Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MNH VỀ TỔ CHỨC TƯ TƯỞNG VÀ ĐẠO ĐỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.67 KB, 17 trang )

a. mở đầu
Từ một ngời yêu nớc, Nguyễn ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
đến với con đờng cứu nớc trong thời đại mới con đờng giải phóng dân tộc theo
quỹ đạo cách mạng vô sản. Bằng những hoạt động thực tiễn của mình, Hồ Chí
Minh đã bền bỉ, dẻo dai và kiên nhẫn trong việc tìm kiếm con đờng, biện pháp để
thực hiện mục tiêu độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào.
Bảy mơi sáu năm đã trôi qua, kể từ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tới nay
(1930-2006), Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành đợc những kỳ tích vĩ đại:
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh nớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà; giải phòng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nớc; bớc đầu đạt đợc những thành tích quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong 20 năm
đổi mới đất nớc. Đất nớc Việt Nam ngày càng có tên vẻ vàng trên toàn cầu và đặc
biệt bây giờ V N đang trở thành là một thành viên trong tổ chức thơng mại lớn nhất
của thế giới. Những kỳ tích đó gắn liền với việc thờng xuyên xây dựng và củng cố
Đảng, nhất là trong việc tổ chức và sinh hoạt của Đảng.
Là ngời đề xớng, lãnh đạo, đồng thời là ngời tổ chức thực hiện đờng lối đổi
mới, trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá, trong sự phát triển nh vũ bão của tiến bộ
khoa học, kỹ thuật, trong sự biến động hàng ngày, hàng giờ của tình hình chính trị
thế giới, thuận lợi có nhiều nhng, khó khăn thách thức tiềm ẩn cả bên trong, lẫn bên
ngoài cũng không phải là ít. Trong bối cảnh nh thế này, chỉ có thể giữ vững đợc vị
thế của một Đảng cầm quyền, một Đảng trung thành với chủ nghĩa Mác Lênin,
t tởng Hồ Chí Minh, giữ vững đợc niềm tin, niềm kỳ vọng không chỉ của giai cấp
công nhân mà, của toàn dân, của cộng đồng dân tộc thì rõ ràng Đảng cần phải đợc
xây dựng, đợc củng cố sao cho ngang tầm với trọng trách mà lịch sử và nhân dân
trao cho. Muốn vậy, Đảng phải thật sự đổi mới. Đổi mới t duy, đổi mới tổ chức, đổi
mới phơng thức lãnh đạo và chỉ đạo, đổi mới phong cách làm việc, phải thật sự coi
trọng công tác giáo dục, công tác kiểm tra, công tác đào tạo, thực hành dân chủ
rộng rãi và thờng xuyên đào tạo, bồi dỡng đội ngũ kế cận. Tất cả các công việc trên
đều đợc quy định và thuộc về công tác tổ chức và sinh hoạt của Đảng. Đảng phải
làm tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng để làm cho Đảng thật trong
sạch, vững mạnh ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, tránh đợc những sai
lầm cố hữu, tránh đợc những tổn thất do chủ quan duy ý chí, nâng cao sức chiến


đấu và vai trò lãnh đạo, nâng cao uy tín và thanh danh của Đảng đa đất nớc Việt
Nam tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình chuẩn bị về t tởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng, căn cứ diễn tiến của phong trào cách mạng vô sản thế giới của nh, sự đòi hỏi
khách quan của thực tiễn cách mạng VN, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng
định sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam chỉ có thể thành công khi nó đợc
chính đảng Macxít Lêninnít lãnh đạo và Đảng phải vững mạnh. Theo Ngời
Đảng có vững mạnh thì cách mạng mới thành công, cũng nh ngời cầm lái có vững
thuyền mới chạy (Hồ Chí Minh - tuần tập. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 2000. tập 2,
trang 267), phải xây dựng Đảng vững về chính trị, t tởng, phải lấy chủ nghĩa Mác
Lênin làm nền tảng t tởng, làm kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Ngời
viết: Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải
1


hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng nh ngời
không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác
Lênin ( Hồ Chí Minh toàn tập. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 2000. tập 2, trang 268).
Ngời chỉ rõ: sự vững mạnh về chính trị, t tởng của Đảng trớc hết và trên hết phải
gắn liền với sự vững mạnh về tổ chức, thể hiện ở sự đoàn kết nhất trí trong Đảng.
Nhời dạy: Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công ( Sách đã dẫn. Tập
11, trang 153) . Mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật,
nghiêm chỉnh chấp hành đờng lối, chính sách của Đảng, tôn trọng nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt Đảng. Để làm đợc điều đó phải thực hành dân chủ rộng rãi, thờng
xuyên và nghiêm chỉnh thực hành tự phê bình và phê bìnhphải có tình đồng chí
thơng yêu lẫn nhau (sách đã dẫn. Tập 12 trang 510). Đồng thời phải có sự gắn bó máu
thịt với quần chúng nhân dân, làm cho dân yêu kính trọng và co sự đoàn kết với
quốc tế trên cơ sở tôn trong chủ quyền, hai ben cùng có lợi để tạo nên sự hoà bình
và phát triển kinh tế đất nớc cùng nhau tiến bộ.


2


b. nội dung
I. Cơ sở hình thành t tởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt của Đảng:
1.) Cơ sở lý luận:
T tởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
a.) Theo chủ nghĩa Mác- Lênin:
Để cho Đảng xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp, Lênin chú trọng trớc
hết đến xây dựng cơ sở lý luận và t tởng của Đảng, xây dựng cơng lĩnh và sách lợng
của Đảng. Lênin đồng thời rất coi trọng xây dựng Đảng về mặt tổ chức. Lênin đòi
hỏi Đảng phải là một bộ phận có tổ chức chặt chẽ của giai cấp, đảng viên phải
tham gia hoạt động trong một tổ chức của Đảng, phải chịu sự lãnh đạo và kiểm
soát của tổ chức, trong Đảng phải có kỷ luật tập trung, phải thống nhất ý chí và
hành độngSức mạnh của Đảng là sự đoàn kết thống nhất.
Để củng cố sự thống nhất của Đảng, về mặt tổ chức và sinh hoạt nội bộ, phải
nghiêm khắc tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Một mặt, Lênin đòi hỏi trong
Đảng phải có chế độ tập trung chặt chẽ, có kỷ luật thống nhất, mà thiếu nó thì
Đảng sẽ mất sức chiến đấu, không thể giành và giữ nổi chính quyền.
Sự lớn mạnh và tiến bộ không ngừng của Đảng mácxít- lêninít là ở chỗ trong
sinh hoạt nội bộ, Đảng luôn luôn áp dụng nguyên tắc phê bình và tự phê bình. Nhờ
đó Đảng cũng nh mỗi đảng viên có thể phát huy u điểm, phát hiện và sửa chữa
khuyết điểm sai lầm, ngày càng phản ánh sự vật khách quan đợc chính xác hơn,
ngày càng cải tiến công tác và nâng cao trình độ mọi mặt của nhiệm vụ cách mạng.
Trong quá trình xây dựng và củng cố chính Đảng vô sản, theo quan điểm của
Lênin, phải xây dựng đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và quần chúng

đông đảo. Đảng phải liên hệ chặt chẽ với giai cấp công nhân và quần chúng lao
động. Lênin nhấn mạnh rằng, nguồn gốc chủ yếu của sức mạnh của Đảng là: mối
liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng; sự ủng hộ của giai cấp công nhân và
quần chúng đối với đờng lối chính trị của Đảng.
b.) Theo t tởng Hồ Chí Minh:
Giữ gìn và tăng cờng vai trò lãnh đạo của Đảng, làm cho Đảng trong sạch
vững mạnh không phải là một việc dễ dàng, đơn giản. Một đảng chỉ đóng đợc vai
trò lãnh đạo một khi đảng đó có đủ t cách và năng lực của ngời lãnh đạo. Vì vậy
quá trình củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng cũng chính là quá trình không ngừng
củng cố Đảng vững mạnh.
Sự vững mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam trớc hết là do Đảng có đờng lối
chính trị đúng đắn. Trên cơ sở đó, Đảng đã xây dựng vững mạnh về t tởng và tổ
chức. Đảng không chỉ là có đờng lối chính sách đúng mà còn phải có sức chiến đấu
cao, có năng lực tổ chức thực hiện giỏi để hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ cách
mạng.
Để tăng cờng sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh,
một vấn đề quan trọng hàng đầu là phải bảo vệ và củng cố sự đoàn kết thống nhất
3


nội bộ. Đồng thời, sự thống nhất t tởng phải đi liền và phải đợc củng cố bằng sự
thống nhất về tổ chức, thực hiện đúng chế độ tổ chức và sinh hoạt nội bộ đó là chế
độ tập trung dân chủ, tăng cờng kỷ luật của Đảng đi đôi với sinh hoạt dân chủ nội
bộ là rất cần thiết để đảm bảo sự thống nhất t tởng và thống nhất hành động trong
Đảng, ngăn ngừa mọi hiện tợng chia rẽ, bè phái. Nghiêm chỉnh tiến hành phê bình
và tự phê bình có ý nghĩa to lớn làm cho mọi đảng viên thông cảm với nhau hơn,
đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Sự phát triển và trởng thành của Đảng cũng nh
của mỗi đảng viên là ở chỗ thờng xuyên tự phê bình và phê bình, qua đó mà không
ngừng phát huy u điểm và thành tích, khắc phụ khuyết điểm và sai lầm.
Trong công cuộc xây dựng Đảng chẳng những phải biết giải quyết đúng đắn

các mối quan hệ trong nội bộ Đảng mà còn phải biết xây dựng đúng đắn mối quan
hệ giữa Đảng với quần chúng. Gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân là nguồn
gốc sức mạnh của Đảng, là điều kiện không thể thiếu để giữ gìn và phát huy bản
chất cách mạng tốt đẹp của Đảng. Bên cạnh đó phải đẩy mạnh đoàn kết dân tộc với
quốc tế, với lực lợng yêu nớc trên thế giới, để cùng thế giới góp phần xây dựng thế
giới hoà bình, không có chiến tranh, không có chế độ ngời bóc lột ngời, phải làm
để cho mọi ngời tự do, bình đẳng nh nhau.
2.) Cơ sở thực tiễn:
Trong giai đoạn cách mạng mới để hoàn thành thắng lợi hai nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình, Đảng phải tăng cờng sức chiến đấu, xây dựng tổ chức trong sạch vững
mạnh về chính trị, t tởng, giữ vững vai trò lãnh đạo, là hạt nhân đoàn kết thống nhất
toàn dân tộc.
Nhiệm vụ, yêu cầu đó đặt ra cho mỗi cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng phải
tu dỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức và năng lợng tơng xứng với cơng vị công tác
của mình; đồng thời phải nghiêm ngặt thực hiện các chế độ của Đảng, nhất là
nguyên tác tổ chức và sinh hoạt của Đảng và hoạt động của Đảng theo điều lệ Đảng
và t tởng Hồ Chí Minh.
Trong t tởng Hồ Chí Minh, sinh hoạt đảng là một yếu tố hợp thành rất cần
thiết không thể tách rời công tác xây dựng Đảng. Đối mới, hoàn thiện sinh hoạt
đảng trở thành nhu cầu tồn tại và phát triển của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, mục đích tổ chức và sinh hoạt Đảng là làm cho Đảng
luôn trong sách, vững mạnh; luôn thể hiện Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc.
Xét về nội dung, sinh hoạt đảng bắt đầu từ sinh hoạt t tởng, chính trị. Theo
Hồ Chí Minh, sinh hoạt t tởng, chính trị bao gồm nhiều bớc theo một trình tự nhất
định, có lôgic chặt chẽ và nghiêm ngặt:
- Tiếp thu, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin- cơ sở thế giới quan, phơng pháp luận của toàn Đảng, của mỗi đảng viên.
- Xây dựng đờng lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với đặc điểm dân tộc; nắm
vững đờng lối và đa đờng lối đó đến với quần chúng nhân dân.

- Xác định các phơng pháp tổ chức, vận động quần chúng thực hiện đờng lối
của Đảng, đi vào quần chúng, phát huy vai trò tiên phong gơng mẫu của cán
bộ, đảng viên.
4


Theo t tởng Hồ Chí Minh, để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh các tổ chức
Đảng từ Trung ơng đến cơ sở Đảng phải thờng xuyên thực hiện tuân theo các
nguyên tác tổ chức và sinh hoạt Đảng, bao gồm 5 nguyên tắc sau:
1. Nguyên tắc tập trung dân chủ.
2. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
3. Nguyên tắc giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
4. Nguyên tắc gắn bó mấu thịt với nhân dân.
5. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế.
ii./ Nội dung t tởng hồ chí minh về nguyên tác tổ chức và
sinh hoạt của đảng.

1./ Nguyên tắc tập trung dân chủ

1.1.) Khái niệm tập trung dân chủ:
Tập trung dân chủ là một thể thống nhất không tách rời giữa tập trung và dân
chủ, tập trung trên cơ sở dân chủ và dân chủ dới sự chỉ đạo của tập trung.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chế độ tập trung dân chủ:
Một là, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản lấy nguyên tắc đó làm cơ sở xây dựng kết cấu tổ chức, nội dung
hoạt động, sinh hoạt và phong cách lãnh đạo. Chế độ dân chủ trong Đảng là một
thuộc tính của chính Đảng vô sản. Nó là điều kiện bảo đảm quan trọng để chính
đảng giai cấp công nhân tổ chức, đoàn kết, thực hiện sứ mệnh lịch sử vĩ đại của giai
cấp công nhân.
Hai là, nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải thực hiện kỷ luật chặt chẽ,

thống nhất trong Đảng. Thực hiện chế độ thiểu số phục tùng đa số, cấp dới phục
tùng cấp trên, tổ chức cấp dới và toàn thể đảng viên của Đảng phải chấp hành nghị
quyết của Đảng, phục tùng sự lãnh đạo của Ban Chấp hành trung ơng.
Ba là, thực hiện dân chủ phải dựa trên cơ sở đấu tranh t tởng trong đảng. Chủ
nghĩa Mác-Lênin cho rằng tranh luận là cần thiết cho sự phát triển bình thờng của
đảng, là tăng cờng giáo dục chính trị t tởng cho giai cấp vô sản, ngăn chặn mọi
khuynh hớng sai lệnh.
Bốn là, tập trung hoá là xu hớng tất yếu của mọi tổ chức. Do đó, chủ nghĩa
Mác- Lênin nhấn mạnh nhiều hơn đến vấn đề dân chủ hoá trong Đảng. Chủ nghĩa
Mác-Lênin coi vấn đề dân chủ trong đảng, đặc biệt cho đông đảo đảng viên là hạt
nhân của việc thực hiện nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thực hiện dân chủ
hoá trong sinh hoạt đảng có quan hệ mật thiết với đấu tranh chống chủ nghĩa quan
liêu.
1.3. T tởng Hồ Chí Minh về vấn đề tập trung dân chủ:
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống
nhất với nhau trong một nguyên tắc. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập
trung, chứ không phải là dân chủ theo kiểu phân tán, tuỳ tiện, vô tổ chức. Tập trung
là tập trung trên cơ sở dân chủ, chứ không phải tập trung quan liêu theo kiểu độc
đoán chuyên quyền.
a. Về tập trung.
5


Ngời nhấn mạnh: Phải thống nhất về t tởng, tổ chức, hành động. Do đó, thiểu
số phải phục tùng đa số, cấp dới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành
vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho Đảng ta tuy nhiều ngời, nhng
khi tiến đánh thì chỉ nh một ngời.
b. Về dân chủ:
Hồ Chí Minh đã phân tích, đó là của quý báu nhất của nhân dân, là thành
quả của cách mạng. Ngời đã viết: Chế độ ta là chế độ dân chủ, t tởng phải đợc tự

do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi ngời tự do bày tỏ ý kiến của mình,
góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi ngời.
Khi mọi ngời đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do t tởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý.
- Hồ Chí Minh phân tích rõ nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng trong thờng thức chính trị: Tổ chức gốc rễ của Đảng là chi bộ. Chi bộ là do chi ủy lãnh
đạo; các đảng viên chịu sự lãnh đạo của chi ủy. Trên chi ủy thì có huyện ủy, tỉnh
ủy, khu ủy lên đến Trung ơng. Toàn thể đảng viên, toàn thể các cấp, tổ chức thống
nhất lại theo một nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc ấy tức là dân chủ tập trung.
Nghĩa là:
A. Tập trung trên nền tảng dân chủ.
Cơ quan lãnh đạo của Đảng có uy tín và quyền lực chân chính. Những phơng
châm, chính sách, nghị quyết của Đảng, mọi đảng viên nhất định phải chấp hành.
Kỷ luật của Đảng, mọi đảng viên phải tuân theo. Thế là tập trung. Nhng tập trung
ấy không phải là cá nhân chuyên chính; nó xây dựng trên nền tảng dân chủ. Nghĩa
là:
1. Các cơ quan lãnh đạo đều do quần chúng đảng viên bầu cử lên.
2. Phơng châm, chính sách, nghị quyết của Đảng đều do quần chúng đảng
viên tập trung kinh nghiệm và ý kiến lại mà thành. Rồi lại do các cuộc hội nghị của
Đảng thảo luận giải quyết, chứ không ai đợc tự ý độc đoán.
3. Quyền lực của cơ quan lãnh đạo là do quần chúng đảng viên giao phó, chứ
không phải tự ai tranh giành đợc. Vì vậy, ngời lãnh đạo phải gần gũi và học hỏi
quần chúng đảng viên, nghe ngóng ý kiến của họ; Nếu lên mặt với quần chúng, lạm
dụng quyền lực - thế là sai lầm.
4. Trật tự của Đảng là: cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải phục tùng
số nhiều; cấp dới phải phục tùng cấp trên; các địa phơng phải phục tùng Trung ơng.
B. Dân chủ dới sự chỉ đạo tập trung.
ở trong Đảng, mọi đảng viên có quyền nêu ý kiến, đặt đề nghị, tham gia giải
quyết vấn đề. Nhng quyết không đợc trái sự lãnh đạo tập trung của Đảng, trái nghị
quyết và trái kỷ luật của Đảng. Quyết chống: không xét thời gian, địa điểm, điều
kiện mà nói lung tung; tự do hành động; dân chủ quá trớn.
1. Chỉ có cơ quan lãnh đạo có quyền khai các cuộc hội nghị.

2. Tất cả các nghị quyết của Đảng phải do cơ quan lãnh đạo chuẩn bị kỹ
càng, rồi giao cho các cấp thảo luận. Không đợc làm qua loa, sơ sài.
3. Khi bầu cử các cơ quan lãnh đạo trong Đảng, phải xem xét rất kỹ lỡng để
lập danh sách những đảng viên ứng cử.
6


4. Toàn thể đảng viên phải theo đúng Đảng chơng thống nhất, kỷ luật thống
nhất của Đảng. Toàn thể đảng viên phải theo sự lãnh đạo thống nhất của Trung ơng.
Nói tóm lại: Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ (thật thà, tự
phê bình và phê bình), thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và tính
kỷ luật
( Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1996, tập 7, tr. 242-243)

- Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài.
Còn ở trong Đảng, khi khai hội các đảng viên nghe những ngời lãnh đạo báo
cáo công việc, các đảng viên phê bình những khuyết điểm, cử hoặc không cử đồng
chí nọ hoặc đồng chí kia vào cơ quan lãnh đạo. Đó là kiểm soát theo nguyên tắc
dân chủ tập trung.
Chính quyền thì có những Hội đồng. Các đoàn thể thì có Uỷ ban. Đó là tập
thể lãnh đạo.
Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo ?
Vì một ngời dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu,
cũng chỉ trông thấy, chi xem xét đợc một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không
thể trông thấy hết và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề.
Vì vậy, cần phải có nhiều ngời. Nhiều ngời thì nhiều kinh nghiệm. Ngời thì
thấy rõ mặt này, ngời thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó.
Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều ngời, thì vấn đề đó đợc thấy rõ
khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới đợc giải quyết chu
đáo, khỏi sai lầm.

ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất đơn giản, chân lý của nó rất rõ rệt. Tục ngữ
có câu: Khôn bầy hơn khôn độc là nghĩa đó.
Vì sao cần phải cá nhân phụ trách ?
Việc gì đợc đông ngời bàn bạc kỹ lỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần
phải giao cho một ngời hoặc một nhóm ít ngời phụ trách theo kế hoạch đó mà thi
hành. Nh thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy.
Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra cái tệ ngời này uỷ cho ngời
kia, ngời kia uỷ cho ngời nọ, kết quả là không ai thi hành. Nh thế thì việc gì cũng
không xong. Tục ngữ có câu: Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa là nh thế.
Vì lẽ đó, cho nên lãnh đạo cần phải tập thể, mà phụ trách cần phải cá nhân.
Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan.
Kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô Chính
phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau.
Nhng không phải vấn đề gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một ngời vẫn có thể giải thích
đợc, cũng đa ra bàn mới là tập thể lãnh đạo. Nếu làm nh vậy, là hiểu tập thể lãnh
đạo một cách quá máy móc. Kết quả là cứ khai hội mà hết ngày giờ.
Những việc bình thờng, một ngời có thể giải quyết đúng, thì ngời phụ trách
cứ cẩn thận giải quyết đi. Những việc quan trọng mới cần tập thể quyết định.
Tập thể lãnh đạo là dân chủ.
Cá nhân phụ trách là tập trung.
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung.
Làm việc mà không theo đúng cách đó, tức là làm trái dân chủ tập trung.
7


Ngời nào có chân trong một uỷ ban nào mà làm biếng không đến dự cuộc hội
nghị của ban ấy, hoặc không cân nhắc suy nghĩ kỹ lỡng những vấn đề cần phải bàn
bạc và giải quyết hoặc không phát biểu hết ý kiến của mình đối với vấn đề ấy, là

trái với nhiệm vụ của mình, và không xứng đáng là một ngời lãnh đạo.
Ngời nào phụ trách thi hành, mà không làm đúng kế hoạch do đa số đã quyết
định, là làm trái với nhiệm vụ của mình, và cũng không xứng đáng là một ngời lãnh
đạo.
Vì vậy, những ngời cán bộ phải thực hành cho kỳ đúng cái chế độ tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
( Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, trang 504-506)

2./ Nguyên tắc giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
2.1.) Khái niệm đoàn kết thống nhất trong đảng.
Đoàn kết thống nhất là quy luật trởng thành của Đảng và đoàn kết thống nhất
là nguồn sức mạnh vô địch và vô tận của cách mạng.
a. Theo Lênin, đoàn kết thống nhất trong Đảng là:
- Có sự cùng nhau thảo luận dân chủ về công việc của Đảng và đợc phản ánh
trong các nghị quyết đợc đa số thông qua và trung thực chấp hành nghị quyết
đó.
- Trong Đảng không có tình trạng phân chia thành những bộ phận không tín
nhiệm nhau, không muốn công tác cùng nhau.
- Trong Đảng không có những mần mống nảy sinh một tổ chức mới làm phân
liệt đảng; không có những tập đoàn có cơng lĩnh, kế hoạch hành động riêng.
b. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết thống nhất trong Đảng là:
- Không có tình trạng trống đánh xuôi, kèn thổi ngợc.
- Không có tình trạng kèn cựa, bới móc nhau.
- Không có tình trạng bằng mặt, không bằng lòng, không muốn hợp tác với
nhau.
2.2.) Quan niệm của Hồ Chí Minh về sự đoàn kết thống nhất trong Đảng:
Ngày 28/11/1959, trong bài nói chuyện tại Hội nghị nghiên cứu lịch sử Đảng
của Ban Tuyên giáo Trung ơng, Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: Trong Đảng và Nhà nớc
ta có sự phân công chặt chẽ nh các bộ phận trong chiếc đồng hồ: cái kim, dây cót
khác nhau nhng hợp tác chặt chẽ với nhau. Thiếu một bộ phận nào cũng không đợc.

Trong xã hội cũng thế. Đảng ta là một tập thể chặt chẽ, không thể dung thứ chủ
nghĩa cá nhân. Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra nhiều chứng xấu. Mỗi một ngời,
bất kỳ làm công tác gì, ở địa vị nào, đều là quan trọng. Công việc gì có ích cho
Đảng, cho cách mạng cũng vẻ vang.
(Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1996, t. 9, tr. 555-556)

Tháng 2/1963, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 33 ngày thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài Đoàn kết tiến lên giành thắng lợi mới,
trong đó Ngời nhấn mạnh: Sức mạnh của Đảng là ở sự đoàn kết nhất trí. Mỗi cán
bộ, đảng viên phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, nghiêm chỉnh chấp hành đờng lối và chính sách của Đảng, tôn trọng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng.
Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở,
đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy đợc trí tuệ và lực lợng
8


vĩ đại của quần chúng. Mỗi cấp bộ của Đảng phải là một cơ quan lãnh đạo vững
chắc ở địa phơng, theo đúng đờng lối, chính sách cảu Trung ơng
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1996, t. 11, tr. 23)

Ngày 17/10/1963, nói chuyện tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Bắc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ: Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của sự thành công. Đảng ta là
một Đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Tất cả cán bộ và đảng viên phải
đặt quyền lợi của Đảng, của giai cấp và của nhân dân lên trên hết, cao hơn hết.
Đảng ta là một Đảng lãnh đạo. Tất cả cán bộ và đảng viên dù cơng vị khác
nhau, làm công tác khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn nhiệm
vụ của Đảng giao cho. Ví dụ trong cái đồng hồ có nhiều máy móc khác nhau, nhng
tất cả các bộ phận đều phải ăn khớp với nhau, thì đồng hồ mới chạy tốt. Muốn thật
sự đoàn kết thì phải có dân chủ thật sự trong Đảng. Phải thờng xuyên nghiêm chỉnh
phê bình và thật thà tự phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy u
điểm, để cùng nhau tiến bộ. Làm cách mạng thì có đúng có sai. Cố nhiên đúng phải

là chính, sai là phụ. Có sai thì chúng ta giúp nhau kiên quyết sửa chữa và cùng nhau
hăng hái tiến lên.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1996, t. 11, tr. 154)

Tháng 8/1954, trong bài Phải theo đúng kỷ luật của Đảng ký bút danh C.B
đăng báo Nhân dân, Hồ Chủ tịch viết: Đoàn kết là sức mạnh của Đảng. Đoàn kết
chặt chẽ và kỷ luật nghiêm khắc, hai điều đó không thể rời nhau.
Kỷ luật nghiêm, để đảm bảo t tởng nhất trí và hành động thống nhất của toàn
Đảng, toàn dân
Mỗi khi gặp tình hình mới, công tác mới, nhất là hiện nay từ chiến tranh đổi
sang hoà bình, là một cuộc đổi mới rất lớn- t tởng của một số đảng viên và cán bộ
không khỏi bỡ ngỡ, lệnh lạc, hoặc tả hoặc hữu. Cho nên thống nhất ý chí,
thống nhất hành động, thống nhất kỷ luật, tập trung lãnh đạo là việc cực kỳ cần
thiết và cực kỳ quan trọng
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc trị quốc gia, 1996, t. 7, tr. 335-336)

Ngày 18/1/1949, trong buổi bế mạc Hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ 6, Hồ
Chủ tịch nhấn mạnh: Đồng chí ta, tuy có khi khác nhau về chủng tộc hay khác
nhau về nguồn gốc giai cấp, nhng là những ngời cùng chủ nghĩa, cùng sống, cùng
chết, chung sớng, chung khổ, cho nên phải thật thà đoàn kết. Muốn đi tới mục đích,
không phải chỉ tổ chức là đủ, phải chân thành trong t tởng nữa.
Ta có hai cách để thực hiện thống nhất t tởng, đoàn kết nội bộ là: Phê bình và
tự phê bình.
Từ trên xuống dới, ai nấy đều phải dùng nó để càng ngày càng đoàn kết, tiến
bộ.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, H. 1995, t.5, tr. 552-553)

trong tài liệu Tuyệt đối bí mật viết vào dipj 75 tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã viết: Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta.
Các đồng chí từ Trung ơng đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của

Đảng nh giữ gìn con ngời của mắt mình.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, H. 1996, t.12, tr. 497)

3./ Nguyên tắc tự phê bình và phê bình:
3.1.) Khái niệm tự phê bình và phê bình trong Đảng:
9


a. Khái niệm phê bình: Phê bình là hoạt động phân tích, xem xét đánh giá
những u điểm và khuyết điểm của một ngời, một tổ chức, một sự việc nào đó
nhằm nêu rõ u điểm để phát huy, vạch rõ khuyết điểm để góp ý, để chê trách,
để sửa chữa.
b. Khái niệm tự phê bình: Tự phê bình là hoạt động phê bình của cá nhân hay tổ
chức xã hội đối với chính những hoạt động của cá nhân hay tổ chức đó.
c. Khái niệm tự phê bình và phê bình trong Đảng. Trên cơ sở quan niệm chung
về tự phê bình và phê bình nh nêu trên, tự phê bình và phê bình trong Đảng
đợc hiểu: Là hoạt động tự phê bình và phê bình của đảng viên và tổ chức
đảng, diễn ra trong sinh hoạt nổi bộ Đảng nhằm giáo dục rèn luyện đảng
viên của Đảng và củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng.
3.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin:
Mác - Ănghen cho rằng, tự phê bình và phê bình là rất cần thiết cho hoạt
động và phát triển bình thờng của Đảng Cộng sản. Ăngghen nhấn mạnh: việc Đảng
phê bình hoạt động đã qua của mình là việc thuyệt đối cần thiết và bằng cách đó
Đảng học cách hoạt động tốt hơn. Lênin coi phê bình và tự phê bình là quy luật
phát triển của đảng cách mạng.
3.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình:
Ngày 4/5/1951, tại Hội nghị kiểm thảo chiến dịch đờng số 18, Hồ Chủ tịch
nói: Khăn mặt và xà phòng dùng để tắm rửa cho sạch. Về tinh thần và t tởng,
cũng cần phải có khăn mặt và xà phòng để rửa cho sạch, nghĩa là phải phê bình và
tự phê bình. Trớc ta nói phê bình và tự phê bình, bây giờ phải nói tự phê bình và

phê bình. Nói nh thế là chú trọng phê bình mình trớc, phê bình ngời sau, phê bình
mình là chính, phê bình ngời là phụ. Có đề cao tự phê bình và triệt để tự phê bình
mới đẩy rửa đợc tinh thần và t tởng cho thật sạch. Tự phê bình và phê bình để thống
nhất t tởng. T tởng có thống nhất, hành động mới thống nhất. T tởng và hành động
có thống nhất mới đánh thắng đợc giặc.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1995, t. 6, tr. 206)

Trong bài Tự phê bình ký bút danh C.B đăng trên báo Nhân dân, Hồ Chủ
tịch viết: Tự phê bình là gì ? Là thật thà nhận, công khai nhận trớc mặt mọi ngời
những khuyết điểm của mình để tìm cách sửa chữa.
Điều đó nói thì dễ, nhng làm thì khó. Khó là vì ngời ta hay có lòng tự ái.
Thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình, thì sợ mất thể diện, mất uy tín, mất
địa vị.
Đó là lòng tự ái dại dột, khác nào có bệnh mà giấu bệnh. Giấu bệnh, thì càng
ngày bệnh càng nặng, đến khi quá nặng không chữa đợc nữa, thì chết. Giấu khuyết
điểm thì khuyết điểm càng ngày càng to, đến khi to quá, không sửa chữa đợc nữa,
thì mọi việc đều hỏng.
Ai cũng cần tắm rửa cho mình mẩy sạch sẽ. Thì ai cũng cần tự phê bình cho
t tởng và hành động đợc đúng đắn.
Những ngời cách mạng càng phải kiên quyết thực hành tự phê bình. Không
thực hành tự phê bình, thì không xứng đáng là ngời cách mạng.
Tự phê bình phải thế nào ?
Ngày nào cũng phải ăn cho khỏi đói, rửa mặt cho khỏi bẩn, thì ngày nào
cũng phải tự phê bình cho khỏi sai lầm.
10


Nghĩa là tự phê bình phải thờng xuyên, chứ không phải chờ có khai hội mới
tự phê bình, không phải khi làm khi không.
Tự phê bình phải thật thà. Khi tự mình kiểm điểm cũng nh khi tự phê bình trớc mọi ngời, có khuyết điểm gì nói hết, không giấu giếm chút gì. Phải tìm cho ra vì

sao mà sai lầm. Sai lầm ấy sẽ thế nào ? Dùng cách gì mà sửa chữa ? và phải kiên
quyết sửa chữa.
Tự phê bình và sửa khuyết điểm có khi dễ, nhng cũng có khi khó khăn, đau
đớn, vì tự ái, vì thói quen, hoặc vì nguyên nhân khác. Đó là một cuộc đấu tranh. Tự
mình, không đánh thắng đợc khuyết điểm của mình, mà muốn đánh thắng kẻ địch,
tự mình không cải tạo đợc mình, mà muốn cải tạo xã hội, thì thật là vô lý. Vì vậy,
ngời cách mạng nhất định phải thật thà tự phê bình và kiên quyết chữa khuyết
điểm.
( Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, H. 1995, t. 6, tr. 209-211)

Trong bài Phê bình ký bút danh C.B đăng báo Nhân dân, Hồ Chủ tịch viết:
Đảng viên và cán bộ, Đảng, các đoàn thể nhân dân và chính quyền cần phải hoan
nghênh và khuyến khích nhân dân phê bình. Nếu phê bình sai, thì phải giải thích.
Phê bình đúng thì phải công khai thừa nhận và sửa chữa.
Dìm phê bình hoặc phớt phê bình là khinh rẻ ý kiến nhân dân, là trái với dân
chủ, và rất hại, cũng nh bệnh mà từ chối uống thuốc.
Phê bình và tự phê bình là công việc thờng xuyên. Ngừng phê bình và tự phê
bình tức là ngừng tiến bộ, tức là thoái bộ.
Ngời ta luôn luôn cần không khí để sống. Ngời cách mạng và đoàn thể cách
mạng cần phê bình và tự phê bình tha thiết nh ngời ta cần không khí
Phê bình là cốt giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, cho nên thái độ của ngời
phê bình phải thành khẩn, nghiêm trang, đúng mực. Phải vạch rõ vì sao có khuyết
điểm ấy, nó sẽ có kết quả xấu thế nào, dùng phơng pháp gì để sửa chữa. Thuốc phải
nhằm đúng bệnh. Tuyệt đối không nên có ý mỉa mai, bới móc, báo thù. Không nên
phê bình lấy lệ. Càng không nên trớc mặt không nói, xoi mói sau lng.
Phê bình là quyền lợi và nhiệm vụ của mọi ngời, là thực hành dân chủ. Cấp
dới có quyền phê bình cấp trên. Nhân dân có quyền phê bình cán bộ, phê bình
chính quyền, Đảng và các đoàn thể. Mọi ngời có quyền phê bình nhau để cùng tiến
bộ.
Không phê bình tức là bỏ mất một quyền dân chủ của mình. Song phê bình

phải đờng hoàng, chính đáng, quyết không nên thầm thì thậm thụt, viết th giấu
tên.
(Hồ Chí Minh; Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1995, t. 6, tr. 242)

Trong bài Tự phê bình và phê bình ký bút danh C.B đăng trên báo Nhân
dân, Hồ Chủ tịch nêu rõ 4 điều cần chú ý khi tiến hành công tác này:
1- Mục đích: đoàn kết nội bộ từ trên đến dới, làm cho công việc tiến
hơn; thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân; sửa chữa những sai
lầm, khuyết điểm (thí dụ: bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa quần chúng v.v..).
2- Phơng hớng: mục đích tự phê bình và phê bình thì bất cứ ở nơi nào
cũng giống nhau. Nhng vì công việc khác nhau, nên mỗi nơi (thí dụ: bộ đội, cơ
quan, công đoàn, v.v.) có những u điểm và khuyết điểm khác nhau. Do đó, phơng
hớng kiểm thảo cũng phải khác nhau. Và ở mỗi nơi, trong những thời gian khác
nhau, phơng hớng kiểm thảo cũng phải khác nhau.
11


3- Trọng tâm: trong mỗi thời kỳ ắt có một, hai công tác chính Trong
công tác chính ấy, lại có khâu chính Lúc kiểm thảo phải nhằm vào u điểm và
khuyết điểm của trọng tâm ấy.
4- CáCH LàM: chia làm mấy bớc:
- Trớc tiên, phải đánh thông t tởng
- Nghiên cứu tài liệu
- Kiểm thảo công việc
- Kiểm thảo phải khởi đầu từ cấp trên, dần dần đến cấp dới
- Cán bộ cấp trên phải trực tiếp lãnh đạo từ lúc chuẩn bị cho đến lúc kết thúc
cuộc kiểm thảo.
(Hồ Chí Minh; Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1995, t. 6, tr. 412-413).

Trong chơng Phê bình và sửa chữa của tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí

Minh chỉ ra cách phê bình, cách thực hành và căn dạn cán bộ và đảng viên:
Múc đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để
sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ.
Vì vậy, phê bình mình cũng nh phê bình ngời phải ráo riết, triệt để, thật thà,
không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả u điểm và khuyết điểm. Đồng thời
chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không
phải phê bình ngời.
Những ngời bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì
bị phê bình mà nản chí hoặc oán ghét
Ngời có u điểm thì phải cố gắng thêm, và ngời khác phải cố gắng bắt chớc.
Mọi ngời phải tích cực sửa chữa khuyết điểm của mình và giúp anh em sửa chữa
khuyết điểm của họ. Mọi ngời phải nhớ rằng: cộng nhiều khuyết điểm nhỏ thành
một khuyết điểm to, sẽ rất có hại. Cộng nhiều u điểm nhỏ thành một u điểm lớn, rất
có lợi cho Đảng và cho công cuộc kháng chiến
Nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì thành tích
của Đảng còn to tát hơn nữa:
Cán bộ và đảng viên làm việc không đúng, không khéo, thì còn nhiều khuyết
điểm. Khuyết điểm nhiều thì thành tích ít. Khuyết điểm ít thì thành tích nhiều.
Đó là lẽ tất nhiên.
Vì vậy, ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi ngời
mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy
khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải nh
thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công.
Nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của ta, thì cũng nh giấu giếm
bệnh tật trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy
đến tính mệnh.
( Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, H. 1995, t. 5, tr. 232-233)

Trong chơng t cách và đạo đức cách mạng của tác phẩm Sửa đổi lối làm việc,
Hồ Chủ tịch nhấn mạnh và chỉ ra nguồn gốc của những khuyết điểm, sai lầm còn

tồn tại trong cán bộ, đảng viên: Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là
một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình vạch rõ những
cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi
12


tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Nh thế là một Đảng tiến bộ, mạnh
dạn, chắc chắn, chân chính
Đảng ta là một đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy,
có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh
khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó
lây, ngấm vào trong Đảng.
Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy,
tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhng vẫn có một số
cha bỏ hết những thói xấu tự t tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa v.v.. Những thói xấu đó có
đã từ lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ. Những thói xấu đó, họ mang từ xã hội vào
Đảng.
Đảng một mặt phải làm công việc giải phóng dân tộc, một mặt phải giáo
dục đảng viên và cán bộ, kiên quyết cảm hoá những phần tử xấu, sửa chữa những
thói xấu còn lại. Phải cố sửa chữa cho tiệt nọc các chứng bệnh, khiến cho Đảng
càng mạnh khoẻ, bình an.
( Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, H. 1995, t. 5, tr. 261-263)

Cũng trong chơng T cách và đạo đức cách mạng, Hồ Chủ tịch phân tích rõ 5
thái độ đối với khuyết điểm sai lầm còn tồn tại trong Đảng: Sự thật là: Đảng ta rất
tiên tiến, rất vẻ vang. Nhng nội bộ vẫn còn những sai lầm và khuyết điểm. Đồng
thời, chúng ta thấy cái nguồn gốc của những sai lầm khuyết điểm đó, và chắc tìm
đợc cách sửa chữa. Chúng ta quyết tâm công tác thêm, để làm cho Đảng tiến bộ
thêm mãi.
Thái độ mỗi ngời đối với những khuyết điểm của Đảng ta cũng khác nhau.

Bọn phản động thì lợi dụng những khuyết điểm đó và tô vẽ thêm để phá hoại
Đảng ta.
Lợi dụng những sai lầm và khuyết điểm đó, để đạt mục đích tự t, tự lợi của
họ. Đó là thái độ của đảng viên và cán bộ đầu cơ.
Bọn thứ ba thì sao cũng mặc kệ, sao cho xong chuyện thì thôi. Không phê
bình, không tự phê bình. Đó là thái độ những đảng viên và cán bộ ơn hèn yếu ớt.
Bọn thứ t thì đối với những ngời có khuyết điểm và sai lầm đó, nh đối với hổ
mang, thuồng luồng. Họ đòi phải đuổi bọn kia ra khỏi Đảng ngay. Nếu Đảng
không làm nh thế thì họ cho rằng: Thôi, hỏng hết rồi. Do đó, họ đâm ra chán nản,
thất vọng. Hoặc họ không làm gì nữa hết. Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ của
những ngời máy móc quá. Đó cũng là bệnh chủ quan.
- Thái độ thứ năm, là thái độ đúng. Tức là:
a.) Phân tách rõ ràng, cái gì đúng, cái gì là sai.
b.) Không chịu nổi ảnh hởng của những chủ trơng sai lầm, những phần tử không
tốt. Ra sức học tập và nâng cao những kiểu mẫu tốt.
c.) Không để mặc kệ. Mà ra sức tranh đấu sửa chữa những khuyết điểm, không
để nó phát triển ra, không để nó có hại cho Đảng.
d.) Không làm cách máy móc. Nhng khéo dùng cách phê bình và tự phê bình để
giúp đồng chí khác sửa đổi những sai lầm và khuyết điểm, giúp họ tiến bộ.
e.) Đoàn kết Đảng bằng sự tranh dấu nội bộ. Nâng cao kỷ luật và uy tín của
Đảng.
( Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, H. 1995, t. 5, tr. 263-264)
13


Trong bài tự phê bình, phê bình, sửa chữa ký bút danh C.B đăng trên báo Nhân
dân, Hồ Chủ tịch nhắc nhớ: Phê bình là cốt để giúp nhau tiến bộ. Cho nên phê
bình phải có thái độ thành khẩn, tính chất xây dựng. Không nên phê bình ẩn, phê
bình suông. Khi phê bình cần phải xét nguyên nhân của khuyết điểm, phải cân nhắc
đến u điểm, phải đề ra cách sửa chữa

Đảng và Chính phủ ta rất sẵn sàng nhận những lời phê bình của nhân dân và có
quyết tâm sửa chữa. Cho nên khi phê bình, chúng ta cần phê bình một cách thiết
thực và đề nghị phơng pháp sửa chữa hợp lý. Phê bình và giúp đỡ sửa chữa, đó là
quyền lợi và nghĩa vụ dân chủ của nhân dân ta.
Chỉ có đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật dân chủ mới dám mạnh
dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình, và kiên quyết sửa chữa. Do tự phê bình và
phê bình, nhất là phê bình từ dới lên mà chúng ta đoàn kết càng chặt chẽ, càng
đồng tâm nhất trí, càng tiến bộ không ngừng, càng chắc chắn thắng lợi trong sự
nghiệp xây dựng một nớc Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh.
(Hồ Chí Minh; Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1996, t. 8, tr. 222-223)

4./ Nguyên tác gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân:
4.1.) Khái niệm quan hệ giữa Đảng và nhân dân:
Quan hệ giữa Đảng và nhân dân là quan hệ xã hội đặc biệt, đợc hình thành
và phát triển trong điều kiện cách mạng vô sản. Vì vậy, mối quan hệ giữa Đảng với
dân là một phạm trù lịch sử. Trong mối quan hệ giữa Đảng và dân thì Đảng là một
thực thể chính trị, dân là một thực thể xã hội, không đồng nhất. Giữa hai thực thể
đó có mối quan hệ biện chứng ràng buộc, phụ thuộc, tác động qua lại lẫn nhau, cái
này lấy cái kia làm tiền đề tồn tại của mình.
4.2.) Chủ nghĩa Mác- Lêninh về quan hệ giữa Đảng và nhân dân:
Những ngời cộng sản chỉ nh những giọt nớc trong đại dơng nhân dân mênh
mông và chỉ riêng bàn tay những ngời cộng sản thì không thể xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Tính sáng tạo sinh động của quần chúng là nhân tố cơ bản của xã
hội mới. Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban
xuống. Tính chất máy móc, hành chính và quan liêu không dung hợp đợc với tinh
thần của chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của
bản thân quần chúng nhân dân. Chủ nghĩa xã hội chỉ là kết quả của lao động tự
giác và tinh thần sáng tạo cách mạng của hàng triệu triệu quần chúng lao động.
4.3.) Quan niệm của Hồ Chí Minh về sự gắn bó giữa Đảng và nhân dân:

Trong Th gửi uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lợng. Nếu
không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đờng. Vậy nên Chính phủ với nhân
dân phải đoàn kết thành một khối. Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nớc Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhng nếu nớc độc lập mà dân không hởng hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì
Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan, các Chính phủ từ toàn quốc cho đến
các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không
phải để đè đầu dân nh trong thời kỳ dới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
14


Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta
( Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1995, t. 4, tr.56-57)

Trong chơng Cách lãnh đạo của tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chủ tịch
khẳng định và phân tích sâu sắc cách làm việc với quần chúng; nêu 5 nguyên tắc
thực hành trong lãnh đạo: Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt
phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng.
Nghĩa là gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó,
nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên
truyền, giải thích cho quần chúng, và làm cho nó thành ý kiến đó. Đồng thời nhân
lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng hay không. Rồi lại tập
trung ý kiến của quần chúng, phát triển những u điểm, sửa chữa những khuyết
điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành.
Cứ nh thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần
trớc.
Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt

Làm việc với dân chúng có hai cách:
1. Làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. ép dân chúng làm.
Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chơng trình rồi lại đa ra cột vào cổ dân chúng,
bắt dân chúng làm theo
Họ quên rằng: Đảng ta và Chính phủ ta làm việc là làm cho dân chúng. Việc
gì, cũng vì lợi ích của dân mà làm. Làm theo cách quan liêu đó, thì dân oán. Dân
oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhng về mặt chính trị, là thất bại.
2. Làm theo cách quần chúng. Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng
bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Đợc dân chúng đồng ý. Do dân chúng
vui lòng ra sức làm.
Nh thế hơi phiền một chút, phiền cho những ngời biếng học hỏi và giải thích.
Nhng việc gì cũng nhất định thành công
Cố nhiên, không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo. Những
cán bộ cũng phải dùng cách so sánh của dân chúng mà tự mình so sánh. Nghĩa là
đem các ý kiến khác nhau để so sánh kỹ, phân tích kỹ các nội dung của các tầng
lớp xã hội có cái ý kiến đó. Tìm ra mối mâu thuẫn trong những ý kiến khác nhau
đó. Xem rõ cái nào đúng, cái nào sai. Chọn lấy ý kiến đúng, đa ra cho dân chúng
bàn bạc, lựa chọn lại, để nâng cao dần sự giác ngộ của dân chúng.
Thế gọi là: Tập trung ý kiến, ra sức thi hành
Làm nh thế mới tránh khỏi cái độc đoán, mới tránh khỏi sai lầm
Chúng ta phải kiên quyết bỏ sạch lối quan liêu, lối chật hẹp, lối mệnh lệnh.
Chúng ta phải kiên quyết thực hành theo nguyên tắc sau đây:
- Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân
chúng.
- Tin vào dân chúng. Đa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải
quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trớc mặt dân chúng.
Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Đa
vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta.
15



- Chớ kh giữ theo sáo cũ. Luôn luôn phải theo tình hình thiết thực của dân
chúng nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng, theo sự tự
nguyện của dân chúng mà tổ chức họ, tuỳ hoàn cảnh thiết thực trong nơi đó,
và lúc đó, đa ra tranh đấu.
- Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng. Nhng phải khéo tập
trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành cái đờng lối để lãnh đạo quần
chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà
hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân.
- Phải đa chính trị vào giữa dân gian. Trớc kia, việc gì cũng từ trên dội
xuống. Từ nay việc gì cũng phải từ dới nhoi lên.
Làm nh thế, chính sách, cán bộ và nhân dân sẽ nhất trí, mà Đảng ta sẽ
phát triển rất mâu chóng và vững vàng.
( Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1995, t. 5, tr.290-298)

5./ Nguyên tắc đoàn kết quốc tế:
Hồ Chí Minh là ngời đầu tiên đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với
cách mạng thế giới. Ngời chỉ rõ: Muốn cứu nớc và giải phóng dân tộc không có
con đờng nào khác con đờng cách mạng vô sản. Theo Ngời, muốn thực hiện đoàn
kết quốc tế điều đầu tiên là phải xác lập vị trí của Việt Nam trên trờng quốc tế.
T tởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh đòi hỏi phải định rõ đoàn kết với ai,
chống lại ai, đây là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt ảnh hởng trực tiếp đến thắng
lợi của cách mạng.
Xác định lập trờng của đoàn kết quốc tế. Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng
đợc khối đoàn kết quốc tế phải dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa
quốc tế vô sản. T tởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh còn chỉ ra những điều kiện,
nguyên tắc, hình thức tập hợp lực lợng.
Về đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, cách mạng Việt Nam phải
đoàn kết với các lực lợng cách mạng thế giới: Chúng ta cách mệnh thì cũng phải
liên lạc tất cả những đảng cách mệnh trong thế giới để chống lại t bản và đế quốc

chủ nghĩa (nh Đệ tam quốc tế).
( Hồ Chí Minh: Sđd, t.2, tr.281)

Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng
thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới cũng đều là đồng chí của nhân dân Việt
Nam. Đã là đồng chí thì sung sớng cực khổ phải có nhau.
Nh vậy, về đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh nêu 3 vấn đề lớn:
- Cách mạng Việt Nam phải đứng hẳn về phía phong trào công nhân và phong
trào giải phóng dân tộc thế giới để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa trên thế
giới.
- Xác định rõ quan hệ lợi ích dân tộc và cách mạng thế giới, giữa quyền lợi và
trách nhiệm, sự thống nhất của quan hệ này.
- Xác định rõ quan hệ cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc là tác
động qua lại. Cách mạng thuộc địa không thụ động ngồi chờ cách mạng
chính quốc.

16


Trong tác phẩm Thờng thức chính trị (1953), mục 30, Hồ Chí Minh bày tỏ
quan điểm quốc Từ của Đảng: Tinh thần quốc tế là đoàn kết giữ gìn hoà bình
thế giới, chống chính sách xâm lợc và chính sách chiến tranh của đế quốc.
( Hồ Chí Minh toàn tập-sđd-t.7-tr. 227-228)

Vì lợi ích của nhân dân lao động khắp thế giới là nhất trí. Họ đoàn kết để
giải phóng mình khỏi ách đế quốc. Vì vậy, cách mạng nớc nào cũng phải có
nhân dân lao động thế giới ủng hộ mới thắng lợi. Và khi thắng lợi, phải giúp đỡ
cách mạng của nhân dân các nớc khác. Đó là lập trờng quốc tế cách mạng
( Hồ Chí Minh toàn tập-sđd-t.7-tr. 228)


Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng, Hồ Chí Minh nói: Chúng ta kháng chiến, dân tộc bạn Miên, Lào cũng
kháng chiến. Bọn thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ là kẻ thù của ta và của dân
tộc Miên, Lào. Vì vậy, ta phải ra sức giúp đỡ anh em Miên, Lào, giúp đỡ kháng
chiến Miên, Lào; và tiến đến thành lập Mặt trận thống nhất các dân tộc ViệtMiên-Lào.
Chúng ta kháng chiến thắng lợi, một phần là nhờ sự đồng tình của các nớc
bạn và nhân dân thế thới. Vì vậy, chúng ta phải củng cố tình thân thiện giữa nớc
ta và các nớc bạn, giữa dân ta và nhân dân trên thế giới.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1995, t. 6, tr.174)

Trong Điễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
Quan sơn muôn dặm một nhà,
Bốn phơng vô sản đều là anh em!
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1996, t. 10, tr.195)

Trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi
phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin
và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.
Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nớc anh em nhất định sẽ đoàn kết
lại.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1996, t. 12, tr.511-512)

III./ Vận dụng t tởng hồ chí minh về các nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt của đảng trong giai đoạn hiện nay.
1.) Với nguyên tắc tập trung dân chủ:
1.1. Giải pháp chung: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều kiện Đảng
nắm chính quyền cần nắm vững 2 điểm cơ bản:
- Phải bảo đảm cho đờng lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, các quy

tắc sinh hoạt đảng, kế hoạch, pháp chế Nhà nớc đợc xây dựng sát đúng và đợc triệt để chấp hành.
- Phải trên cơ sở xác định rõ chế độ trách nhiệm của tổ chức và của mỗi ngời.
Phân rõ trách nhiệm quản lý của Trung ơng và địa phơng, giữa cấp trên và
cấp dới mà giữ vững tập trung, mở rộng dân chủ.
1.2. Những giải pháp cụ thể:
17


- Lập lại kỷ cơng, củng cố và giữ gìn kỷ luật trong Đảng và bộ máy Nhà nớc.
Nói và làm theo Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nớc.
- Nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ đảng viên, hiểu đúng và làm đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Tăng cờng sự lãnh đạo tập thể, đi đôi với cá nhân phụ trách.
- Nâng cao chất lợng sinh hoạt cấp uỷ và chi bộ, phát huy vai trò của bí th cấp
uỷ.
- Tự phê bình và phê bình phải trở thành nền nếp thờng xuyên trong sinh hoạt
của tất cả các tổ chức đảng.
- Sửa đổi phong cách làm việc, đi sâu, đi sát thực tế, cơ sở.
- Thiết lập toàn Đảng chế độ thông tin nhanh chóng và chính xác.
- Tăng cờng công tác kiểm tra, khen thởng và kỷ luật kịp thời.
2.) Với nguyên tác xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng:
- Xây dựng đờng lối, chủ trơng, chính sách đúng đắn.
- Bố trí đúng ngời đứng đầu tổ chức đảng và cơ quan chính quyền cùng cấp.
- Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Có quy chế công tác rõ ràng, chặt chẽ, nhất là về công tác cán bộ.
- Thờng xuyên tự phê bình và phê bình; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
kèn cựa địa vị, cơ hội, cục bộ, bản vị, bè phái.
- Bồi dỡng tình thơng yêu đồng chí, tôn trọng lẫn nhau.
- Giải quyết đúng những ý kiến khác nhau trong Đảng.
- Pháp hiện sớm hiện tợng mất đoàn kết, tập trung giải quyết và xử lý dứt điểm.

- Xoá bỏ các bất bình đẳng về thu nhập, điều kiện sinh hoạt.
Phòng ngừa, ngăn chặn địch và các phần tử xấu lợi dụng, kích động.
3.) Với nguyên tác tự phê bình và phê bình:
Trong giai đoạn cách mạng mới, để thực hiện tự phê bình và phê bình đạt
hiệu quả nh t tởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra, trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng hiện nay, mỗi tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt các giải
pháp cơ bản sau:
Một là: Thờng xuyên học tập, quán triệt sâu sắc đầy đủ t tởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng nhất là về tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao nhận thức cho
cán bộ, đảng viên. Đồng thời từng cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng cần nhận thức
và quán triệt những đặc tính và những đòi hỏi nghiêm ngặt của tự phê bình và phê
bình của Đảng khi tiến hành tự phê bình và phê bình.
Hai là: Khẩn trơng cụ thể hoá Nghị quyết của Đại hội X và các nghị quyết
của Đảng vào ngành, địa phơng, đơn vị mình. Tiếp tục cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng hiện nay, mỗi tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên phải có chơng trình
hành động cụ thể; quá trình tổ chức thực hiện phải tuân thủ các nguyên tắc, biện
pháp, quy trình, phải có thái độ đúng, phải làm thờng xuyên và đạt hiệu quả cao.
Ba là: Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng, nâng dần trình độ mọi mặt và cung
cấp thông tin cho cán bộ, đảng viên và quần chúng làm cơ sở cho mọi ngời tích cực
tham gia tự phê bình và phê bình đạt hiệu quả cao.
18


Bốn là: Thực hiện tốt chế độ, quy định tự phê bình và phê bình của Đảng.
Các cấp uỷ đảng phải gơng mẫu tự phê bình và phê bình, đề cao trách nhiệm và có
phơng pháp xem xét, xử lý đúng trớc mỗi khuyết điểm, sai lầm của tập thể, cá nhân
và đợc kết luận kịp thời, công khai rộng rãi.
Năm là: Kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình trong Đảng với phê bình
quần chúng.
Sáu là: Gắn tự phê bình và phê bình với công tác kiểm tra của Đảng.

Bảy là: Tăng cờng việc giúp đỡ và kiểm tra của cấp trên.
4.) Với nguyên tắc gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân:
Theo Hồ Chí Minh muốn gắn bó máu thịt với nhân dân, phải theo đúng
nguyên tắc sau:
- Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết;
- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân;
- Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích trớc nhân dân hiểu rõ;
- Có khuyết điểm thì thật thà phê bình trớc nhân dân, và hoan nghênh nhân
dân phê bình mình;
- Sẵn sàng học hỏi nhân dân;
Tự mình phải làm gơng mẫu cần kiệm, liêm chính để nhân dân noi theo.
5.) Với nguyên tắc đoàn kết quốc tế:
Theo Hồ Chí Minh, muốn thực hiện đoàn kết quốc tế điều đầu tiên là phải
xác lập vị trí của Việt Nam trên trờng quốc tế. Phải làm cho thế giới hiểu biết Việt
Nam.
Thứ hai, xác định lập trờng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh còn chỉ ra những
điều kiện, nguyên tắc, hình thức tập hợp lực lợng. Muốn thực hiện đợc đoàn kết
quốc tế phải có chính Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân lãnh đạo. Bởi lẽ, chỉ
có Đảng mới vạch ra đợc đờng lối và có khả năng tập hợp lực lợng, chịu tách nhiệm
thực hiện đợc đoàn kết rộng rãi lực lợng trong nớc cũng nh quốc tế. Trong đoàn kết
đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi.
Để có đợc đoàn kết quốc tế phải thông qua hoạt động thực tiễn và gắn liền
với các hình thức tổ chức thích hợp nhằm tập hợp lực lợng. Đoàn kết trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền của nhau, giúp nhau cùng tiến bộ. Đoàn kết, đặc biết là
với các nớc xã hội chủ nghĩa, các nớc yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới.
Mối quan hệ dân tộc và quốc tế. Nhận thức đúng đắn thời đại mới, thời đại
ngày nay là thời đại hợp tác hai bên cùng có lợi do đó đoàn kết quốc tế đóng vai trò
quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội, nhằm mục tiêu xây dựng đất n ớc
phát triển.


c. kết luận
Từ những nội dung đã trình bày, em cho rằng, t tởng Hồ Chí Minh về nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng ở thời điểm này nh là một sự tất yếu khách quan
19


và cần kịp. T tởng của Chỉ tịch Hồ Chí Minh về nguyên tác tổ chức và sinh hoạt
Đảng trong điều kiện hiện nay, theo em vẫn vẹn nguyên tính thời sự, vẹn nguyên
giá trị. Các tổ chức Đảng từ Trung ơng, tới cơ sở và tất cả các đảng viên của Đảng
hãy vì lợi ích của dân tộc mà ghi lòng tạc dạ và thực hiện nghiêm túc những lời dạy
bảo của Bác về nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Có làm tốt những điều đó,
Đảng mới trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo nhân dân, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới đất nớc vì mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh.
Trong t tởng Hồ Chí Minh, sinh hoạt đảng bao quát các quan hệ phổ biến
nhất của Đảng viên: đối với mình, đối với ngời, đối với việc. ở từng mối quan hệ,
Ngời đề ra các chuẩn mực cần thiết để cho mỗi đảng viên sống, làm việc một cách
trong sạch, lành mạnh. Đảng sẽ mạnh vì mỗi cán bộ, đảng viên tài năng, đức độ,
mỗi tổ chức cơ sở đảng là một pháo đài vững chắc; cán bộ, đảng viên thật sự là
những tấm gơng tiêu biểu để quần chúng học tập, noi theo. Vì thế, sinh hoạt đảng
hàm chứa các giá trị chính trị và văn hoá, đợc nhìn nhận theo chiều sâu văn hoá.
Văn hoá sinh hoạt đảng là một bộ phận hợp thành của văn hoá đảng. Đây là một
chủ đề thật sự thú vị.
Sự nghiệp đổi mới của nhân dân Việt Nam là con đờng vẻ vang, tự hào song
cũng đầy gian nan, thử thách. Hồ Chí Minh Ngời sáng lập, xây dựng và rèn
luyện Đảng Cộng sản Việt Nam đã yêu cầu Đảng phải thờng xuyên, thực hiện
nguyên tác tổ chức và sinh hoạt của Đảng để tăng cờng sức mạnh, đáp ứng yêu cầu
của nhiệm vụ mới. Với Ngời đây không chỉ là nhiệm vụ của một Đảng cầm quyền,
đó còn là trách nhiệm, là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng và những ngời
cộng sản Việt Nam trớc lịch sử, nhân dân và dân tộc. Những ngời cộng sản Việt

Nam không một chút nào đợc quên lý tởng cao cả của mình là: hết lòng, hết sức
phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi
trên đất nớc Việt Nam và trên toàn thế giới. Do vậy, hơn bao giờ hết Đảng Cộng
sản Việt Nam càng phải phấn đấu, rèn luyện để trở thành một Đảng thật trong sạch
vững mạnh, phải xây dựng Đảng trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
Đảng. Nhận thức đợc vị trí và vai trò của Đảng đối với vận mệnh của dân tộc, để
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xứng đáng là ngời lãnh đạo, ngời đầy tớ trung thành
của nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, và trớc yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
việc nghiên cứu, học tập, rèn luyện và làm theo t tởng Hồ Chí Minh về tổ chức và
sinh hoạt Đảng có ý nghĩa to lớn và rất quan trọng đối với mỗi cán bộ, đảng viên;
nhất là phục vụ kịp thời và thiết thực trong sinh hoạt nội bộ Đảng các cấp, góp phần
xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh.

20



×