TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
VIỆN ĐÀO TẠO QUỐC TẾ
BÀI THẢO LUẬN
MƠN: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ đề: Phân tích những điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước. Những vấn đề cần chú ý để xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Giáo viên hướng dẫn: Vũ Thị Thu Hà
Thực hiện: nhóm 4
MỤC LỤC
I. Những điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước.................2
1. Nhà nước dân chủ...........................................................................................2
1.1. Bản chất giai cấp của Nhà nước...............................................................2
1.2. Nhà nước của nhân dân............................................................................4
1.3. Nhà nước do nhân dân..............................................................................5
1.4. Nhà nước vì nhân dân................................................................................6
2. Nhà nước pháp quyền....................................................................................7
2.1. Nhà nước hợp hiến, hợp pháp...................................................................7
2.2. Nhà nước thượng tôn pháp luật................................................................8
2.3. Pháp quyền nhân nghĩa.............................................................................9
3. Nhà nước trong sạch, vững mạnh.................................................................11
3.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước................................................................11
3.2. Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước...................................................12
II. Những vấn đề cần chú ý để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam...............................................................................................15
1. Tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân...........................15
2. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài.....................................16
3. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước......17
4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật..
.............................................................................................................................19
5. Khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các nhà nước kiểu cũ:...........20
6. Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước...................21
Tài liệu tham khảo
Biên bản họp nhóm
Danh sách thành viên
1
A. MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc
ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, Người đã đưa ra những quan điểm vơ
cùng đặc sắc về nhà nước.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bước đột phá
trong tư duy về xây dựng nhà nước trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước kiểu mới ở Việt Nam. Đó là cơ sở chính trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh việc
nghiên cứu về nhà nước pháp quyền và thúc đẩy việc đổi mới một cách căn bản,
có hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước ở Việt Nam hiện
nay. Do vậy, trong thực hiện cần tiếp tục quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân.
B. NỘI DUNG
I. Những điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước.
1. Nhà nước dân chủ
1.1. Bản chất giai cấp của Nhà nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa
vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Khác với khái niệm “Nhà nước toàn dân”nhà nước phi giai cấp, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa trong tư tưởng
Hồ Chí Minh mang bản chất của giai cấp công nhân, một nhà nước mà mọi
quyền hành và lực lượng đều là của nhân dân, từ nhân dân mà ra. Tính chất dân
chủ nhân dân là đặc trưng nổi bật của chính quyền nhà nước kiểu mới.
2
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam thể hiện trên những
phương diện như sau:
Thứ nhất, Đảng Cợng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trị cầm quyền: Đảng
cầm quyền bằng phương thức:(1)Bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà
nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch; (2)Bằng hoạt động của
các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước;
(3)Bằng cơng tác kiểm tra.
Thứ hai, Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển đất nước: Mục
tiêu của Hồ Chí Minh là đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động cần có một tổ chức mạnh mẽ hướng tới mục tiêu
thống nhất, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời để thực hiện vai trị
đó.
Thứ ba, Ngun tắc tở chức và hoạt đợng của nhà nước ta là tập trung dân
chủ: Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, bảo đảm tính kỷ luật tự giác khi ý chí của đa số được khẳng định
và bắt buộc phục tùng.
Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp cơng nhân thống nhất với tính
nhân dân và tính dân tộc cơ bản chính là sự thống nhất về lợi ích của giai cấp
cơng nhân với lợi ích của nhân dân và dân tộc Việt Nam. Đây là một điểm rất
đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước:
Sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là kết quả đấu
tranh gian khổ của toàn thể dân tộc, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Toàn thể
nhân dân chung tay góp sức giành về độc lập, tự do. Bởi vậy, Nhà nước Việt
nam mới không phải của riêng giai cấp nào mà thuộc về nhân dân.
Hồ Chí Minh khẳng định quyền lợi cơ bản của giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích của nhân dân lao động và của tồn dân tộc, ln kiên trì mục
tiêu nhất qn vì quyền lợi của nhân dân. Nhà nước Việt Nam mới là người đại
diện, bảo vệ, đấu tranh không chỉ cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, mà cịn của
nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
3
Nhà nước mới ra đời đã và đang gánh vác nhiệm vụ tổ chức dẫn dắt nhân
dân bảo vệ độc lập, tự do đồng thời xây dựng một Việt Nam hịa bình tự do phát
triển. Con đường q độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa cộng sản là
con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định, cũng là sự nghiệp của
chính Nhà nước.
1.2. Nhà nước của nhân dân
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước mà
tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân một nhà nước “dân là chủ”- chủ thể tối cao của mọi quyền lực là nhân dân.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình
thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp:
Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ trong đó nhân dân trực tiếp quyết
định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc và quyền lợi của
dân chúng. Đây là hình thức dân chủ hồn bị nhất.
Dân chủ gián tiếp (dân chủ đại diện) là hình thức dân chủ mà trong đó nhân
dân thực thi quyền lực của mình thông qua các đại diện mà họ lựa chọn, bầu ra
và những thiết chế quyền lực mà họ lập nên.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ hoàn bị nhất,
được tạo điều kiện để thực hiện. Cịn trong hình thức dân chủ gián tiếp:
Qùn lực nhà nước là “thừa uỷ quyền” của nhân dân: Tự bản thân nhà
nước khơng có quyền lực, quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác.
Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn
những đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế
mà họ đã lập nên: Đảm bảo cho mọi quyền lực, trong đó có quyền lực nhà nước,
ln nằm trong tay nhân dân.
Ḷt pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân: Luật pháp phản
ánh ý nguyện và bảo vệ quyền lợi nhân dân, là công cụ thực thi quyền lực của
nhân dân, là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước
4
1.3. Nhà nước do nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước
do nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân “cử ra”, “tổ chức
nên” nhà nước dựa trên nền tảng pháp lý của một chế độ dân chủ và theo các
trình tự dân chủ với các quyền bầu cử, phúc quyết, v.v…
Nhà nước do nhân dân cịn có nghĩa “dân làm chủ”. “dân là chủ” xác định
vị thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, “dân làm chủ” nhấn mạnh
quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người chủ. Theo quan điểm
của Hồ Chí Minh: nhân dân vừa có quyền làm chủ vừa có nghĩa vụ tuân theo
đạo đức công dân.
Nhà nước do nhân dân làm chủ cịn bao hàm một nội dung quan trọng khác
đó là nhân dân có quyền kiểm sốt Nhà nước. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà
nước do dân là Nhà nước dân chủ, thể hiện quyền lực của giai cấp công nhân,
đồng thời cũng là bảo đảm thực thi quyền lực của nhân dân lao động.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam mới, nhân
dân có đủ điều kiện, cả về pháp luật và thực tế, để tham gia quản lý nhà nước.
Người nêu rõ quyền của dân, Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản
lý là ở chỗ: Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội, là cơ quan quyền lực cao nhất
của Nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Mọi công việc của bộ máy
nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của dân (thơng qua Quốc
hội do dân bầu ra).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân không chỉ thể
hiện ở việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, mà còn ở quyền bãi
miễn, kiểm soát, giám sát hoạt động của các đại biểu. Cơ chế dân chủ này nhằm
làm cho Quốc hội được trong sạch, giữ được phẩm chất, năng lực hoạt động.
5
Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời
nhân dân cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ
của mình. Khơng chỉ tun bố quyền làm chủ của nhân dân, cũng không chỉ đưa
nhân dân tham gia cơng việc nhà nước, mà cịn chuẩn bị và động viên nhân dân
chuẩn bị tốt năng lực làm chủ, quan điểm đó thể hiện tư tưởng dân chủ triệt để
của Hồ Chí Minh khi nói về nhà nước do nhân dân.
1.4 Nhà nước vì nhân dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân, khơng có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Cơ
quan nhà nước, các cán bộ nhà nước đều phải vì nhân dân phục vụ.
Theo Hồ Chí Minh, thước đo một Nhà nước vì dân là phải được lịng dân.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải
yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí cơng
vơ tư”, căn dặn cán bộ phải quan tâm đến những kiến nghị, đề đạt của nhân dân:
“hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải
được ta đặc biệt chú ý”
Trong Nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đầy tớ, nhưng đồng thời phải vừa
là người lãnh đạo nhân dân. Hai đòi hỏi này tưởng chừng như mâu thuẫn,
nhưng đó là những phẩm chất cần có ở người cán bộ nhà nước vì dân. Là người
đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ. Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh
mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như
vậy, để làm người thay mặt nhân dân phải gồm đủ cả đức và tài, phải vừa hiền
lại vừa minh.
Chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục những tiêu cực trong bộ máy nhà
nước là nhu cầu và việc làm thường xuyên, đảm bảo cho nhà nước thật sự là
6
công bộc của dân. Nếu thấu hiểu và làm đúng tư cách đó thì mỗi cán bộ, cơng
chức có thể phịng tránh, ngăn ngừa, khơng phạm phải những lỗi lầm kể trên.
2. Nhà nước pháp quyền
2.1. Nhà nước hợp hiến, hợp pháp
Hồ Chí Minh ln chú trọng xây dựng nền tảng pháp lí cho Nhà nước Việt
Nam mới, bác thấy rõ tầm quan trọng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống
chính trị - xã hội.
Điều này thể hiện trong bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” của nhóm
những người Việt Nam yêu nước tại Pháp do Người thay mặt nhóm gửi đến Hội
nghị Vécxây (Pháp) năm 1919. Bản yêu sách gồm 8 điểm, nội dung về đòi
quyền bình đẳng về pháp lý và tự do dân chủ tối thiểu cho dân tộc Việt Nam.
Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ lâm thời (ngày 3-9-1945), Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính
phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông
đầu phiếu để lập nên Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ
máy hợp hiến, thể hiện quyền lực tối cao của nhân dân như vậy thì nước ta mới
có cơ sở pháp lý vững chắc để làm việc với quân Đồng Minh, mới có quan hệ
quốc tế bình đẳng, mới thiết lập được một cơ chế quyền lực hợp pháp theo đúng
thông lệ của một Nhà nước pháp quyền hiện đại.
Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6-1-1946 với chế độ
phổ thơng đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Tất cả mọi người dân từ 18 tuổi
trở lên, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn giáo… đều
đi bỏ phiếu bầu những đại biểu của mình tham gia Quốc hội.
Ngày 2-3-1946, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã họp
phiên đầu tiên, lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà
nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây
7
chính là Chính phủ có đầy đủ tư cách pháp lý để giải quyết một cách có hiệu quả
những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta
2.2. Nhà nước thượng tơn pháp luật
Hồ Chí Minh ln chú trọng xây dựng hệ thống luật pháp dân chủ, hiện
đại. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, Nhà nước quản lý bằng bộ máy và bằng
nhiều biện pháp khác nhau, nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng Hiến pháp và
bằng pháp luật nói chung.
Muốn vậy thì trước hết phải làm tốt công tác lập pháp: Ở cương vị Chủ tịch
nước, Hồ Chí Minh đã hai lần tham gia vào quá trình lãnh đạo soạn thảo Hiến
pháp (Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959), đã ký lệnh công bố 16 ,
613 sắc lệnh trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức Nhà nước và pháp
luật, và nhiều văn bản dưới luật khác. Trong bối cảnh đất nước vừa phải kháng
chiến, vừa kiến quốc vơ cùng khó khăn sự ra đời của hệ thống luật pháp như trên
thể hiện rất rõ nỗ lực của Hồ Chí Minh và Nhà nước Việt Nam trong công tác
lập pháp.
Chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống, đảm bảo cho pháp luật được
thi hành và có cơ chế giám sát việc thi hành pháp luật: Cần thiết phải nâng cao
trình độ hiểu biết và năng lực sử dụng luật của người dân, giáo dục ý thức tôn
trọng và tuân thủ pháp luật trong nhân dân. Pháp luật là công cụ quyền lực của
nhân dân, vì thế điều quan trọng là phải “làm sao cho nhân dân biết hưởng
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. Việc
thực thi pháp luật có quan hệ rất lớn đến trình độ dân trí của nhân dân, vì vậy,
Hồ Chí Minh chú trọng đến vấn đề nâng cao dân trí, cơng tác giáo dục pháp luật
cho mọi người phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, làm cho nhân dân
có ý thức chính trị trong việc tham gia cơng việc của chính quyền các cấp.
Nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật: Người phê phán những hiện
tượng thể hiện tính thiếu nghiêm minh của pháp luật, như: “thưởng có khi quá
8
rộng, mà phạt thì khơng nghiêm”, lẫn lộn giữa cơng và tội. Điều đó địi hỏi pháp
luật phải đúng và phải đủ; tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho mọi
người dân; người thực thi pháp luật phải thật sự cơng tâm và nghiêm minh, v.v..
Khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát cơng việc của Nhà nước, giám
sát quá trình Nhà nước thực thi pháp luật, đồng thời không ngừng nhắc nhở cán
bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật.
Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật. Người tự giác khép mình vào kỷ luật, vào việc gương
mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật đã trở thành nền nếp, thành thói quen, thành lối ứng xử tự nhiên của
Hồ Chí Minh.
2.3. Pháp quyền nhân nghĩa
Nhà nước tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân “Pháp
quyền nhân nghĩa” tức là trước hết Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm thực
hiện đầy đủ các quyền con người, chăm lo đến lợi ích của mọi người. Tiếp thu
và vận dụng sáng tạo các lý thuyết hiện đại về quyền con người, Hồ Chí Minh
tiếp cận quyền con người một cách tồn diện. Sự nghiệp cách mạng chân chính
cần đấu tranh cho quyền con người, vì thế, mục tiêu giải phóng con người với
nghĩa làm cho con người tự do, thoát khỏi mọi áp bức bất cơng, thốt khỏi mọi
sự áp chế tiêu cực từ tự nhiên và xã hội, mọi người được hưởng quyền con
người một cách đầy đủ nhất đã hòa quyện một cách hữu cơ và trở thành mục
tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Nhà nước Việt
Nam ngay từ khi ra đời và luôn nhất quán quan điểm kiên quyết đấu tranh cho
quyền con người. Hiến pháp của đất nước đã ghi nhận một cách toàn diện quyền
con người ở Việt Nam. Đó là nền tảng pháp lý để bảo vệ và thực thi các quyền
con người đó một cách triệt để.
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hồ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
9
quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đây là một
trong những bản tun ngơn nhân quyền có tinh thần cách mạng, khoa học và
nhân văn cao cả; phản ánh một tầm nhìn thời đại, một tư duy sắc sảo về quyền
con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể nói, quyền con người trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là một khái niệm phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu trên các
phương diện quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội...
Trong pháp quyền nhân nghĩa, pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện.
Tính nhân văn của hệ thống luật pháp thể hiện ở việc ghi nhận đầy đủ và bảo vệ
quyền con người; ở tính nghiêm minh nhưng khách quan và công bằng, tuyệt đối
chống đối xử với con người một cách dã man. Ngay cả đối với những kẻ phản
bội Tổ quốc, Hồ Chí Minh tuyên bố rõ: “Chính phủ Việt Nam sẽ tha thứ hay
trừng trị họ theo luật pháp tuỳ theo thái độ của họ hiện nay và về sau. Nhưng sẽ
khơng có ai bị tàn sát”. Đặc biệt, hệ thống luật pháp đó có tính khuyến thiện, bảo
vệ cái đúng, cái tốt, lấy mục đích giáo dục, cảm hóa, thức tỉnh con người làm
căn bản.
Một nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn
pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước và xã hội. Là người theo lập
trường mácxít về nhà nước và pháp luật, hiển nhiên Chủ tịch Hồ Chí Minh phải
đề cao pháp luật. Tư tưởng và hành động của Người đã chứng minh điều ấy.
Nhưng là một người Á Đông vốn thấu hiểu bản chất và những giới hạn vốn có
của pháp trị cũng như thấu hiểu sự trường tồn và vai trò của đức trị nên Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khơng tuyệt đối hố một trong hai cơng cụ quản lý nhà nước
ấy. Với Hồ Chí Minh, việc xây dựng và thi hành pháp luật phải dựa trên nền
tảng đạo đức của xã hội và các giá trị đạo đức thấm sâu vào trong mọi quy định
của pháp luật. Đó là sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa “đức trị” và “pháp
trị”; trong “đức” có “pháp”, và ngược lại. Hành cho tốt đức cũng là hành pháp
đúng đắn; hành pháp đúng cũng tức là thực thi đức tốt. Nói cách khác, pháp luật
trong Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa phải là pháp luật vì con người
10
Lòng nhân ái bao la còn thể hiện ở nguyên tắc đánh kẻ chạy đi, không đánh
người quay lại. Hồ Chí Minh có chính sách khoan hồng đại lượng, đối xử nhân
đạo với tù binh. Cán bộ, đảng viên có lỗi, chú ý giáo dục nhiều hơn so với xử
phạt. Trân trọng ý kiến khác nhau, kể cả ý kiến trái với mình. Người chắt lọc
tinh hoa, tiếp thu hạt nhân hợp lý từ chủ nghĩa nhân văn phương Đông, phương
Tây, hình thành tư tưởng khoan dung đối với tất cả mọi người, trừ bọn cướp
nước, kẻ cố ý hại dân, cam tâm phản quốc. Tấm lòng Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhân hậu, bao dung cả với những vị quan lại cũ, những trí thức đã từng tham gia
chính quyền bù nhìn. Họ được Người cảm hóa bằng sự khoan dung.
3. Nhà nước trong sạch, vững mạnh
3.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, kiểm soát quyền lực nhà nước là tất
yếu. Quyền lực kiểm soát là do nhân dân ủy thác cho. Nhưng một khi đã nắm
giữ quyền lực, cơ quan hay cán bộ nhà nước đều có thể trở nên lạm quyền. để
đảm bảo tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân, cần kiểm sốt quyền lực nhà
nước.
Về hình thức kiểm sốt quyền lực Nhà nước:
Thứ nhất, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc, là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, Đảng có quyền và có trách nhiệm
kiểm sốt quyền lực Nhà nước. Muốn hoàn thành tốt mọi việc, thì tồn thể Đảng
viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của Đảng.
Và muốn như vậy, thì các cấp ủy Đảng phải tăng cường cơng tác kiểm tra. Việc
kiểm sốt phải có hệ thống và người đi kiểm soát phải là những người rất có uy
tín. Người cịn nêu rõ hai cách kiểm sốt là từ trên xuống và từ dưới lên, phải
“khéo kiểm soát”.
11
Thứ hai, dựa trên cách thức tổ chức bộ máy nhà nước và việc phân công,
phân nhiệm giữa các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 1946
do Hồ Chí Minh ghi rõ một số hình thức kiểm sốt bên trong Nhà nước, trong đó
nổi bật là kiểm sốt của Nghị viện nhân dân đối với Chính phủ, chẳng hạn, Nghị
viện nhân dân có quyền “Kiểm sốt và phê bình Chính phủ”, “Bộ trưởng nào
khơng được Nghị viên tín nhiệm thì phải từ chức”, v.v..
Thứ ba, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, vì thế, nhân
dân có quyền kiểm sốt quyền lực Nhà nước. Đây là hình thức được Hồ Chí
Minh đề cập rất cụ thể. Người nhấn mạnh: “Phải tổ chức sự kiểm sốt, mà muốn
kiểm sốt đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”1. Đảng cầm quyền
cần chú ý phát huy vai trị kiểm sốt quyền lực của nhân dân, bởi so với số nhân
dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một đảng viên.
Nếu khơng có nhân dân giúp sức, thì Đảng khơng làm được việc gì hết. Đối với
Nhà nước, là công bộc của dân, “mọi công tác phải dựa hẳn vào quần chúng,
hoan nghênh quần chúng đôn đốc và kiểm tra”
3.2. Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước
Đặc quyền, đặc lợi: biểu hiện là những thói cậy mình là người trong cơ quan
chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét
tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa
vào chủ nghĩa cá nhân.
Tham ơ, lãng phí, quan liêu: Hồ Chí Minh coi tham ơ, lãng phí, quan liêu là
“giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Quan
điểm của Hồ Chí Minh là: “Tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay
khơng, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến... Tội lỗi ấy cũng
nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”. Ngày 27-11-1946, Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm
tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26-1-1946, Hồ Chí
Minh ký lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp đến mức cao nhất là tử hình.
12
Lãng phí: lãng phí ở đây được Hồ Chí Minh xác định là lãng phí sức lao
động, lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của. Chống lãng phí là biện pháp để tiết
kiệm, là quốc sách của mọi quốc gia.
Bệnh quan liêu: khơng những có ở cấp trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện
mà cịn có ngay ở cả cấp cơ sở. Hồ Chí Minh phê bình những người và các cơ
quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo
dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với cơng việc thì trọng
hình thức mà khơng xem xét khắp mọi mặt, không đi sâu từng vấn đề, đã ấp dủ,
dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các
bệnh tham ơ, lãng phí; muốn trừ sạch bệnh tham ơ, lãng phí thì trước hết phải
tẩy sạch bệnh quan liêu.
“Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”. Những căn bệnh trên gây mất đồn kết,
gây rối cho cơng tác. Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, tệ nạn bà
con bạn hữu mình khơng tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có
tài có đức, nhưng khơng vừa lịng mình thì đẩy ra ngồi. Trong chính quyền, cịn
hiện tượng gây mất đồn kết, khơng biết cách làm cho mọi người hồ thuận với
nhau, cịn có người “bệnh vực lớp này, chống lại lớp khác”. Ngoài bệnh cậy thế,
có người cịn kiêu ngạo, “tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh
rồi... cử chỉ lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng”, làm mất uy tín của Chính
phủ.
Để tìm ra biện pháp phịng, chống tiêu cực trong bộ máy nhà nước, Hồ Chí
Minh đã dày công luận giải nguyên nhân nảy sinh tiêu cực: (1)Nguyên nhân chủ
quan: chủ nghĩa cá nhân, tự sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện của bản thân cán bộ.
(2)Nguyên nhân khách quan: công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước chưa tốt;
do cách tổ chức, vận hành trong Đảng, trong Nhà nước, sự phối hợp giữa Đảng
với Nhà nước chưa thật sự khoa học, hiệu quả; do trình độ phát triển còn thấp
của đời sống xã hội; do tàn dư của những chính sách phản động của chế độ thực
dân, phong kiến; do âm mưu chống phá của các lực lượng thù địch, v.v.. Các
13
ngun nhân này khơng tồn tại biệt lập, mà có sự kết hợp với nhau, tiến công
vào đội ngũ cán bộ. Nếu Đảng và Nhà nước khơng có biện pháp phịng, chống
tốt, khơng có chính sách bảo vệ cán bộ một cách có hiệu quả, thì nguy cơ mất
cán bộ là rất lớn.
Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước là nhiệm vụ hết sức khó khăn.
Trong nhiều tác phẩm khác nhau, ở nhiều thời điểm khác nhau, Hồ Chí Minh đã
nêu lên nhiều biện pháp khác nhau. Khái quát lại, có thể thấy nổi bật một hệ
thống biện pháp cơ bản như sau:
Một là, nâng cao trình độ dân chủ trong xã hội, thực hành dân chủ rộng rãi,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân đó là giải pháp căn bản và có ý nghĩa lâu
dài.
Hai là, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công
tác kiểm tra phải thường xuyên. Cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc và tự giác
tuân thủ pháp luật, kỷ luật. Đối với những kẻ thối hóa, biến chất, pháp luật phải
“thẳng tay trừng trị”, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì.
Ba là, coi trọng giáo dục, lấy giáo dục, cảm hóa làm chủ yếu. Trong giáo
dục cán bộ, phải coi trọng giáo dục đạo đức, xây dựng hệ chuẩn mực đạo đức
của người cầm quyền, khơi dậy lương tâm trong mỗi con người. Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: “cán bộ các cơ quan, các đồn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì
quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có
dịp ăn của đút, có dịp “dĩ cơng vi tư”
Bốn là, cán bộ phải đi trước làm gương, cán bộ giữ chức vụ càng cao, trách
nhiệm nêu gương càng lớn. Cán bộ, người đứng đầu có ý thức nêu gương tu
dưỡng đạo đức, chống tiêu cực, sẽ có tác động rất mạnh mẽ đến cấp dưới, đến
nhân dân, góp phần gây nên những đức tính tốt trong nhân dân. Đây là một nét
đặc sắc trong văn hố chính trị Việt Nam.
14
Năm là, huy động sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước vào cuộc chiến chống
lại tiêu cực trong con người, trong xã hội và trong bộ máy Nhà nước. Bất kỳ
người Việt Nam nào có lịng tự hào, tự tơn dân tộc, thì dù là người dân bình
thường, hay cán bộ, đảng viên, thì đều phải có trách nhiệm tu dưỡng và thực
hành đạo đức cách mạng
II. Những vấn đề cần chú ý để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
1. Tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
Bản chất của nhà nước ta là một nhà nước dân chủ, việc tôn trọng bảo vệ
và phát huy quyền làm chủ của người dân là điều vô cùng cần thiết để giữ vững
lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước trong công cuộc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên thực tế, quyền làm chủ của
nhân dân đơi khi cịn khá mơ hồ, được hiểu khơng đầy đủ trong khi đó nhân dân
có vai trò to lớn, ý nghĩa cực kỳ quan trọng với công cuộc xây dựng Nhà nước.
Hội nghị Trung ương lần thứ ba khố VIII đã thơng qua nghị quyết “Phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam trong sạch, vững mạnh”. Nghị quyết khẳng định cần tiếp tục thực hiện
Nghị quyết lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, trong đó có nhấn
mạnh một điểm là tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của
nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân
tham gia xây dựng và bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân
dân đối với hoạt động của cơ quan và cán bộ công chức Nhà nước:
Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước để thực thi quyền
lực của nhân dân: Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành
cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi
chủ trương, đường lối thuộc tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã hội phải được xem
xét và giải quyết từ địa vị của người dân.
15
Tiếp tục mở rộng và cụ thể hóa dân chủ trực tiếp cho người dân: Nâng cao
ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, tạo điều kiện để người dân nâng cao năng
lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân.
Phát huy dân chủ kết hợp tăng cường pháp chế XHCN: Văn hóa dân chủ
phát huy tác dụng của nó trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong các mối
quan hệ con người để phát triển dân chủ thực chất, khắc phục dân chủ hình thức,
chống lại những vi phạm dân chủ và quyền làm chủ của người dân, chống quan
liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng có hiệu quả rõ rệt nhất.
2. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài
Đội ngũ cán bộ, công chức của nước ta hiện nay được đánh giá là đông
nhưng chưa mạnh, bên cạnh những cán bộ ưu tú thì tình trạng thối hóa, biến
chất, tiêu cực còn diễn biến phức tạp, chậm khắc phục. Điều này yêu cầu nhà
nước cần chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có đức vừa có tài, trong
sạch, vững mạnh. Hồ Chí Minh có đề cập những yêu cầu chủ yếu sau đây đối
với đội ngũ cán bộ, đảng viên:
Thứ nhất, phải tuyệt đối trung thành với Đảng: Vô luận lúc nào, vô luận
việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá
nhân lại sau.
Thứ hai, phải là những người nghiêm chỉnh thực hiện cương lĩnh, đường
lối, quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng và các nguyên tắc xây dựng
Đảng.
Thứ ba, phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng.
Thứ tư, phải ln ln học tập nâng cao trình độ về mọi mặt.
Thứ năm, phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân: Phải làm đầy tớ thật
trung thành cho nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân;
tiên phong, gương mẫu, chịu khổ trước nhân dân và vui sau nhân dân.
16
Thứ sáu, phải luôn luôn chịu trách nhiệm, năng động, sáng tạo. Không thụ
động, không lười biếng mà phải là những người, luôn luôn sáng tạo, hăng hái,
dám chịu trách nhiệm
Thứ bảy, phải là những người ln ln phịng và chống các tiêu cực:
Trong việc phòng và chống các tiêu cực, phải đặc biệt phịng và chống tham ơ,
lãng phí, quan liêu.
Đội ngũ cán bộ, công chức từng bước được chuẩn hóa, nâng cao về chất
lượng, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính. Về cơ bản, đội ngũ cán bộ, cơng
chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu lý tưởng XHCN,
quan điểm lập trường đúng đắn, trung thành với Tổ quốc, với nhân dân. Hồ Chí
Minh u cầu cán bộ, đảng viên có nhiệm vụ gương mẫu chấp hành pháp luật
của Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần chúng mà mình
tham gia, phải có phẩm chất đạo đức cần thiết: công bằng, liêm khiết, trong
sạch; phải gần dân, giúp dân, học dân, hiểu dân để giúp mình thêm liêm khiết,
thêm cơng bằng, trong sạch.
3. Đề phịng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước
Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân khơng bao giờ tách rời với
việc làm cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Trong quá trình lãnh đạo
xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, những tiêu cực sau đây cần đề
phòng và khắc phục: (1)Đặc quyền, đặc lợi; (2)Tham ơ, lãng phí, quan liêu;
(3)Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo
Thời gian qua cuộc đấu tranh phòng chống tiêu cực vẫn cịn nhiều hạn chế.
Nhìn vào thực tế tình trạng tiêu cực trong hoạt động nhà nước hiện nay càng
thấy những lời dạy bảo của Hồ Chí Minh là vô cùng sâu sắc và hết sức quý báu.
Các cơ quan có trách nhiệm của Đảng và Nhà nước càng phải thực hiện tốt hơn
những lời dạy nghiêm túc của Người về thực hành tiết kiệm và chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu....
17
Đại hội XIII của Đảng cũng đã chỉ ra những mặt tồn tại, hạn chế trong công
tác xây dựng Đảng. Đó là, “Cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt u
cầu. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội,
chủ nghĩa cá nhân và các tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, cơng chức diễn ra
nghiêm trọng”. Chính vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà
nước là phải thực hiện cho được lời Hồ Chí Minh dạy về nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, triệt tận gốc bệnh tư túng, chia rẽ, kiêu
ngạo.
Để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong đấu tranh phòng, chống tiêu cực
trong Nhà nước cần thực hiện những điểm sau:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng
phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra phải thường xuyên. Cán bộ, đảng viên
phải nghiêm túc và tự giác tuân thủ pháp luật, kỷ luật.
Thứ hai, phạt nghiêm minh, nghiêm khắc, đúng người đúng tội, khơng lạm
dụng hình phạt. Coi trọng giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức, xây dựng hệ chuẩn
mực đạo đức của người cầm quyền, khơi dậy lương tâm trong mỗi con người.
Thứ ba, cán bộ phải đi trước làm gương, cán bộ giữ chức vụ càng cao, trách
nhiệm nêu gương càng lớn. Cán bộ, người đứng đầu có ý thức nêu gương tu
dưỡng đạo đức, chống tiêu cực, sẽ có tác động rất mạnh mẽ đến cấp dưới, đến
nhân dân, góp phần gây nên những đức tính tốt trong nhân dân.
Thứ tư, huy động sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước vào cuộc chiến chống
lại tiêu cực trong con người, trong xã hội và trong bộ máy Nhà nước.
Nếu làm tốt công tác chống những tiêu cực này sẽ giúp chúng ta đoàn kết,
giúp cán bộ cải tạo tư tưởng, nâng cao giác ngộ, thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật thà phụng sự cách mạng và nhân dân. Giúp chính quyền ta thành một
chính quyền trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với lòng tin tưởng và sự hy sinh
của chiến sĩ và đồng bào. Điều đó cũng giúp cho mọi người dân nâng cao tinh
18
thần trách nhiệm, tinh thần làm chủ, ý thức bảo vệ của công, hăng hái thi đua
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà.
4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường tính nghiêm minh của pháp
luật
Hệ thống pháp luật có vị trí vơ cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng
nhà nước, là cơ sở đảm bảo dân chủ, bình đẳng, cơng bằng và tiến bộ xã hội.
Trên thực tế lịch sử, chưa có văn bản pháp luật nào là hoàn mỹ, kể từ khi thành
lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay, nước ta đã có rất nhiều lần thay
đổi các điều luật, bộ luật; điều đó chứng minh chúng ta khơng tránh được những
lỗ hổng, sai sót trong việc xây dựng hệ thống pháp luật. Việc ln ln ý thức
hồn thiện hệ thống pháp luật là một vấn đề rất cần chú ý trong quá trình xây
dựng Nhà nước.
Những tư tưởng lớn của Người về tầm nhìn, nội dung, yêu cầu và cả cách
tư duy trong thiết kế và thực thi pháp luật:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt Nam cần xây dựng là hệ thống pháp luật
chứa đựng những giá trị công bằng, nhân văn, chính nghĩa, vì nhân dân lao động
và vì con người
Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt Nam cần xây dựng là hệ thống pháp luật
dựa trên nền tảng Hiến pháp dân chủ và các đạo luật
Thứ ba, pháp luật là công cụ cần thiết “giữ gìn quyền lợi của nhân dân” và
duy trì trật tự xã hội
Thứ tư, hệ thống pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ
cần được đặc biệt coi trọng để thiết lập và vận hành Nhà nước thực sự của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân
Thứ năm, bảo đảm dân chủ trong quá trình xây dựng pháp luật: Trong việc
xây dựng hệ thống pháp luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng tính nhân văn,
dân chủ, vì con người.
19
Thứ sáu, bảo đảm tính khách quan của pháp luật: Chủ tịch Hờ Chí Minh
rất coi trọng ngun tắc khách quan trong q trình xây dựng và hồn thiện pháp
luật. Nội dung của pháp luật phải phù hợp với các quy luật khách quan, bảo đảm
phát huy vai trị tích cực của pháp luật đối với đời sống.
5. Khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các nhà nước kiểu cũ
Đảng ta đã xác định Việt Nam thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN, tuy nhiên xã hội vẫn tồn tại các yếu tố của các nhà nước kiểu cũ. Trong
quá trình đi lên CNXH, chúng ta cần phải rút ra những kinh nghiệm từ việc thất
bại của các nhà nước kiểu cũ, để thành công xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN. Bởi vậy, xây dựng nhà nước luôn cần đi đôi khắc phục được những căn
bệnh cố hữu của các nhà nước kiểu cũ.
Những căn bệnh cố hữu của hình thức nhà nước phong kiến:
Thứ nhất, đội ngũ quý tộc tha hóa, bổ nhiệm chức quan thừa thãi khơng hiệu
quả. Trình độ, năng lực trị nước an dân của quan chức quý tộc không cao nhưng
vẫn được trọng dụng.
Thứ hai, sự mất bình đẳng về kinh tế: Khoảng cách giàu nghèo và sự bất
bình đẳng về kinh tế dẫn đến bất bình đẳng xã hội.
Thứ ba, quyền hành của nhà vua bị hạn chế do chế độ tự trị của làng xã: Hệ
thống pháp luật chưa được coi trọng như công cụ tất yếu của đời sống, chưa áp
dụng pháp luật đến toàn xã hội.
Thứ tư, Những tập quán chính trị: Các triều đại phong kiến Việt Nam lấy
cách thức xử sự của tiên vương bao gồm chính lệnh, luật pháp, tập quán cai trị
làm khn mẫu trong cách thức cai trị của mình. Các chế định trong các bộ luật
đó dù có lạc hậu hơn so với đời sống kinh tế xã hội cũng khơng được loại bỏ,
các đời vua kế tiếp chỉ có quyền bổ sung thêm để khắc phục tình trạng lạc hậu
hơn của các điều khoản.
Những căn bệnh cố hữu của hình thức nhà nước chủ nghĩa tư bản:
20
Thứ nhất, tước đoạt ruộng đất của nông dân, cũng như việc tước đoạt tư
liệu sản xuất của người lao động, đẩy những người lao động trở thành người làm
thuê.
Thứ hai, các cuộc chiến tranh thế giới với mục đích tranh giành thị trường,
thuộc địa và khu vực ảnh hưởng đã để lại cho loài người những hậu quả nặng
Thứ ba, mâu thuẫn giữa tư sản và công nhân: Cơ sở cho sự tồn tại và phát
triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân
làm thuê. Mặc dù so với các hình thức bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử, bóc
lột tư bản chủ nghĩa cũng đã là một sự tiến bộ.
Thứ tư, tạo dựng giai cấp thực hiện sự thống trị, bóc lột giai cấp công nhân
và những người lao động trong CNTB
Bản chất của chế độ TBCN là chế độ thống trị của số ít giàu có, vận hành
xã hội nhằm mang lại lợi ích cho một bộ phận nhỏ trong xã hội và những thứ tự
do, dân chủ mà họ vẫn rêu rao vẫn chỉ là lớp son phấn che phủ cho thực chất
chuyên chế của những tập đoàn tư bản độc quyền.
Nhận thấy những thiếu sót và những sai lầm của các nhà nước kiểu cũ, Hồ
Chí Minh đã chỉ ra xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những căn
bệnh cố hữu của các nhà nước kiểu cũ là một trong những việc cần chú ý để xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuyệt đối không mơ
hồ trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với các giá trị
văn hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, kiên quyết chống luận điệu xuyên
tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” tư sản để
xuyên tạc những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã xây
dựng, vun đắp trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
6. Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Trong điều kiện một đảng cộng sản duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cả nước
thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế, hội nhập với thế giới. Lý luận
21
về Đảng cầm quyền, về phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới với
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới và hội nhập
quốc tế còn nhiều vấn đề mới mẻ, chưa có kinh nghiệm thực tiễn, địi hỏi phải
tìm tịi, vừa làm vừa rút kinh nghiệm.
6.1. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ những tồn tại, hạn chế, bất cập trong thực
hiện phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua tổ chức đảng và đảng viên
trong các cơ quan nhà nước.
Quan điểm, nhận thức về phương thức lãnh đạo để chuyển từ nghị quyết,
chỉ thị, kết luận của Đảng thành quyết định quản lý, điều hành của các cơ quan
nhà nước tương ứng còn lúng túng.
Trong một số trường hợp chưa phân định rõ quyền lãnh đạo của Đảng với
quyền quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước dẫn đến trường hợp tổ chức
Đảng bao biện, làm thay hoặc dễ bị buông lỏng sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt
động của các cơ quan quản lý nhà nước.
Cơng tác tun truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều
nơi chưa được làm đầy đủ, tới nơi tới chốn, sức thuyết phục kém nên không đủ
sức động viên đảng viên và nhân dân; hiệu quả cịn chưa đạt u cầu, thậm chí
có nơi làm cịn hình thức.
Chất lượng hoạt động của tổ chức đảng cịn nhiều bất cập: Có nơi thực hiện
khơng đầy đủ, méo mó hoặc làm chiếu lệ những nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt
cơ bản của Đảng như nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Chế độ sinh hoạt còn nặng tính hình thức, bệnh
thành tích cịn khá phổ biến dẫn tới che giấu khuyết điểm
Còn thiếu quan tâm, chưa thường xuyên, tiến hành kiểm tra, giám sát đối
với hoạt động của tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên nên không chủ động phát
hiện được các vụ việc tiêu cực, bê bối để ngăn chặn, chấn chỉnh hoặc xử lý kịp
22
thời, lại do quần chúng tố giác, báo chí và dư luận xã hội phê phán làm suy giảm
uy tín của tổ chức Đảng.
Trong sinh hoạt, tình trạng “ngại nói thật” vì sợ mất lịng là khá phổ biến:
Từ sự thờ ơ dẫn đến sự thiếu thẳng thắn, ý thức, tinh thần chiến đấu khơng cao,
khơng phát huy được trí tuệ tập thể, tính giáo dục, vai trị lãnh đạo hạt nhân
chính trị ở cơ quan, tổ chức giảm sút.
Người đứng đầu tổ chức đảng (ban cán sự đảng, đảng đồn) hoặc cấp uỷ
của cơ quan, đơn vị có tư tưởng độc đoán, chuyên quyền thực hiện trái thẩm
quyền, trách nhiệm dẫn tới vi phạm nguyên tắc, quy trình, thủ tục... dẫn đến sai
phạm của cá nhân.
Người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng trong cơ quan nhà nước do chủ nghĩa
cá nhân, vụ lợi, đã lợi dụng cơ chế tập thể để hợp pháp hoá quyết định, thực hiện
ý đồ cá nhân trong quyết định công tác cán bộ, các thành viên khác do còn nể
nang, né tránh đã để người đứng đầu lạm quyền, lộng quyền nhằm trục lợi cho
bản thân hoặc người thân trong gia đình theo kiểu “hậu duệ, quan hệ, tiền tệ...”
hoặc vì nhóm lợi ích...
6.2 Để tiếp tục đổi mới cũng như khắc phục các tồn tại cũ trong phương thức
lãnh đạo của Đảng đồng thời và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước, Đại hội XIII của Đảng vận dụng những tư tưởng, chỉ đạo của chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng đã đề ra một số giải pháp cần được thực hiện như sau:
Một là, tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng
những quy chế, quy định, quy trình cụ thể và công khai để cán bộ, đảng viên và
Nhân dân biết, giám sát việc thực hiện.
Hai là, cần có những quy định cụ thể về vai trò của Đảng; gắn bó mật thiết
với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, tôn trọng lợi
23
ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân, thực hiện tốt phương châm: “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; chịu trách nhiệm
trước Nhân dân về những quyết định của mình.
Ba là, đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát,
kiểm sốt chặt chẽ quyền lực, chống tha hóa quyền lực; đề cao trách nhiệm của
các địa phương gắn với việc bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý thống nhất
của Trung ương.
Bốn là, tăng cường quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu và mối
quan hệ giữa tập thể cấp ủy, tổ chức đảng với người đứng đầu, bảo đảm thực
hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách;
có cơ chế xử lý đối với người đứng đầu khi có vi phạm.
Năm là, tiếp tục đổi mới, kiện toàn các tổ chức trong hệ thống chính trị
theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, tôn trọng
quyền làm chủ của Nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm
chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu
quả các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và coi trọng việc sơ kết,
tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện các nghị quyết của Đảng. Cụ thể hóa
mối quan hệ tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Bảy là, tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục
thuyết phục các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng
thuận xã hội để thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Tám là, quan tâm công tác tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc: phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, thực hành dân chủ. đấu
tranh với các quan điểm sai trái, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
24