PHỤ LỤC
TT
Nội dung
1
MỞ ĐẦU
2
NỘI DUNG
I
TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ ĐẢNG VIÊN QUA CÁC TÁC
PHẨM NGƯỜI VIẾT SAU CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI.
1-Tư cách người đảng viên cộng sản.
2-Những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng đội ngũ đảng viên theo
tư tưởng Lênin.
3-Ý nghĩa của việc nghiên cứu tư tưởng của V.I.Lênin về vấn đề đảng viên.
II
TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG QUA
CÁC TÁC PHẨM NGƯỜI VIẾT SAU CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI.
1-Vị trí, tầm quan trọng của tổ chức cơ sở Đảng.
2-Các nguyên tắc tổ chức của Đảng.
3-Ý nghĩa tư tưởng của Lênin về tổ chức cơ sở Đảng.
III
TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ CÔNG TÁC BẢO VỆ ĐẢNG QUA
CÁC TÁC PHẨM NGƯỜI VIẾT SAU CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI.
123-
IV
TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM
SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG VIÊN VÀ TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG.
1-Tư tưởng của V.I.Lênin về công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của
đảng viên.
2-Tư tưởng của V.I.Lênin về công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ
chức cơ sở Đảng.
3-Ý nghĩa của việc nghiên cứu tư tưởng của Lênin về công tác kiểm tra,
giám sát.
3
KẾT LUẬN
1
Trang
MỞ ĐẦU
Sau cách mạng Tháng Mười vấn đề Đảng cầm quyền luôn được V.I.Lênin quan
tâm và đã được ông đề cập trong nhiều bài viết và tác phẩm lý luận. Tuy khơng có
những tác phẩm lớn, chun sâu nhưng những vấn đề cơ bản về Đảng cộng sản cầm
quyền đã được Người luận chứng một cách có hệ thống. Đó là những vấn đề về vị trí,
vai trị lãnh đạo của Đảng, về chức năng quản lý của Nhà nước, nhiệm vụ các đoàn thể
nhân dân, về quyền làm chủ của nhân dân, về phương thức lãnh đạo của Đảng, về
công tác cán bộ, công tác đảng viên, công tác tư tưởng, về xây dựng sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng…
Phát triển quan điểm của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin đã xây dựng chính Đảng
kiểu mới của giai cấp cơng nhân và chính Đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân Nga đã
thực hiện vai trị lãnh đạo giai cấp cơng nhân Nga hoàn thành nhiệm vụ lịch sử thế giới
của mình. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917
đã mở ra một kỷ nguyên mới đưa cả loài người quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng, Đảng có vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức mới có khả năng tạo lập, giữ vững và khơng
ngừng nâng cao được vai trị đó.
Sức mạnh của Đảng được tạo thành và củng cố từ sự vững mạnh của mỗi tổ chức
Đảng và đội ngũ đảng viên cùng với việc thực hiện đầy đủ, đúng đắn những nguyên tắc
tổ chức của Đảng. Mặt khác, sức mạnh của Đảng cũng được tạo ra và nhân lên từ cơ sở
xã hội của Đảng là quần chúng nhân dân và mối quan hệ mật thiết, hàng ngày giữa Đảng
với nhân dân. Quần chúng tín nhiệm và tin tưởng Đảng khơng chỉ căn cứ vào đường lối,
chủ trương của các cơ quan lãnh đạo Đảng mà cịn thơng qua các tổ chức của Đảng và
các đảng viên của đảng.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định: phải tự đổi mới, tự chỉnh
đốn và đổi mới, chỉnh đốn Đảng là tiền đề để đổi mới xã hội. Là một Đảng chiến đấu,
một Đảng hành động, Đảng ta coi công tác đảng viên là một trong những vấn đề có tầm
quan trọng hàng đầu. Chất lượng của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên phản ánh trực
2
tiếp và cụ thể chất lượng của Đảng. Nâng cao chất lượng đảng viên sẽ góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, từ đó nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng. Trong điều liện hiện nay, vấn đề này
càng trở nên quan trọng và cần thiết, khi mà “Khơng ít tổ chức đảng yếu kém, nhất là
ở cơ sở, khơng làm trịn vai trị hạt nhân chính trị và nền tảng của Đảng, khơng đủ
sức giải quyết những vấn đề phức tạp nẩy sinh từ cơ sở, thậm chí có những tổ chức cơ
sở đảng tê liệt, mất sức chiến đấu. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả
một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; thiếu tính
chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, giảm súc lòng tin, phai nhạt lý tưởng…”1
Trước yêu cầu khách quan và thực tế công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng ta hiện
nay, thì việc nghiêm túc nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển quan điểm tư tưởng
của V.I.Lênin "về đảng viên, tổ chức cơ sở đảng, công tác bảo vệ Đảng, công tác kiểm
tra, giám sát hoạt động của đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu những tư tưởng này” đây là việc làm có ý nghĩa hết sức thiết thực và cần thiết để
chúng ta xây dựng Đảng thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ sức lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới đất nước trong thời kỳ hội nhập mở cửa.
1
Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, HN, 2006, tr263
3
NỘI DUNG
I. TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ ĐẢNG VIÊN QUA CÁC TÁC PHẨM
NGƯỜI VIẾT SAU CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI
1. Tư cách người đảng viên cộng sản.
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười, khi đã trở thành Đảng cầm quyền,
nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã
hội, quản lý đất nước. Đây là nhiệm vụ mới mẽ và đầy khó khăn, vì phải tổ chức theo
phương thức mới, những cơ sở kinh tế của đời sống hàng chục, hàng trăm triệu con
người. V.I.Lênin đã phát triển những quan điểm của mình về vai trị, hình mẫu, tiêu
chuẩn người đảng viên cộng sản đáp ứng nhiệm vụ của giai đoạn mới.
Khi chưa giành được chính quyền, tại chương I, Điều lệ của Đảng công nhân dân
chủ - xã hội Nga, V.I.Lênin khẳng định: “Tất cả những người nào thừa nhận cương lĩnh
của Đảng và ủng hộ Đảng bằng những phương tiện vật chất cũng như bằng cách tự mình
tham gia vào một trong những tổ chức của Đảng, thì được coi là đảng viên của Đảng”2.
Khi đã giành được chính quyền, trong tác phẩm “Nhà nước của cơng nhân và tuần lễ
Đảng” V.I.Lênin khẳng định: “Chỉ có những người chân thành đi theo chủ nghĩa cộng
sản, chỉ những ai thành tâm trung thành với nhà nước công nhân, chỉ có những người
lao động trung thực, chỉ có những đại biểu thật sự của quần chúng bị áp bức dưới thời
chủ nghĩa tư bản, mới vào Đảng được”3. Theo V.I.Lênin, tiêu chuẩn của người đảng viên
cộng sản trong điều kiện Đảng cầm quyền thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
- Đảng viên cộng sản là người giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Điều đó thể hiện ở sự tự nguyện nhiệt thành đi theo chủ nghĩa cộng sản, trung
thành tuyệt đối với hệ tư tưởng của giai cấp cơng nhân, với sự nghiệp giải phóng giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động. Sự giác ngộ, lòng trung thành ấy phải được thể hiện
bằng sự nhất trí, tin tưởng, gương mẫu chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, khơng địi hỏi lợi lộc, sẵn sàng
2
3
V.I.Lênin tồn tập, Nxb tiến bộ M , 1979, t 7, tr 312.
Sđd, 1979, t 39, tr 256.
4
gách vác một công tác gian khổ hơn và nguy hiểm hơn. Trong bài “Báo cáo về vai trò và
nhiệm vụ của cơng đồn tại phiên họp của Đảng đồn Đảng cộng sản trong Đại hội
ngày 23 tháng giêng” V.I.Lênin viết: “Trong Đảng, chúng ta cũng đã đấu tranh hơn 20
năm, chúng ta đã chứng minh bằng việc làm, chứ khơng phải bằng lời nói sng cho
cơng nhân thấy rằng Đảng là một tổ chức đặc biệt, đảng cần có những con người giác
ngộ, sẵn sàng hy sinh tính mạng, đảng phạm sai lầm thì đảng sửa nhữa, đảng lãnh đạo
và lựa chọn những người biết rõ con đường mà chúng ta sẽ đi, biết rõ khó khăn mà
chúng ta sẽ gặp”4
-Đảng viên cộng sản phải có trình độ văn hố, lý luận, chun mơn nghiệp vụ
và năng lực hồn thành nhiệm vụ được giao.
Người đảng viên của một Đảng cầm quyền khơng chỉ có lịng nhiệt tình cách
mạng, mà cịn phải có tri thức, có trình độ văn hố. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, người đảng viên cộng sản được bố trí vào hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời
sống chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội của đất nước, vì vậy họ phải thấu hiểu cơng việc
mà mình được giao, nghĩa là phải có tri thức nhất định, phải thơng thạo chun mơn. Cái
thiếu của người đảng viên cộng sản chính là ở “ trình dộ văn hố”, làm cho họ gặp nhiều
khó khăn trong việc hoàn thành nhiệm vụ được giao và giữ vững vai trò lãnh đạo, làm
tròn vai trò chiến sĩ tiên phong trước quần chúng trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã
hội. V.I.Lênin dạy rằng: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu
trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”5.
V.I.Lênin đã dặn đi dặn lại những người cộng sản rằng: nếu chỉ có nhiệt tình và lịng
dũng cảm khơng thơi thì khơng thể chiến thắng được chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, mặc dù nhiệt tình cách mạng và lịng dũng cảm là yếu tố cực kỳ
quan trọng. Để chiến thắng được chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, những người cộng sản cịn phải có kiến thức, có trình dộ văn hóa cao, có trí thơng
minh và năng lực làm việc. Muốn thế phải không ngừng học tập, học tập một cách kiên
trì và nghiêm túc; đừng bằng lịng với những kinh nghiệm của mình; kiêu ngạo cộng sản
4
5
Sđd, 1977, t 42, tr 315.
Sđd, 1979, t 41, tr 362.
5
là báo hiệu sự tục hậu. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, những người cộng sản, -dù đó là
những người cộng sản đã từng làm nên cuộc cách mạng vĩ đại chưa từng thấy trên thế
giới, -vẫn cần phải học tập, học tập ngay một người bán hàng tầm thường. Người sẵn
sàng đổi một tá những người cộng sản kém hiểu biết để lấy một chun gia thành thạo
cơng việc, dù đó là chun gia tư sản. Vì vậy, V.I.Lênin cịn u cầu những người cộng
sản “ phải biết quý trọng khoa học, gạt bỏ thái độ huênh hoang “cộng sản” của những
nhà tài tử và của những anh chàng quan liêu, phải học tập làm việc một cách có hệ
thống, sử dụng chính ngay kinh nghiệm của mình và thực tiễn của mình!”6.
-Người đảng viên cộng sản phải có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
V.I.Lênin đòi hỏi rất nghiêm khắc đối với đảng viên cộng sản về ý thức tổ chức,
tính kỷ luật. Người phê phán kịch liệt những thói quen dẫn đến vi phạm kỷ luật đảng như:
tính tự do tiểu tư sản, tính tản mạn, vơ tổ chức kỷ luật, chia rẽ, bè phái… Đảng cầm
quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước mà giai cấp vơ sản chiếm thiểu
số trong dân cư thì “chính đảng của giai cấp vơ sản phải thực hiện được, trong nội bộ
của mình, một chế độ tập trung chặt chẽ và một kỷ luật nghiêm ngặt”7.
-Người đảng viên cộng sản phải gắn bó mật thiết với quần chúng, giáo dục, tổ
chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, là tấm gương
mẫu mực cho quần chúng noi theo.
V.I.Lênin viết: “Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải là việc riêng của
Đảng cộng sản… mà là việc của tất cả quần chúng lao động”8. Sức mạnh của Đảng là ở
sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân. Vì thế, “chỉ trơng vào bàn tay của những người
cộng sản để xây dựng xã hội cộng sản, đó là một tư tưởng hết sức ngây thơ. Những
người cộng sản chỉ là một giọt nước trong đại dương, một giọt nước trong đại dương
nhân dân”9. Song, họ có thể lãnh đạo nhân dân đi theo con đường của mình nhờ họ vạch
ra được và gương mẫu thực hiện đường lối, chính sách đúng đắn, gắn bó mật thiết với
quần chúng, tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng hiểu và tổ chức quần chúng thực hiện
Sđd, 1977, t 42, tr 431.
Sđd, 1979,t 41, tr 34.
8
Sđd, 1978, t 45, tr 110-111.
9
Sđd, t45, tr 117
6
7
6
thắng lợi đường lối, chính sách ấy. Trong q trình đó, đảng viên phải nêu tấm gương
mẫu mực về lịng trunh thành với chủ nghĩa cộng sản, về ý thức tổ chức kỷ luật, phẩm
chất đạo đức và lối sống, nhất là học tập và công tác. Trong quan hệ với quần chúng,
đảng viên phải tìm hiểu, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng và các sáng kiến của họ, phải
giải quyết các nhu cầu chính đáng của nhân dân, nhưng khơng được hạ thấp trình độ của
mình xuống ngang với quần chúng, không được mị dân, theo đuôi quần chúng.
2. Những vấn đề có tính ngun tắc trong xây dựng đội ngũ đảng viên theo tư
tưởng của V.I.Lênin.
Thứ nhất: phải xác định đúng đắn bản chất chính trị của Đảng, coi đó là căn
cứ, là phương hướng chỉ đạo tồn bộ q trình xây dựng đội ngũ đảng viên.
Đảng viên là tế bào tạo nên Đảng cho nên đảng viên phải thể hiện bản chất chính
trị của Đảng. Theo V.I.Lênin mỗi một Đảng đều mang bản chất chính trị riêng, bản chất
này xét cho cùng đều do hệ tư tưởng, đường lối, tính chất của Đảng đó quy định. Đảng
bảo vệ lợi ích của giai cấp nào? Đảng đề ra cho mình những mục tiêu gì?, cố gắng đạt
được mục tiêu ấy bằng phương pháp nào? …Từ đó Đảng sẽ quy định Đảng gồm có
những ai, Đảng yêu cầu gì đối với đảng viên của mình và giao cho họ những quyền gì?
Trong Luận cương về những nhiệm vụ cơ bản của Đại hội II Quốc tế cộng sản, V.I.Lênin
khẳng định: “Chỉ Đảng Cộng sản, nếu nó thật sự là đội tiên phong của giai cấp cách
mạng, nếu nó bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp đó, nếu nó gồm tất cả
những chiến sĩ cộng sản hồn tồn có ý thức và trung thành, có học vấn và được tôi
luyện bằng kinh nghiệm đấu tranh cách mạng bền bĩ, nếu nó biết gắng liền với tồn bộ
cuộc sống của giai cấp mình và thơng qua giai cấp đó gắn liền với tất cả quần chúng bị
bóc lột, và biết làm cho giai cấp và quần chúng đó tin tưởng hồn tồn vào mình, chỉ có
một Đảng như vậy mới lãnh đạo được giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cuối cùng,
kiên quyết nhất, thẳng tay nhất chống lại mọi thế lực của chủ nghĩa tư bản”10.
Thứ hai: phải chặt chẽ “đầu vào”- Công tác phát triển đảng viên phải đúng
tiêu chuẩn, trình tự và thủ tục.
10
Sđd, 1979, t 41, tr 227
7
Theo V.I.Lênin Đảng phải coi trọng việc kết nạp vào hàng ngũ của mình những
người ưu tú và tiên tiến của giai cấp công nhân cũng như các tầng lớp khác trong xã hội.
Trong “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị VIII toàn Nga
ngày 2 tháng chạp năm 1919, Người viết: “Mỗi bước đi của chúng ta phải đi đôi với việc
chúng ta thu hút những người trong giai cấp công nhân và những người đáng tin cậy
nhất trong các giai cấp khác vào Đảng” 11. Vào Đảng phải là những người trung thành
với sự nghiệp của giai cấp công nhân, với lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Đảng kết nạp
những người ưu tú, đủ tiêu chuẩn trong giai cấp công nhân, giai cấp nơng dân, tầng lớp
trí thức và nhân dân lao động vào Đảng, nhưng Đảng yêu cầu những người xuất thân từ
các giai cấp, tầng lớp khác ngoài giai cấp công nhân khi vào Đảng phải tiếp thu thế giới
quan vô sản. Là đảng viên cộng sản dù hoạt động ở lĩnh vực nào, dù thành phần xuất thân
từ giai cấp nào, tầng lớp nào cũng phải luôn luôn là người đại diện cho lợi ích của giai
cấp cơng nhân, đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp cơng nhân để phấn
đấu cho mục đích, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Khi kết nạp quần chúng ưu tú vào Đảng,
theo V.I.Lênin nếu là đồn viên thanh niên thì “…Cần phải quy định những điều kiện
chặt chẽ hơn và kiểm tra để xác định là các đoàn viên thanh niên cộng sản được kết nạp
vào đảng, thứ nhất, đã học tập thật sự nghiêm túc và đã hoc tập được một cái gì đấy, và
thứ hai, đã trãi qua một thời gian dự bị dài làm những công tác thực tế nghiêm túc (kinh
tế, văn hố…)”12; “đối với cơng nhân thì phải có sự giới thiệu của đảng viên có 3 tuổi
đảng, đối với nơng dân và chiến sĩ hồng quân- 4 tuổi đảng, với các tầng lớp khác – 5
tuổi đảng.”13 . Người còn lý giải rằng quá trình hình thành người cộng sản khơng phải đã
hồn thành ở việc kết nạp đảng, tổ chức đảng cần nổ lực nhiều hơn để rèn luyện tư tưởng
cho đảng viên mới và các đảng viên dự bị. Theo V.I.Lênin “ việc kéo dài thời gian dự gị
của đảng viên mới là hết sức quan trọng…Tôi đề nghị chỉ để sáu tháng đối với những
công nhân nào đã thực tế làm việc trong các xí mghiệp cơng nghiệp lớn ít nhất 10 năm.
Quy định thời gian dự bị là một năm rưỡi đối với những công nhân khác, hai năm đối với
nông dân và những chiến sĩ hồng quân và ba năm đối với các thành phần khác. Những
Sđd, 1977, t 39, tr 407
Sđd, 1978, t44, tr 351-352
13
Sđd, 1978, t 45, tr 21
11
12
8
trường hợp ngoại lệ đặc biệt, thì phải được Ban chấp hảnh Trung ương cùng với ban
kiểm tra Trung ương phê chuẩn”14. Trong thời gian dự bị, tổ chức đảng kiểm tra tồn bộ
phẩm chất chính trị, cơng tác, đạo đức của người được kết nạp, giáo dục họ theo tinh thần
cộng sản chủ nghĩa. V.I.Lênin lưu ý rằng, rất cần xem xét “những người đảng viên dự bị
có thật sự là những người công sản đã được thử thách ít nhiều khơng”. Do đó, V.I.Lênin
đã thảo ra những điều kiện, yêu cầu bắt buộc đối với đảng viên mới.
“1) tăng thêm tất cả các loại thời gian dự bị;
2)quy định hết sức chi tiết nội dung thật sự của thời gian dự bị là gỉ, những điều
kiện cụ thể và thực tế của sự kiểm tra là những gì để chứng thực rằng thời gian dự bị
thật sự là thời gian thử thách, chứ khơng phải là hình thức trống không;
3)trong các cơ quan giải quyết vấn đề kết nạp đảng viên mới, các nhân viên cơng
tác có trình độ chuyên môn cao cần chiếm đa số;
4)công tác kết nạp đảng viên mới không những phải tuân theo nghị quyết của các
tỉnh ủy, mà còn phải tuân theo nghị quyết của các ban kiểm tra nữa;
5)còn cần phải đề ra một số biện pháp nhằm làm cho Đảng có thể gạt bỏ ra khỏi
Đảng một cách dễ dàng hơn những đảng viên nào hồn tồn khơng phải là những đảng
viên cộng sản hồn tồn tự giác thực hiện chính sách của giai cấp vô sản”15
Thứ ba: Đảng phải thường xuyên giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng mọi mặt cho
đảng viên ngang tầm với nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn.
V.I.Lênin rất quan tâm đến vấn đề giáo dục, đào tạo đội ngũ các bộ đảng viên có
trình độ để phục vụ sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. Đối với đảng viên, vấn đề
đầu tiên là phải ra sức học tập đề nâng cao trình độ lý luận, V.I.Lênin rất đề cao vai trò
của lý luận cách mạng, “khơng có lý luận cách mạng thì khơng thể có phong trào cách
mạng”, “chỉ Đảng nào có được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng
làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”
14
15
Sđd, 1978, t45, tr 22
Sđd, 1978, t45, tr 25
9
Để xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa đòi hỏi mọi đảng viên phải không ngừng
học tập để nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật và chuyên môn công tác.
V.I.Lênin cho rằng: “không thể xây dựng một xã hội chủ nghĩa cộng sản trong một nước
có những người mù chữ”16. Cái thiếu của nước Nga sau khi giành chính quyền khơng
phải là thiếu lịng trung thành, ý chí quyết tâm cách mạng, mà cái thiếu quan trọng nhất là
kiến thức. Do đó để xây dựng chủ nghĩa cộng sản, V.I.Lênin thường xuyên kêu gọi, tuyên
truyền cho việc học tập đối với cán bộ, đảng viên và tồn thể nhân dân.
V.I.Lênin ln nhắc nhỡ cán bộ phải khiêm tốn, cầu thị trong học tập, kể cả phải
học những chuyên gia tư sản. Mặt khác Người cũng nghiêm khắc phê phán tính tự phụ và
quan liêu chủ nghĩa, V.I.Lênin viết: “hãy bớt tính tự phụ và quan liêu chủ nghĩa đi, hãy
nghiên cứu nhiều hơn nữa những cái mà kinh nghiệm thực tế chúng ta ở Trung ương
cũng như địa phương đem lại, và những cái mà khoa học đã đem lại cho chúng ta”17.
Để có được những yêu cầu trên, người đảng viên phải ra sức rèn luyện mình,
V.I.Lênin khẳng định “ Chúng ta chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa cộng sản từ tổng số
những kiến thức, các tổ chức và thiết chế bằng các số dự trữ nhân lực mà xã hội đã để lại
cho chúng ta, chỉ có cải tổ triệt để việc dạy dỗ, việc tổ chức và giáo dục thanh niên, thì
chúng ta mới có thể bằng những cố gắng của thế hệ trẻ đạt được kết quả là xây dựng nên
một xã hội không giống xã hội cũ tức là xã hội cộng sản” 18. V.I.Lênin cịn nhắc nhỡ rằng,
chính qua việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, qua hoạt động trong tổ chức của
Đảng, tắm mình trong phong trào cách mạng sôi nổi của quần chúng và sử dụng tốt vũ
khí phê bình và tự phê bình thì người đảng viên mới trưởng thành, được tơi luyện có
những phẩm chất cao quý, tốt đẹp.
Thứ tư: Đảng phải thường xuyên tiến hành sàng lọc, đưa ra khỏi Đảng những
đảng viên không đủ tiêu chuẩn.
Theo V.I.Lênin khi Đảng đã cầm quyền, thì lẽ tự nhiên cán bộ, đảng viên có chức,
có quyền, đó là lẽ đương nhiên và bọn cơ hội tìm mọi cách chui vào Đảng, V.I.Lênin đặc
Sđd,1979, t41, tr 374
Sđd, 1977, t 42, tr 357
18
Sđd, 1979, t41, tr 357
16
17
10
biệt coi trọng chất lượng đảng viên và phê phán khuynh hướng chạy theo số lượng, kết
nạp vào Đảng những đảng viên vô dụng, không lãnh đạo được quần chúng, đồng thời
V.I.Lênin cũng quan tâm đến việc đưa ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội, biến chất,
gây chia rẽ trong nội bộ Đảng. Theo V.I.Lênin “những đảng viên hữu danh vơ thực thì
cho khơng chúng ta cũng khơng cần. Đảng độc nhất nắm chính quyền trên thế giới quan
tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng viên, đến việc thanh trừ “bọn luồn lọt vào đảng”
ra khỏi hàng ngũ mình, chứ khơng phải là quan tâm làm tăng thêm số lượng đảng viên,
đó chính là đảng chúng ta, đảng của giai cấp công nhân cách mạng”19 , “Chúng ta cần
có những đảng viên mới khơng phải để quảng cáo mà là để làm việc thật sự. Những
người đó chúng ta kêu gọi họ vào hàng ngũ chúng ta”20. Khi đã có chính quyền, nhiều
đảng viên cộng sản mắc phải bệnh ba hoa, nói dài rỗng tuếch trước quần chúng nhưng lại
không biết lãnh đạo, tổ chức những công việc hàng ngày trong sản xuất, đời sống. trong
“Sáng kiến vĩ đại” V.I.Lênin viết: “Hãy bớt những lời hoa mỹ đi, hãy làm thêm những
cơng việc hàng ngày”. Khi có chính quyền, V.I.Lênin đặc biệt phê phán kịch liệt những
tệ nạn tham ô, hối lộ, lạm dụng quyền hành, vi phạm pháp luật nhà nước. Theo V.I.Lênin
thì “cần phải đuổi ra khỏi Đảng những kẽ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan
liêu hóa, khơng trung thực, nhu nhược và những người Mensêvích, tuy bề ngồi đã được
phủ một lớp sơn mới nhưng trong tâm hồn vẫn là Mensêvích” 21, Người cịn u cầu Đảng
lãnh đạo chính quyền khơng được bao che và đòi hỏi phải xử phạt những đảng viên phạm
lỗi phải nghiêm khắc hơn những người khác.
Hơn nữa, V.I.Lênin cho rằng thanh đảng là một hình thức cần thiết để làm trong
sạch đội ngũ đảng viên, bởi vì thanh đảng cho phép có thể khai trừ hàng loạt những đảng
viên thuộc những tầng lớp không đáng tin cậy, khơng cịn đáp ứng u cầu nhiệm vụ
mới, nhanh chóng thu hẹp đảng đến mức có thể kiểm sốt được. Thanh đảng đúng “nó sẽ
làm cho đảng trở thành đội tiên phong của giai cấp vô sản vững mạnh hơn trước nhiều,
nó sẽ làm cho đảng trở thành đội tiên phong có liên hệ vững chắc hơn với giai cấp ấy, có
khả năng hơn để đưa giai cấp ấy đi đến thắng lợi giữa vơ vàn khó khăn nguy hiểm” 22.
Sđd, 1977, t 39, tr 255
Sđd, 256
21
Sđd, 1978, t 44, tr 154
22
Sđd, 1978, t44, tr 152
19
20
11
Tuy nhiên V.I.Lênin lưu ý phải thận trọng để đề phòng các sai lầm, đồng thời tiến hành
nhiều biện pháp đồng bộ của cơng tác xây dựng đảng thì mới đảm bảo làm trong sạch đội
ngũ đảng viên.
Thứ năm: Đảng phải luôn luôn chú ý cơ cấu hợp lý thành phần đảng viên
trong Đảng.
Cơ cấu đội ngũ đảng viên do bản chất của Đảng quyết định, Đảng mácxít là đội
tiên phong của giai cấp cơng nhân, ngồi ra cịn có các giai cấp, tầng lớp lao động khác.
Do đó theo V.I.Lênin trong cơ cấu đội ngũ đảng viên thành phần công nhân phải được ưu
tiên, phải chiếm đa số. Thành phần cơng nhân chiếm nhiều hay ít, tăng hay giảm ảnh
hưởng trực tiếp đến tính chất vơ sản của Đảng. V.I.Lênin luôn luôn quan tâm đến việc
tăng cường thành phần công nhân trong đảng, khi cách mạng thành công, V.I.Lênin kêu
gọi công nhân và nông dân gia nhập Đảng, Người cho rằng: “có thể và cần phải có số
cơng nhân và nông dân lao động ngày càng nhiều để lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội”23 và “chúng ta chỉ kêu gọi vào đảng với số lượng đông đảo những cơng
nhân bình thường và nơng dân nghèo, nơng dân lao động thôi”24.
Bên cạnh việc đề cao và phấn đấu bảo đảm thành phần công nhân trong đảng,
V.I.Lênin cho rằng Đảng cũng cần thu nhận các phần tử ưu tú trong giai cấp nơng dân,
Hồng qn, trí thức và các thành phần khác, nhưng các đối tượng này phải được lựa
chọn, thử thách thật thận trọng và trong mọi trường hợp thật cần thiết, và chú ý “không
được đưa và đảng những phần tử sống bằng bóc lột lao động người khác”25
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tư tưởng của V.I.Lênin về vấn đề đảng viên.
Tư tưởng của V.I.Lênin về hình mẫu, tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản và
những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng có ý nghĩa hết sức
lớn lao trong công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay. Việc nghiên cứu, học tập
một cách nghiêm túc tư tưởng đó sẽ giúp cho Đảng ta có cơ sở khoa học trong việc xây
Sđd, 1977, t 39, tr 257
Sđd, tr 256
25
Sđd, 1978, t45, tr 572
23
24
12
dựng hình mẫu, tiêu chuẩn người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở đó làm
tốt hơn cơng tác xây dựng đội ngũ đảng viên của đảng đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Trung thành với học thuyết về xây dựng chính Đảng cách mạng của giai cấp công
nhân, từ thực tiễn cách mạng Việt Nam Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào việc chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên, đặc biệt là tư cách người đảng viên
cộng sản giữ một vị trí quan trọng trong cơng tác xây dựng đảng nói riêng và trong sự
nghiệp cách mạng của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động nói chung. Đảng viên là
lực lượng nòng cốt trong bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước, sức chiến đấu và năng
lực lãnh đạo của đảng cao hay thấp, việc tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước đạt hiệu quả nhiều hay ít phụ thuộc rất lớn ở chất lượng
đội ngũ đảng viên của Đảng.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đưa ra hình mẫu, tiêu chuẩn người đảng viên cộng sản rất phong phú và sâu sắc, có thể
khái quát một số nội dung chủ yếu sau đây.
Người đảng viên cộng sản phải là người:
- Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênnin; kiên trì phấn đấu vì sự nghiệp cách
mạng của dân tộc và của nhân loại; kết hợp tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
- Vừa có tài, vừa có đức, đức là gốc; tích cực rèn luyện, nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
- Gắn bó mật thiết với nhân dân; ln lấy dân làm gốc; vừa là người lãnh đạo, vừa
là người đày tớ thật trung thành của nhân dân; thống nhất lời nói với vịêc làm; thực hiện
“đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết.
- Ln giữ gìn đồn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.
- Kiên quyết đấu tranh chống các tư tưởng và hành động sai trái, phản động, trước
hết là chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, bệnh giáo điều.
13
- Chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước.
Vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của Người, Đảng ta đã đề ra chuẩn mực về
tư cách người đảng viên cộng sản phù hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng hiện nay.
Điều I, Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta ghi rõ:
“Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt
lợi ích của tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá
nhân, chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh chính trị, điều lệ Đảng, các nghị quyết của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối
sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng,
giữ gìn đồn kết thống nhất trong Đảng”.26
II.TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG QUA CÁC
TÁC PHẨM NGƯỜI VIẾT SAU CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI.
1.Vị trí, tầm quan trọng của tổ chức cơ sở đảng.
- Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân tổ chức cơ bản của Đảng và có quan hệ mật
thiết với tồn Đảng.
Sau khi giành được chính quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, V.I.Lênin càng
coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng làm nền tảng và hạt nhân chính trị. Để giành thắng
lợi trong nội chiến cách mạng giữ vững chính quyền, xây dựng đất nước, thực hiện
chun chính vơ sản, V.I.Lênin dạy: “Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với
Trung ương đảng, phải trao đổi những kinh nghiệm cho nhau, phải làm công tác cổ
động, tun truyền, cơng tác tổ chức phải thích nghi với mọi lĩnh vực đời sống xã hội, với
tất cả mọi loại và mọi tầng lớp lao động. Những chi bộ ấy phải thơng qua cơng tác mn
hình mn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng một
cách có hệ thống”27.
26
27
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, HN, 2006, tr7
V.I.Lênin, toàn tập, Nxb TB M, 1979, t 41, tr 232,233
14
Trong thời kỳ Đảng tập trung lãnh đạo kinh tế, đặc biệt là thực hiện chính sách
kinh tế mới, V.I.Lênin cho rằng vai trò của tổ chức cơ sở đảng càng quan trọng, theo
Ông, để giành thắng lợi trong bước chuyển biến chiến lược này, phải không ngừng nâng
cao vai trò tổ chức cơ sở đảng , Người chỉ ra cho các tổ chức cơ sở đảng, các tổ chức Xô
viết: “phải đem hết lực lượng, đem hết chú ý để tạo ra, để phát huy một tính chủ động
rộng lớn hơn ở cơ sở”. Nhờ có nhiều biện pháp xây dựng nâng cao vai trò tổ chức cơ sở
đảng, phát huy tính năng động, sáng tạo ở cơ sở mà nhiều nhiệm vụ, mục tiêu của chính
sách kinh tế mới của Nhà nước Xô Viết được thực hiện trong thực tiễn. Đó là chuyển
biến tích cực thể hiện vai trị, tác dụng trong q trình lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
- Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, phân công công tác,
quản lý và sàng lọc đảng viên.
Khi trở thành Đảng cầm quyền, V.I.Lênin yêu cầu người đảng viên phải lao vào
hoạt động thực tiễn, phải “thơng qua cơng tác mn hình mn vẽ” của các chi bộ mà rèn
luyện. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội đảng viên phải gương mẫu hoạt động ở cơ sở,
phải năng động sáng tạo trong nhiệm vụ, để nâng cao năng xuất lao động và củng cố xây
dựng nội bộ đảng. Người chỉ ra: Phải thông qua “Sáng kiến vĩ đại” để vạch mặt bọn cơ
hội chui vào đảng. V.I.Lênin gọi đó là bọn “chó hết” và để chúng “cút đi cho rảnh”.
Thông qua lao động sáng tạo mà thử thách đảng viên, nâng cao uy tín của đảng bằng
hành động của đảng viên ở cơ sở, tạo nên sự gắn bó tin tưởng của nơng dân, nhân dân lao
động vào Nhà nước vô sản, vào chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình xây dựng, phát triển
của Đảng, V.I.Lênin coi việc thanh đảng để loại bỏ những phần tử cơ hội, thoái hoá, biến
chất ra khỏi Đảng là vấn đề nghiêm túc, đặc biệt nghiêm trọng để sàng lọc đội ngũ đảng
viên thì vấn đề cần thiết là thông qua cơ sở, qua quần chúng, qua thực tiễn hoạt động thì
tiến hành mới chính xác được.
- Tổ chức cơ sở đảng là nơi liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nơi giáo dục, dẫn
dắt, định hướng hoạt động của quần chúng theo lý tưởng của Đảng.
Nhiệm vụ hàng đầu khi chưa giành chính quyền V.I.Lênin xác định là tập hợp lực
lượng. Do đó phải thuyết phục quần chúng thấy rõ tính đúng đắn của cương lĩnh, sách
15
lược, Đảng Cộng sản phải gương cao ngọn cở cương lĩnh để tập hợp quần chúng. Để thực
hiện được nhiệm vụ đó, các chi bộ đảng phải ra sức tuyên truyền cho quần chúng nhận
thức được lý luận cách mạng, mục tiêu lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Còn sau khi giành
được chính quyền, các tổ chức đảng phải lãnh đạo nhân dân đập tan chính quyền cũ và
giai cấp bóc lột, bắt tay ngay vào xây dựng xã hội mới, xây dựng phát triển kinh tế, đó là
nhiệm vụ trọng tâm. Nhưng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi thì giáo dục quần
chúng có ý thức tự giác, sáng tạo. Chỉ khi nào quần chúng tự giác hoạt động sáng tạo hy
sinh bền bỉ thì cách mạng mới đảm bảo thắng lợi. V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa xã hội
không phải là những sắc lệnh từ trên ban xuống, chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là
của bản thân quần chúng nhân dân”28. Thành quả cách mạng được tạo nên và bảo vệ nó
là nhờ tinh thần hy sinh anh dũng bền bỉ chịu đựng gian khó của giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và nhân dân lao động. Họ có phẩm chất cao quý ấy là nhờ sự chuyển biến
vĩ đại trong ý thức quần chúng. Mà ý thức giác ngộ ấy, giác ngộ chủ nghĩa xã hội, theo
V.I.Lênin chỉ có thể là kết quả quá trình giáo dục, thuyết phục kiên trì của tổ chức Đảng
ở cơ sở. Vì vậy, cơng tác quần chúng của tổ chức cơ sở đảng là vấn đề cực kỳ quan
trọng, gây ảnh hưởng mạnh mẽ niềm tin của quần chúng đối với Đảng, V.I.Lênin viết:
“Cần mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Đảng đối với quần chúng công nhân. Trong các
chi bộ thấy cịn rất ít tính chủ động; hoạt động của họ ở địa phương sẽ rất có lợi về mặt
tác động vào những người ngoài đảng. Nên chhú ý đến những câu lạc bộ. nên đề bạc
những cán bộ đảng trong quần chúng”29
- Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân lãnh đạo các tổ chức, các lĩnh vực của đời
sống xã hội, là nơi kiểm nghiệm đường lối, chính sách của đảng.
V.I.Lênin khẳng định lực lượng lãnh đạo để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản là Đảng mácxít chứ khơng thể là lực lượng nào khác. Vì vậy tất yếu tổ chức cơ
sở đảng phải trực tiếp lãnh đạo các chính quyền Xơ Viết cơ sở, để các xô viết đủ sức
mạnh thực hiện nhiệm vụ quản lý, xây dựng xã hội mới dưới sự lãnh đạo của đảng,
V.I.Lênin chỉ ra vấn đề cơ bản là giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Chính quyền,
28
29
Sđd, 1976, t 35, tr 64
Sđd, 1977, t 37, tr 56
16
tổ chức cơ sở đảng và các Xô Viết địa phương. Khi giành được chính quyền, bước vào
xây dựng chủ nghĩa xã hội thì việc thành lập các Xơ Viết, nhất là ở nông thôn là nhiệm
vụ hàng đầu của các tổ chức đảng: “các tổ chức đảng cộng sản phải dốc tồn lực của
mình để nhanh chóng thành lập các Xô Viết đại biểu ở nông thôn, trước hết là những
công nhân làm thuê và những người nửa vô sản”30. Nhưng nếu điều kiện thành lập các
Xô Viết chưa đủ thì khơng được nơn nóng, phải tiến hành một cách vững chắc: “việc
thành lập các Xô Viết ở nông thơn địi hỏi phải có thời gian chuẩn bị lâu dài bằng cách
lập những chi bộ cộng sản”31 và đẩy mạnh công tác tuyên truyền cổ động để giáo dục
giác ngộ quần chúng từ đó mà củng cố chính quyền nhân dân vững mạnh. Khi bước vào
thực hiện nhiệm vụ trung tâm, quản lý xây dựng đất nước, V.I.Lênin dạy những người
cộng sản, những tổ chức cơ sở: “muốn quản lý tốt, thì ngồi cái tài biết thuyết phục, biết
chiến thắng trong cuộc nội chiến, còn cần phải biết tổ chức trong lĩnh vực thực tiễn”32.
Trên thực tế Đảng (b) Nga mà trực tiếp là các tổ chức cơ sở đảng đã lãnh đạo thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ trong điều kiện mn vàn khó khăn của chính quyền Xơ Viết non trẻ.
V.I.Lênin cũng nhiều lần nhắc nhở, phải thông qua thực tiễn ở cơ sở mà kiểm nghiệm
chủ trương, đường lối của Đảng, đóng góp những ý kiến để bổ sung, hồn thiện và phát
triển đường lối, chính sách của Đảng, lấy kết quả thực tế làm thước đo đánh giá sự lãnh
đạo của Đảng và các tổ chức cơ sở đảng.
2. Ý nghĩa tư tưởng của V.I.Lênin về tổ chức cơ sở đảng
Những nội dung tư tưởng của V.I.Lênin về tổ chức cơ sở đảng có ý nghĩa sâu sắc
đối với công tác xây dựng đảng ta hiện nay. Xuất phát từ luận điểm của chủ nghĩa MácLênin, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ vị trí vai trị của tổ chức cơ sở đảng, Người viết: “Chi bộ
là gốc rễ của Đảng”33. Rằng “chi bộ là nền tảng của Đảng, của cách mạng ở xã…”34.
Một cây không thể thiếu gốc rễ, một nhôi nhà không thể thiếu nền tảng, nền móng. Điều
đó đủ nói lên vị trí, vai trò rất quan trọng của chi bộ đối với tư cách là tổ chức cơ sở
đảng.
Sđd, 1977, t41, tr 221
Sđd,1977, t 41, tr 22
32
Sđd, 1977, t36, tr 210
33
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb TCQG, HN, 1995, t 7 tr 242
34
Sđd, tr 467
30
31
17
Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng trên mọi mặt của đời sống xã hội, Hồ Chí
Minh khẳng định: các tổ chức cơ sở của Đảng là những hạt nhân lãnh đạo, là “đồn lũy”
của Đảng ở cơ sở. Mỗi chi bộ ta phải là hạt nhân vững chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua
yêu nước, cần kiệm xây dựng nước nhà. Rằng, “mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt
nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở”35 Đồng thời nhấn mạnh: “Chi bộ là đồn lũy của
Đảng chiến đấu ở trong quần chúng”36. Trong mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, vai
trò của tổ chức cơ sở đảng là những “sợi dây chuyền” nối liền Đảng với dân. Người viết:
“Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với
quần chúng”37.
Từ việc xem xét vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong các mối quan hệ trên,
Hồ Chí Minh đã khái quát: “ Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh”, “các chi bộ mạnh tức
là Đảng mạnh”. Tư tưởng của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về tổ chức cơ sở đảng là cơ sở
phương pháp luận giúp Đảng ta xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở
đảng.: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt
nhân chính trị ở cơ sở”38.
III- TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ CÔNG TÁC BẢO VỆ ĐẢNG QUA
CÁC TÁC PHẨM NGƯỜI VIẾT SAU CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI.
Sđd, t 10, tr 205
Sđd, Hồ Chí Minh,t 11, tr 83
37
Sđd, t 7, tr 242-243
38
Điều lệ Đảng, điều 21.
35
36
18
IV-TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT
HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG VIÊN VÀ TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG.
1-Tư tưởng của V.I.Lênin về công tác kiểm tra hoạt động của đảng viên và tổ
chức cơ sở Đảng.
* Quan niệm về kiểm tra, giám sát:
-Theo quyển “Đại từ điển tiếng việt”, do Nguyễn Như Ý (chủ biên):
+Kiểm tra là xem xét thực chất, thực tế.
+Kiểm soát là kiểm tra, xem xét nhằm ngăn ngừa những sai phạm các qui định.
+Giám sát là theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ.
-Theo quyển “Từ điển bách khoa việt Nam” do Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên
soạn từ điển bách khoa Việt Nam:
+Kiểm tra (luật) là một chức năng quản lý, một khâu trong quy trình quản lý, có
chức năng xem xét tình hình và kết quả thực tế thi hành luật, chính sách, chủ trương của
nhà nước, thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế -xã hội được giao.
+Giám sát là một hình thức hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội
nhằm bảo đảm pháp chế hoặc sự chấp hành những qui tắc chung nào đó.
-Theo “từ điển luật học”, Nxb từ điển Bách khoa – Hà Nội:
+Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế thi hành phát luật, thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn nói chung hay một cơng tác cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét.
+Kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn ngừa việc làm sai trái với thỏa thuận, với
quy định.
+Giám sát còn được hiểu là sự theo dõi, xem xét hoạt động của các tổ chức có
thẩm quyền mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các
biện pháp tích cực để bắt buộc và hướng dẫn hoạt động của các tổ chức và cá nhân chịu
sự giám sát thực hiện đúng những điều đã quy định.
19
Xét về nội hàm, thì giám sát rộng hơn “kiểm tra”, “kiểm soát”; trong hoạt động
giám sát đã bao hàm hoạt động kiểm tra và kiểm sốt.
*Cơng tác kiểm tra của Đảng xét về bản chất là sự tác động sâu sắc, có hệ thống
và định hướng vào q trình giải quyết các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội và cơng tác
xây dựng Đảng. Có thể xem xét khái niệm công tác kiểm tra của Đảng từ ba gốc độ sau:
Công tác kiểm tra của đảng như là một công cụ quan trọng, một nguyên tắc lãnh đạo của
công tác xây dựng đảng; như là một phương tiện nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo, vai trò
tiên phong của Đảng; là một phương tiện có hiệu quả để giải quyết những vấn đề trong
quan hệ nội bộ Đảng.
*Chủ thể kiểm tra: chủ thể của công tác kiểm tra rộng hơn chủ thể công tác giám
sát, gồm Ban cán sự đảng, Đảng đồn…., đảng viên vừa có nhiệm vụ tiến hành kiểm tra
và tự kiểm tra, vừa là đối tượng kiểm tra.
*Đối tượng kiểm tra: đảng viên vừa là đối tượng kiểm tra, vừa là chủ thể kiểm tra.
Theo Lênin việc kiểm tra, xem xét những đối tượng xin vào đảng, ngay từ ban đầu
cần phải được tiến hành kỹ lưỡng, thận trọng từng bước để tránh kết nạp vào trong hàng
ngũ của đảng những đảng viên không đủ tiêu chuẩn, khơng thật sự là người cộng sản
chân chính: “Ở ta thường có tình trạng lơ là và thiếu triệt để trong công tác, nên thời gian
dự bị mà ngắn thì trong thực tiễn điều đó có thể có nghĩa là hồn tồn khơng có một sự
kiểm tra kỹ lưỡng nào để xem những người xin vào đảng ấy có thực sự là những người
cộng sản đã được thử thách đơi chút khơng”39.
Trong thư gửi đồng chí V.M.Mơ-Lơ- Tốp, Lênin đã phê phán công tác của Ban
thông kê, kiểm kê của Ban chấp hành trung ương hoạt động không có hiệu quả bởi những
cán bộ phụ trách cơng tác thống kê thiếu năng lực, chưa đủ tầm, là nhà thông thái rởm lại
cho những con người như vậy vào các cương vị quan trọng trong ban thống kê mà phải
kiên quyết đưa ra khỏi ban ấy những người kém năng lực, có như vậy mới phát huy được
hiệu quả của việc kiểm kê, kiểm soát:“Việc thống kê thuộc cơ quan đồng chí là do một
39
V.I.Lênin, tồn tập, Nxb TB M, 1979, t 45, tr 22.
20