc chủ đạo như vàng, xanh, hồng, trắng, đen, đỏ và chủ yếu khảo sát
những câu ca dao trong cuốn Kho tàng ca dao người Việt (tập I, II,
III) do Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật (chủ biên) NXB Văn
hóa thơng tin Hà Nội, 1995. Bên cạnh đó, chúng tơi cũng tham khảo
các văn bản ca dao khác để phân tích, so sánh.
Mục tiêu nghiên cứu là khảo sát, thống kê các đặc điểm cấu
tạo của các tín hiệu thẩm mỹ chỉ màu sắc trong ca dao người Việt.
Chỉ ra giá trị biểu đạt của các tín hiệu thẩm mỹ chỉ màu sắc được
biểu hiện trong ca dao. Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng
phương pháp miêu tả dựa trên các quan điểm ngơn ngữ học là chính.
Ngồi ra, trong q trình viết, luận văn còn sử dụng phương pháp
của các ngành khoa học khác: khảo sát, thống kê, phân loại, phân
tích, chứng minh, …
Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của tín hiệu
thẩm mỹ về màu sắc trong ca dao. Tín hiệu thẩm mỹ xuất hiện và
mang nhiều ý nghĩa biểu trưng trong các tác phẩm văn học, trong đó
có ca dao nhằm giúp bổ sung kiến thức trong việc học tập, nghiên
cứu và giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong các nhà trường trung học
phổ thông theo hướng khám phá, tiếp cận tác phẩm văn học từ góc
độ nghệ thuật; góp phần nâng cao chất lượng của mỗi giờ dạy Văn
đồng thời khơi gợi khả năng cảm thụ văn học và tạo hứng thú cho
3
học sinh.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Đặc điểm ngơn ngữ của tín hiệu thẩm mỹ về màu
sắc trong ca dao người Việt
Chương 3: Giá trị biểu đạt của tín hiệu thẩm mỹ về màu sắc
trong ca dao người Việt
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Từ và ngữ tiếng Việt
1.1.1. Từ
Đỗ Thị Kim Liên: “Từ là một đơn vị của ngôn ngữ, gồm một
hoặc một số âm tiết, có nghĩa nhỏ nhất, có cấu tạo hồn chỉnh và
đƣợc vận dụng tự do để cấu tạo nên câu” [23, tr.18].
1.1.2. Ngữ
Khi nói, viết, chúng ta thường sử dụng đơn vị thông báo ở
cấp độ câu. Để tạo nên câu cần có từ. Các từ thường sắp xếp theo
những quan hệ nào đó để tạo nên đơn vị lớn hơn từ, đó là ngữ. Như
vậy, ngữ là đơn vị ngữ pháp ở bậc trung gian giữa từ và câu.
1.1.3. Các kiểu từ tiếng Việt
Dựa vào số lượng hình vị, có thể chia từ tiếng Việt thành từ
đơn và từ phức. Dựa vào phương thức cấu tạo từ, có thể chia từ phức
thành từ ghép và từ láy.
1.1.4. Từ loại Tiếng Việt
Từ loại là một địa hạt quan trọng của ngữ pháp nói chung và
ngữ pháp tiếng Việt nói riêng. Từ loại là những lớp hạng ngữ pháp
cơ bản của từ, trong đó vốn từ của một ngôn ngữ được phân bố căn
4
cứ vào ý nghĩa khái quát và đặc điểm hình thức chung.
1.1.5. Từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt
Từ chỉ màu sắc là những từ chỉ tính chất, đặc trưng của các
sự vật, hiện tượng. Chính vì vậy, chúng được xếp vào từ loại tính từ.
1.2. Tín hiệu thẩm mĩ
1.2.1. Tín hiệu
Mai Ngọc Chừ khi phân tích về tín hiệu cho rằng: “Tín hiệu
là một sự vật (hoặc một thuộc tính, một hiện tƣợng) kích thích vào
giác quan của con ngƣời, làm cho con ngƣời tri giác đƣợc và lí giải,
suy diễn tới một cái gì đó ngồi sự vật ấy” [11, tr.9].
1.2.2. Tín hiệu ngơn ngữ
“Tín hiệu ngơn ngữ không phải một sự vật với một tên gọi
mà là một khái niệm với một hình ảnh âm thanh” [53, tr.71]. Tín
hiệu ngơn ngữ phải bao gồm quan hệ hai mặt: cái biểu đạt và cái
được biểu đạt (tức hình thức và nội dung) và phải ở trong một hệ
thống nhất định.
1.2.3. Tín hiệu thẩm mỹ
Tín hiệu thẩm mỹ là tín hiệu thuộc hệ thống các phương tiện
biểu hiện của các ngành nghệ thuật, bao gồm toàn bộ những yếu tố
của hiện thực, của tâm trạng (những chi tiết, những sự vật, hiện
tượng, những cảm xúc… trong đời sống hiện thực và tâm trạng)
được lựa chọn, xây dựng và sáng tạo trong tác phẩm vì mục đích
thẩm mỹ, trong đó cái biểu đạt của tín hiệu thẩm mỹ là những yếu tố
thuộc hệ thống phương tiện vật chất (chất liệu - các yếu tố của chất
liệu ngôn ngữ với văn chương, các yếu tố của chất liệu màu sắc với
hội họa; âm thanh nhịp điệu với âm nhạc…) được sử dụng trong các
ngành nghệ thuật và cái được biểu đạt của tín hiệu thẩm mỹ là những
nội dung tinh thần mang tính thẩm mỹ. Tín hiệu thẩm mỹ cũng chứa
5
đựng yếu tố văn hóa dân tộc, thời đại và dấu ấn của cá nhân người
sáng tác.
1.3. Các đặc điểm cơ bản của tín hiệu thẩm mỹ
Chúng tơi theo quan điểm của Trương Thị Nhàn trong “Một
số vấn đề và phân tích văn chƣơng từ góc nhìn ngơn ngữ - tín hiệu
thẩm mỹ” có những đặc trưng sau: Tính truyền thống và tính cách
tân, tính cấp độ, tính hệ thống, tính biểu hiện, tính biểu trƣng, tính
trừu tƣợng và cụ thể, tính tác động, tính biểu cảm, tính đẳng cấu.
1.4. Vài nét về ca dao và ngôn ngữ ca dao
1.4.1. Khái niệm ca dao
Có nhiều định nghĩa về khái niệm ca dao nhưng nhìn chung
những khái niệm này đều có đặc điểm giống nhau: phần lớn ca dao
là lời thơ, lời nói có kết hợp giai điệu nhạc để thể hiện tâm trạng, tƣ
tƣởng, tình cảm của con ngƣời.
1.4.2. Nội dung chủ yếu của ca dao
Ca dao phản ánh những nội dung hết sức phong phú ở mọi
mặt trong đời sống của nhân dân như: Phản ánh lịch sử thông qua sự
kiện lịch sử để nói lên thái độ, quan điểm nhân dân; Phản ánh nếp
sống, phong tục, tập quán truyền thống; Phản ánh nhiều mặt đời
sống tình cảm của nhân dân; Phản ánh đời sống xã hội cũ - một bức
tranh phong phú về hiện thực; Cuối cùng, ca dao chứa đựng tiếng
cƣời trào phúng, qua đó phê phán, đả kích giai cấp thống trị, những
hiện tƣợng khơng bình thƣờng, phi lý, những tệ trạng... thể hiện khát
vọng của nhân dân về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
1.4.3. Đặc điểm ngơn ngữ ca dao
Có thể nói, ngơn ngữ ca dao kết tụ những đặc điểm tuyệt vời
nhất của tiếng Việt. Nó có cả những đặc điểm tinh túy của ngôn ngữ
văn học mà cụ thể là ngôn ngữ thơ, đồng thời còn là sự vận dụng linh
6
hoạt, tài tình, có hiệu quả cao của ngơn ngữ chung vào một loạt ngôn
ngữ truyền miệng, đặc biệt truyền miệng bằng thơ. Bởi vậy, ở ca dao,
chúng ta không chỉ bắt gặp những cách nói trau chuốt, mượt mà, đầy
chất thơ mà còn bắt gặp cả những lời đầy tính chất khẩu ngữ.
1.4.4. Thế giới biểu tượng trong ca dao
Biểu tượng được coi là một loại hình tượng ẩn dụ, được tạo
nên bằng ngôn ngữ, phong phú về khả năng biểu cảm và mang đậm
tính dân tộc. Biểu tượng trong ca dao xuất hiện với tần số khá cao, đã
phản ánh được một số đặc trưng quan trọng của ca dao về thi pháp
cũng như về nội dung.
CHƢƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ CỦA TÍN HIỆU THẨM MỸ VỀ MÀU
SẮC TRONG CA DAO NGƢỜI VIỆT
2.1. Tín hiệu thẩm mỹ là từ
2.1.1. Từ đơn
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát, thống kê từ chỉ màu sắc
trong ba tập Kho tàng ca dao ngƣời Việt được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1: Bảng thống kê từ đơn chỉ màu sắc trong ca dao
ngƣời Việt
STT
Màu sắc
Tần số xuất hiện
Tỷ lệ (%)
1
xanh
175
18,12
2
đỏ
49
5,07
3
tím
10
1,03
4
vàng
240
24,84
5
trắng
102
10,55
6
hồng
108
11,18
7
nâu
8
0,89
7
STT
Màu sắc
Tần số xuất hiện
Tỷ lệ (%)
8
đen
61
6,31
9
xám
4
0,41
10
bạc
38
3,93
11
bạch
9
0,93
12
đào
32
3,31
13
son
30
3,11
14
tía
6
0,62
15
phấn
4
0,41
16
chì
3
0,31
17
thâm
23
2,38
18
thắm
25
2,59
19
ngọc
3
0,31
20
lam
3
0,31
21
lục
5
0,52
22
điều
12
1,24
23
hường
5
0,52
24
biếc
4
0,41
25
mực
1
0,1
26
chàm
1
0,1
27
vang (đỏ)
1
0,1
28
đinh (đỏ bẩm)
1
0,1
29
đằng (tím)
1
0,1
30
ơ (đen)
1
0,1
31
ngại (xanh dương)
1
0,1
Tổng
966
100
8
2.1.2. Từ ghép
Trong 992 từ ghép mà chúng tôi khảo sát, thống kê, chỉ có
hơn 10 từ chỉ màu sắc là thuộc từ ghép đẳng lập, còn lại là từ ghép
chính phụ. Đối với từ ghép đẳng lập chỉ màu sắc có kết cấu sau: một
thành tố là từ chỉ màu chính + một thành tố là từ chỉ màu chính/ phụ,
đó là: trắng đen, đỏ hồng, đen bạc,… Đối với từ ghép chính phụ,
quan hệ giữa các hình vị là quan hệ chính phụ, trật tự của các hình vị
trong từ thường là trật tự cố định. Từ ghép chính phụ chia làm hai
loại: từ ghép chính phụ dị biệt và từ ghép chính phụ sắc thái hóa. Từ
ghép dị biệt là những từ ghép có từ chỉ màu sắc làm thành tố phụ sau
danh từ: lƣới hồng, mâm vàng, chim xanh,… Từ ghép sắc thái hóa
chỉ màu sắc có kết cấu sau: một thành tố chính (chủ yếu là từ chỉ
màu cơ bản) + một thành tố phụ (gồm từ đơn tiết / từ láy song tiết).
Điều này được thể hiện qua một số màu có tần số xuất hiện cao như:
màu xanh, màu đỏ, màu trắng, màu đen. Có thể thấy rằng, các tác
giả dân gian đã sử dụng nhiều thành tố phụ để bổ sung sắc thái ý
nghĩa cho màu sắc, tạo ra nhiều màu sắc khác nhau trong ca dao. Với
một màu chính là màu xanh, các tác giả dân gian đã tạo ra 11 màu
khác nhau với 22 lần xuất hiện. Màu trắng có 10 màu khác nhau với
14 lần xuất hiện. Màu đỏ có 7 màu khác nhau với 15 lần xuất hiện.
Màu đen có 3 màu khác nhau với 3 lần xuất hiện… Đây chính là
nghệ thuật phối màu và tạo màu bằng ngôn ngữ của các tác giả dân
gian, tạo nên giá trị thẩm mỹ riêng khi sử dụng đa dạng các màu sắc.
2.1.3. Từ láy
Trong ca dao người Việt, một số từ chỉ màu cơ bản và từ chỉ
màu phụ đơn âm tiết có khả năng cấu tạo nên những từ chỉ màu phụ
theo phương thức láy, gồm hai kiểu: láy hoàn toàn và láy bộ phận.
Tuy nhiên, tần số xuất hiện của từ láy khơng cao, chỉ có 32 lần.
9
Căn cứ vào các tiêu chí nhận diện từ và nguyên tắc phân loại
các kiểu từ tiếng Việt, về đặc điểm cấu tạo của các từ chỉ màu sắc
trong Kho tàng ca dao ngƣời Việt, chúng tôi thấy rằng: xét về mặt
cấu tạo, các kiểu từ chỉ màu sắc trong ca dao người Việt chủ yếu là
từ đơn (xuất hiện 966 lần chiếm 48,54%) và từ ghép (xuất hiện 992
lần chiếm 49,85%) cịn từ láy xuất hiện ít, chỉ có 32 lần (1,61%).
Giữa số lượng từ đơn và từ ghép chênh lệch không nhiều, tuy nhiên
từ chỉ màu sắc là từ ghép vẫn chiếm số lượng nhiều hơn.
2.1.4. Chức năng ngữ pháp của từ chỉ màu sắc
Từ chỉ màu sắc có chức năng ngữ pháp chủ yếu thể hiện
trong trong cụm từ (cụm chủ vị, cụm động từ, cụm tính từ) và trong
câu (từ chỉ màu sắc làm phần phụ trong cấu trúc chủ ngữ và từ chỉ
màu sắc làm vị ngữ).
2.2. Tín hiệu thẩm mỹ trong hằng thể kết hợp
2.2.1. Hằng thể kết hợp của động từ/ cụm động từ
Chúng tôi đã khảo sát, thống kê được 66 động từ/ cụm động
từ chỉ màu sắc với các kết cấu như sau: Một động từ trung tâm và
một tính từ chỉ màu sắc đi kèm: nhuộm đỏ, nhuộm thâm, chín vàng,
ghẹo hồng,…; Tính từ chỉ màu sắc thường kết hợp với danh từ nhằm
cụ thể hóa nội dung cho thành tố trung tâm: tắm suối vàng, tiếc má
hồng, mang giày đỏ, hớt mái tóc xanh,…; Cấu trúc thành ngữ và
tương đương: tham đỏ bỏ đen, thay đen đổi trắng, lấy mực làm đen,
tham vàng bỏ ngãi …
2.2.2. Hằng thể kết hợp của tính từ/ cụm tính từ
Chúng tơi khảo sát, thống kê được 40 tính từ/ cụm tính từ chỉ
màu sắc với các kết cấu sau: Một tính từ chỉ màu sắc làm trung tâm
và một danh từ đi kèm: đỏ hoe con mắt, xanh con mắt, trắng phau
cánh cò, trắng trắng cổ tay,… ; Kết cấu chính phụ: Tính từ chỉ màu
10
sắc + như + danh từ được so sánh: bạc nhƣ vôi, đỏ nhƣ son, đen nhƣ
than, xanh nhƣ chàm,…; Kết cấu: Tính từ chỉ màu sắc 1 + danh từ 1
- tính từ chỉ màu sắc 2 + danh từ 2: xanh mỏ đỏ lông, đỏ môi bạc
đầu…
2.2.3. Hằng thể kết hợp của danh từ/ cụm danh từ
Chúng tôi khảo sát, thống kê được 222 danh từ/ cụm danh từ
chỉ màu sắc với các kết cấu như sau: Một danh từ trung tâm và một
tính từ chỉ màu sắc đi kèm: mây trắng, bông vàng, khăn hồng, da
đỏ,… ; Kết cấu danh từ 1 + danh từ 2 (có chức năng như tính từ chỉ
màu sắc): áo the hoa, áo hoa hiên, quần trứng sáo, quần lĩnh hoa
chanh, yếm hoa chanh, yếm hoa hiên, yếm hoa tằm…
2.2.4. Hằng thể kết hợp của cụm chủ vị
2.2.4.1. Cụm chủ vị đơn
Cấu trúc loại này gồm từ chỉ màu sắc kết hợp với từ ghép
hoặc từ láy biểu thị sắc thái được thể hiện qua kết cấu định danh bổ
trợ: Danh từ 1 + tính từ chỉ màu sắc + danh từ 2 (sự vật được so
sánh). Trong Kho tàng ca dao ngƣời Việt, chúng tôi đã khảo sát và
thống kê được 9 cụm chủ vị đơn chỉ màu sắc với tần số 10 lần xuất
hiện: da đỏ hồng hào, má hồng đỏ thắm, mắt đen lay láy, răng trắng
hạt bầu, răng đen hột đỗ, răng đen hạt nhót, vải thâm hạt giền, yếm
trắng lòa xòa, yếm trắng lòa lòa.
2.2.4.2. Cụm chủ vị kép
Kết cấu cụm chủ vị kép chỉ màu sắc trong ca dao được thể
hiện qua kết cấu song hành: Danh từ 1 + tính từ chỉ màu sắc 1 - Danh
từ 2 + tính từ chỉ màu sắc 2. Trong Kho tàng ca dao ngƣời Việt,
chúng tôi đã khảo sát, thống kê được 62 cụm chủ vị kép chỉ màu sắc
với tần số 92 lần xuất hiện: Áo nâu kiềng bạc, Áo trắng khăn điều,
Áo trắng quần thâm, Áo tía quần hồng, Áo đà khăn xanh, Áo đen nút
11
bạc, Áo thắm quần hồng, Áo vàng chỉ trắng, Bông trắng lá xanh,
Cánh trắng mỏ vàng, Cơm trắng nƣớc trong, Chìa vàng khóa ngọc,
Cành vàng cây bạc, Chỉ hồng lá thắm, Da đỏ má hồng, Dạ ngọc lòng
vàng, Dạ ngọc gan vàng, Đũa ngọc chén vàng, Đầu đỏ mỏ vàng,
Đầu xanh tóc bạc, Đũa ngọc mâm vàng, Đất đỏ mây vàng, Đồng
trắng nƣớc trong, Gấm lam hoa bạc, Gạo trắng nƣớc trong, Gác tía
lầu hoa, Giấy trắng mực đen, Hộp bạc khay vàng, Kiệu bạc ngai
vàng, Lá ngọc cành vàng, Lá xanh bông thắm, Lá xanh bông trắng,
Má hồng răng đen, Má ngọc mình vàng, Má phấn răng đen, Má
phấn môi son, Má đỏ răng đen, Má trắng mày xanh, Má đỏ tóc xanh,
Mặt bủng da chì, Mây bạc trời hồng, Mây trắng trời xanh, Mực đen
giấy trắng, Mũ bạc đai vàng, Non xanh nƣớc bạc, Non xanh nƣớc
biếc, Nón bạc quai vàng, Nƣớc thắm non xanh, Nƣớc trắng non
xanh, Ngựa thắm võng đào, Quần vàng áo thâm, Quần hồng áo tía,
Quần thâm áo trắng, Ruột bầm gan tím, Tơ hồng chỉ thắm, Trời xanh
nƣớc biếc, Trời xanh đất đỏ mây vàng, Trời xanh muối trắng cát
vàng, Yếm thắm răng đen, Yếm đỏ răng đen, Yếm trắng dải điều,
Yếm thắm dải đào.
Như vậy, từ việc khảo sát thống kê các hằng thể kết hợp về
màu sắc trong ca dao, chúng tơi có bảng thống kê sau:
Bảng 2.6. Kết quả thống kê về số lần xuất hiện các hằng thể kết hợp
về màu sắc trong ca dao ngƣời Việt
Các loại cấu tạo
Số lần xuất hiện
Tỷ lệ (%)
hằng thể kết hợp
HTKH (ĐT/CĐT)
66
16,54%
HTKH (TT/CTT)
40
10,03%
HTKH (DT/CDT)
222
55,64%
HTKH (Cụm C-V)
71
17,79%
Tổng
399
100%
12
2.2.5. Đặc điểm về hằng thể kết hợp của tín hiệu thẩm mỹ
về màu sắc
Trong ca dao sử dụng đa dạng các loại tín hiệu thẩm mỹ
màu: màu trắng, màu xanh, màu vàng, màu tím, màu nâu, màu đỏ và
có sự hòa phối các màu. Dù là màu sắc nào thì cũng biểu hiện được ý
nghĩa thẩm mỹ mà tác giả dân gian thể hiện. Tiến hành khảo sát hằng
thể kết hợp của tín hiệu thẩm mỹ về màu sắc. Chúng tơi thống kê tất
cả các câu ca dao có liên quan đến các từ/ cụm từ có thể trực tiếp kết
hợp với các màu sắc trên để miêu tả cụ thể các đặc điểm của con
người, sự vật hiện tượng và trong mỗi lần xuất hiện chúng sẽ mang
thêm ý nghĩa biểu đạt mới làm phong phú thêm ý nghĩa thẩm mỹ của
tín hiệu thẩm mỹ cho các màu sắc.
2.3. Các biến thể của tín hiệu thẩm mỹ về màu sắc
Chúng tôi đã làm rõ hơn về biến thể từ vựng với kết quả
khảo sát thống kê như sau: Xanh xanh: Có đêm ra đứng vƣờn hoa/
Nom lên chỉ thấy sao tà xanh xanh; Xanh xao: Ai qua quán cháo
Đồng Giao/ Má hồng để lại, xanh xao mang về; Vàng vàng: Hỡi cơ
mặc áo vàng vàng/ Có về cửa Hội, cửa Trang thì về? Nước mắt, lụy,
lệ là những biến thể chỉ chung nước mắt kết hợp với màu hồng được
sử dụng trong các bài ca dao: Thơi gió đông lạc vợ xa chồng/ Nằm
đêm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi. Hay: Ra về én Bắc nhạn
Đông/ Đôi bên đơi ngả lệ hồng tn rơi/ Khốt màn lên thấy giƣờng
khơng/ Gối nghiêng, nệm chích, lụy hồng tn rơi.
2.4. Các kiểu kết hợp tín hiệu thẩm mỹ chỉ màu sắc trong
ca dao ngƣời Việt
Có kiểu kết hợp tín hiệu thẩm mỹ chỉ màu sắc trong ca dao
người Việt, đó là: kết hợp trong cấu trúc so sánh, kết hợp trong cấu
trúc song hành, kết hợp trong cấu trúc đối lập.
13
CHƢƠNG 3
GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA TÍN HIỆU THẨM MỸ VỀ MÀU
SẮC TRONG CA DAO NGƢỜI VIỆT
3.1. Tín hiệu thẩm mỹ về màu sắc biểu thị tuổi trẻ và tình
yêu
3.1.1. Tín hiệu thẩm mỹ về màu sắc biểu thị tuổi trẻ
Tín hiệu thẩm mỹ về màu sắc trong ca dao thể hiện vẻ đẹp
của tuổi trẻ với bao khát khao về cuộc sống tươi sáng. Chẳng hạn
màu mắt xanh được tác giả dân gian chú ý tái hiện như là vẻ đẹp tươi
trẻ của tuổi thanh xuân, đôi mắt xanh của cái nhìn tinh tường: Hỡi cơ
thắt dải lƣng xanh/ Ngày ngày thấp thống bên mành trơng ai?/
Trƣớc đƣờng xe ngựa bời bời/ Bụi đƣờng mờ mịt ai ngƣời mắt xanh!
Trong ca dao, màu xanh là màu có hàm ý biểu trưng cao. Màu xanh
tạo nên những gam màu tươi sáng biểu trưng cho tuổi thanh xuân:
Chim bay thẳng cánh trên trời/ Tội gì bỏ quá một đời xuân xanh.
Bên cạnh màu xanh, màu trắng trong trang phục của người phụ nữ
cũng thể hiện sự trẻ trung. Tuy nhiên, màu nâu bình dị được người
Việt quan tâm: Hỡi cơ yếm trắng lịa lịa/ Sao cơ khơng bảo mẹ già
nhuộm thâm. Trong ca dao, màu hồng xuất hiện biểu trưng cho
nguồn sống rạo rực, tuôn trào của thanh niên. Các sự vật có màu sắc
khác nhau nhưng khi qua mắt của người nghệ sĩ dân gian đều có thể
chuyển sang màu hồng: trời hồng, nắng hồng…
Ngồi ra, một tín hiệu thẩm mĩ cũng rất nổi bật trong ca dao
đó là hình ảnh “gót chân đỏ”. Đây là hình ảnh biểu trưng cho tuổi trẻ.
Một màu sắc nữa cũng biểu trưng cho sự tươi trẻ, trong trắng, đó
chính là màu son. Khi nói đến gót chân “son” là nói đến tuổi ấu thơ,
màu sắc của gót chân ở đây là biểu hiện cuộc sống của một con
người: sướng hay khổ, sang hay hèn: Cịn cha gót đỏ nhƣ son/ Đến
14
khi cha thác gót con đen sì. Màu son cịn tượng trưng cho con gái
tuổi còn trẻ, son trẻ chưa chồng con: Anh cịn son em cũng cịn son/
Ƣớc gì ta đƣợc làm con một nhà.
3.1.2. Tín hiệu thẩm mỹ về màu sắc biểu thị tình u, hơn
nhân
Trước tiên là màu xanh trong ca dao, màu xanh biểu trưng
cho vẻ đẹp của tình u đơi lứa: dải lƣng xanh, xn xanh, nụ tầm
xuân xanh biếc, cau xanh, trầu xanh, mắt xanh... Mặt xanh biểu
trưng cho trạng thái tâm lí lo lắng của cô gái, ăn miếng trầu nhà
người như là bước sang một ngã rẽ mới của cuộc đời: Lỡ khi ăn
miếng trầu xanh/ Đêm lo ngày sợ mặt xanh nhƣ chàm. Màu xanh
cũng biểu trưng cho sự thay đổi duyên phận, từ khi cây chưa ra hoa
đến khi nụ tầm xuân đã nở xanh biếc: Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc/
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay. “Khăn xanh”, “túi xanh” là các
vật dụng thanh tao chứa đựng vật thiêng liêng, quý giá dành cho tình
yêu: Khăn xanh khăn đƣợm mồ hôi/ Túi xanh túi đƣợm lấy đơi
miếng trầu. Các tín hiệu “tóc xanh”, “xn xanh” biểu trưng cho
người con gái trẻ trung. Thời gian trôi qua thì người con gái “tóc
xanh” cũng sẽ “lỡ chừng” dun phận: Đêm năm canh ngày cũng
năm canh/ Thƣơng ngƣời tuổi trẻ tóc xanh lỡ chừng. Khi yêu nhau,
xa cách chia li là điều không ai mong muốn. Cô gái đưa tiễn chàng
lên đường mà nước mắt tuôn rơi: Đƣa nhau một bƣớc lên đƣờng/ Cỏ
xanh hai dãy mấy hàng châu sa. “Cây xanh” biểu trưng cho sự sống,
màu xanh tình yêu vững bền mà cô gái ước ao luôn bên anh trọn đời:
Trồng cây cũng muốn cây xanh/ Gái duyên cũng muốn bên anh trọn
đời.
Bên cạnh màu xanh, màu vàng cũng thể hiện sự trường tồn
của tình cảm đơi lứa. Tín hiệu “gan vàng” ở đây biểu trưng cho tình
15
yêu không bao giờ thay đổi: Tằm ƣơm tơ, nhện cũng ƣơm tơ/ Gan
vàng sao khéo thờ ơ dạ vàng.
Trong ca dao, màu hồng được dùng với nhiều nghĩa biểu
trưng, trong đó chỉ duy nhất màu hồng được dùng để miêu tả nước
mắt: Biết thuở nào cho gặp mặt chồng/ Đêm khuya em hồi vọng
nƣớc mắt hồng tn rơi. Ra về én Bắc nhạn Đông/ Đôi bên đôi ngả
lệ hồng tn rơi.
Hình ảnh “tóc bạc” trong lời thề nguyền của chàng trai biểu
trưng cho chung thủy trọn đời trong tình cảm đôi lứa: Em ơi ta
nguyện cùng nhau/ Răng long, tóc bạc ta đừng quên nhau/ Trăm
năm quyết đợi quyết chờ/ Dẫu mà tóc bạc nhƣ tơ cũng đành.
Cặp đơi màu đen là sự tương xứng về bản chất, về tâm hồn
giữa chàng trai và cô gái, biểu trưng cho sự vừa đôi phải lứa của đôi
bạn trẻ: Áo đen đơm bộ khuy đen/ Mặc ai xa lạ ta cứ làm quen ở
làng. Ngoài ra, màu trắng tinh khiết cũng được dùng để khẳng định
sự trân trọng, một màu tinh khơi trong sáng của tình u: Trầu bọc
khăn trắng cau tƣơi/ Trầu bọc khăn trắng đãi ngƣời xinh xinh.
Những màu sắc được dùng để biểu thị tình yêu chủ yếu là
những màu sáng, tươi tắn: tơ hồng, chỉ hồng, mối hồng, chỉ đỏ, cau
xanh, trầu vàng, chén son, … là những từ ngữ chỉ việc kết duyên vợ
chồng, đồng thời biểu trưng cho lòng thủy chung son sắt của con
người: Tơ hồng chỉ thắm là duyên/ Bây giờ em thuận thì nên bây
giờ.
Hình ảnh “cau xanh trầu vàng” là hình ảnh biểu trưng cho sự
xứng đôi vừa lứa của đôi trai gái sau ngày cưới, sẽ có cuộc sống tốt
đẹp, sung túc. Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng/ Cau xanh ăn với
trầu vàng xứng chăng?/ Trầu vàng nhá lẫn cau xanh/ Duyên em
sánh với tình anh tuyệt vời. Chén rượu giao bôi, lời thề nguyền son
16
sắt thủy chung, khát khao hai đứa hai nơi cùng về chung một nhà,
vui niềm hạnh phúc vợ chồng: Chén son nguyện với trăng già/ Đôi
nơi đƣa lại một nhà vui chung…
Bên cạnh biểu trưng cho tình u đơi lứa, ca dao về màu sắc
cịn nhắc đến hơn nhân. Tín hiệu “chín vàng” ở bài ca này lại biểu
trưng một mùa vàng bội thu và gia đình no ấm, hạnh phúc: Trăng lên
cho lúa chín vàng/ Cho anh đi gặt, cho nàng quẩy cơm. Tín hiệu
“gác tía” biểu trưng cho gia đình giàu có, sang trọng: Em về cắt rạ
đánh gianh/ Chặt tre, chẻ lạt cho anh lợp nhà/ Sớm khuya hịa hợp
đơi ta/ Hơn ai gác tía lầu hoa một mình. Có thể thấy, tình u chân
thành đã giúp gia đình hạnh phúc lâu bền dù có ai muốn đem sự giàu
sang mua chuộc. Dù ai có cho “bạc” để đổi “chì” thì em với thủy
chung với “chì”: Trăm năm lòng gắn dạ ghi/ Dẫu ai đem bạc đổi chì
cũng khơng. Trong tình u cũng như trong hơn nhân, ngồi việc đã
tìm được hạnh phúc của cuộc đời, thì một số cặp đôi lại phải đối mặt
với vô vàn những trái ngang, phải sớm chịu cảnh chia lìa. Cặp tín
hiệu “đũa ngọc - mâm vàng” thể hiện sự xứng đôi vừa lứa nhưng cha
mẹ lại không đồng ý nên đành xa nhau, buồn thương lắm thay: Đôi
ta làm bạn thong dong/ Nhƣ đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng/ Vì
chƣng cha mẹ nói ngang/ Cho nên đũa ngọc mâm vàng xa nhau. Khi
đã mang trong mình một nguồn sáng mạnh mẽ của tình yêu sẽ làm
cho tình cảm con người dễ bị vấn vương, luyến tiếc. Tín hiệu “lạng
vàng” biểu trưng cho một giá trị lớn nhưng mất lạng vàng khơng tiếc
bằng mất em: Cịn đêm nay nữa mai về/ Lạng vàng không tiếc, kề
má son.
17
3.2. Tín hiệu thẩm mỹ về màu sắc biểu thị vẻ đẹp của
ngƣời phụ nữ
3.2.1. Vẻ đẹp hình thức
Trong ca dao, vẻ đẹp của người phụ nữ được miêu tả rất cụ
thể sinh động đến từng đường nét, từng chi tiết. Làn da trắng và mái
tóc dài là hai hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp người phụ nữ, đã trở
thành một khuôn mẫu cố định và tượng trưng cho tầng lớp con gái
quyền quý, giàu sang: Tiếc ngƣời da trắng tóc dài/ Bác mẹ gả bán
cho ngƣời đần ngu. Đôi mắt là yếu tố quan trọng để đánh giá tính
cách và bản chất của người phụ nữ kết hợp với “da đỏ hồng hào” thể
hiện vẻ đẹp khỏe mạnh, đầy sức sống thật hấp dẫn biết bao: Gái thời
da đỏ hồng hào/ Mắt đen lay láy ngƣời nào chẳng yêu. Cùng với đôi
mắt, “cái miệng xinh” và “răng đen” đã trở thành hình ảnh đặc trưng
cho người phụ nữ Việt ở thời phong kiến: Năm quan mua lấy miệng
cƣời/ Mƣời quan chẳng tiếc, tiếc ngƣời răng đen. Biểu trưng về
người phụ nữ, dân gian thường nói “má hồng, má đào”. Hình ảnh
“má hồng” biểu trưng cho người con gái đẹp, trẻ trung tạo nên sự
hấp dẫn, thu hút các chàng trai: Ai xui em có má hồng/ Để ngƣời
quân tử chƣa trơng đã thèm. Tín hiệu “tuyết” biểu trưng màu trắng,
da tuyết là da trắng ngần, kết hợp với “mơi son” thật hồn hảo: Thấy
em mắt phƣợng mơi son/ Mày ngài da tuyết, đào non trên cành.
Người nghệ sĩ dân gian đã miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ bằng
cách sử dụng gam màu thật đậm, thật sắc nét để đặt trong thế tương
phản “trắng phau phau” và “đen nhưng nhức”: Hai má nàng trắng
phau phau/ Răng đen nhưng nhức nhƣ màu hạt dƣa. Tuy nhiên
răng vàng vẫn xuất hiện trong ca dao, được sử dụng như một hình
ảnh ước lệ: Thấy em đẹp nói đẹp cƣời/ Đẹp ngƣời đẹp nết, lại tƣơi
răng vàng.
18
Vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ cịn thể hiện qua cách đi
đứng, ăn mặc, trang điểm… Ngày xưa, ta dễ dàng bắt gặp các cô gái
mặc chiếc yếm đầy duyên dáng. Yếm được người phụ nữ Việt sử
dụng rộng rãi vì nó biểu tượng cho sự nữ tính: Hỡi cơ yếm trắng lịa
xịa/ Yếm nhiễu, yếm vóc hay là trúc bâu/ Hay là lụa bạch bên Tầu/
Ngƣời cắt cũng khéo, ngƣời khâu cũng tài. Cùng với chiếc áo yếm,
chiếc khăn vuông đội đầu cũng luôn gắn với vẻ đẹp tươi tắn trên
khuôn mặt người phụ nữ: Tấm áo nâu sồng xếp nếp em để trong
nhà/ Ba vuông khăn tím phất phơ em đội đầu.
3.2.2. Vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn
Vẻ đẹp chuẩn mực của người phụ nữ đẹp là phải kết hợp
giữa cái đẹp hình thức với vẻ chân chất, mộc mạc tốt lên từ trong
tâm hồn cơ gái: Ai trắng như bơng, lịng tơi khơng chuộng/ Ngƣời
đó đen giịn, làm ruộng tơi thƣơng. Người phụ nữ có nhiều cái đẹp
khác nhau qua cách nhìn của tác giả dân gian. Hiểu được đạo lý và
bổn phận làm con nên người phụ nữ luôn luôn hiếu thảo với cha mẹ:
Mẹ cha trƣợng quá ngọc vàng/ Đền bồi sao xiết mn vàn cơng ơn.
Khi nói đến sự chuẩn mực, một dạ một lịng, khơng đổi thay xê dịch
thì tác giả dân gian sử dụng hình ảnh “lịng vàng”: Chớ đừng nay lại
ngày mai/ Chớ đừng di dịch, chớ sai lòng vàng. Có chồng, người
phụ nữ xác định rõ trách nhiệm, bổn phận của mình là lo cho gia
đình và làm tròn trách nhiệm con dâu trong nhà: Phụ mẫu thiếp cũng
nhƣ phụ mẫu chàng/ Hai bên phụ mẫu tạc bốn chữ vàng thờ chung.
Khơng chỉ vậy, nói về lịng chung thuỷ đáng quý của người phụ nữ,
chúng ta càng nể trọng hơn những người vợ trẻ khơng may góa bụa.
Mọi gánh nặng của gia đình trút cả lên bờ vai gầy yếu của họ. Màu
vàng trong trường hợp này biểu trưng cho thế giới bên kia của người
chết: Chồng em sớm thác suối vàng/ Em ở làm ri cho trọn nghĩa khói