Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN ĐẦU TƯ QUỐC TẾ 3 TÁC ĐỘNG ĐÁNG CHÚ Ý CỦA FDI TỚI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.68 KB, 30 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
-----------------------

BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
[NHÓM 10]

ĐỀ TÀI:
3 TÁC ĐỘNG ĐÁNG CHÚ Ý CỦA FDI
TỚI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn:
TS. Mai Hương Giang

HÀ NỘI
[12/2021]



Mục lục
Tóm tắt:.................................................................................................................4
PHẦN 1: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ THỰC TRẠNG.............................. 5
1. ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.......................................................5
1.1. Khái niệm.............................................................................................. 5
1.2. Hình thức đầu tư....................................................................................5
1.3. Phân loại................................................................................................5
1.4. Những tác động của FDI..........................................................................6
1.4.1. Tích cực.............................................................................................6
1.4.2. Tiêu cực............................................................................................. 7
2. VIỆT NAM VÀ THU HÚT FDI....................................................................7
2.1. Thuyết “cái vòng luẩn quẩn” và “cú huých từ bên ngoài”...................... 7
2.2. Quá trình hình thành đầu tư trực tiếp ngước ngoài tại Việt Nam............8


2.3. Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam...........9
PHẦN 2: THẢO LUẬN VÀ PHÂN TÍCH 3 TÁC ĐỘNG ĐÁNG CHÚ Ý CỦA
FDI TỚI VIỆT NAM HIỆN NAY...................................................................... 12
Điểm chung giữa Việt Nam và Cristiano Ronaldo là gì?....................................12
1. Năng suất lao động.......................................................................................13
2. Gia tăng xuất khẩu..................................................................................... 17
3. Lan toả công nghệ......................................................................................22
KẾT LUẬN.........................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................30


Tóm tắt:
Công cuộc Đởi mới được triển khai vào năm 1986 đã đưa Việt Nam trơ
thành một điển hình thành công của các nền kinh tế chuyển đổi. Đây cũng là
thời điểm bắt đầu dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam và hội
nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Mặc dù dòng vốn ban đầu còn “nhỏ giọt”,
“chậm rãi” và “thăm dò” nhưng với sự nỗ lực của Việt Nam trong nhiều năm
sau đó bằng việc áp dụng nhiều chính sách tích cực để thu hút dòng vốn FDI
như chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt, cải cách chính sách thuế, mơ cửa nền
kinh tế, lạm phát trong tầm kiểm soát, hội nhập quốc tế sâu và rộng, .... Kết quả
là dòng vốn FDI tăng nhanh cả về chất lượng và số lượng, từ đó nhiều tập đoàn
đa quốc gia dần có mặt tại Việt Nam. Những tác động của dòng vốn FDI đối với
nền kinh tế Việt Nam? Mục đích của bài viết này là phân tích 3 tác động đáng
chú ý của dòng vốn FDI đối với Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, bài viết còn đưa
ra một số giải pháp khuyến nghị góp phần nâng cao sự hiệu quả của những tác
động này tới Việt Nam.


PHẦN 1: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ THỰC TRẠNG
1. ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

FDI: Foreign Direct Investment
1.1.

Khái niệm

FDI là một loại hình đầu tư liên quan tới mới quan hệ dài hạn, phản ánh lợi ích
và qùn kiểm sốt lâu dài của một chủ thể cư trú tại một nền kinh tế (nhà đầu
tư tực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối với một doanh nghiệp cư trú tại một
nền kinh tế khác với nơi nhà đầu tư nước ngoài cư trú (doanh nghiệp FDI, doanh
nghiệp liên kết hoặc chi nhánh tại nước ngoài).
- UNCTAD,1999 1.2. Hình thức đầu tư
Hiện nay có các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài phổ biến:
(1) Mua cổ phiếu có quyền biểu qút tại cơng ty nước ngoài, thâu tóm cổ
phần.
(2) Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
(3) Liên doanh với mục đích thuận lợi cho việc đầu tư một lĩnh vực mới hoặc
một thị trường mới.
(4) Thành lập một doanh nghiệp mới với 100% vốn đầu tư nước ngoài.
1.3.

Phân loại

Theo mục đích nhà đầu tư:
• Đầu tư mới Greenfield Investment : để xây dựng nhà máy mới hoặc mở rộng
nhà máy/dây chùn hiện có.
• Mua lại và sáp nhập Merger & Acquisition : Công ty đầu tư mua luôn tài sản
của doanh nghiệp nước ngoài.
• Đầu tư theo chiều ngang Horizontal FDI: Đầu tư trong cùng ngành cơng
nghiệp.
• Đầu tư theo chiều dọc Vertical FDI: Đầu tư vào công ty chuyên cung cấp

đầu vào sản xuất, hoặc chuyên bán đầu ra cho sản phẩm.


Theo mục tiêu:
• FDI nhằm tìm kiếm nguồn lực Resource-seeking: Đầu tư nhằm đạt được dây
chuyền sản xuất và các nguồn lực khác như lao động rẻ hoặc tài nguyên
thiên nhiên, mà những nguồn lực này khơng có ở được đi đầu tư. Đây là FDI
thường đầu tư vào các nước đang phát triển như tài nguyên dầu mỏ ở Trung
Đông hay vàng, kim cương ở Châu Phi, lao động rẻ ở Đơng Nam Á.
• FDI tìm kiếm thị trường Market-seeking: Đầu tư nhằm thâm nhập thị trường
mới hoặc duy trì thị trường hiện có.
• Tìm kiếm hiệu quả Effficiency-seeking: Đầu tư nhằm tăng cường hiệu quả
bằng việc tận dụng lợi thế của tính kinh tế theo quy mơ hay phạm vi, hoặc cả
hai.
• Tìm kiếm tài sản chiến lược Strategic-Asset-Seeking: Đầu tư nhằm ngăn
chặn việc bị mất nguồn lực vào tay đối thủ cạnh tranh.
1.4. Những tác động của FDI
1.4.1. Tích cực
Đối với nhà đầu tư
+ Tận dụng được nguồn lao động và tài nguyên từ nhiều nước khác nhau.
+ Tránh được hàng rào bảo hộ thuế quan và hạn ngạch của một quốc gia
bằng cách sản xuất trực tiếp ở q́c gia đó.
+ Tiết kiệm chi phí sản xuất và chi phí vận chuyển sang một thị trường mới
và mở rộng thị phần trên thị trường quốc tế.
Đối với quốc gia nhận đầu tư
+ Kích thích tăng trưởng kinh tế, GDP Quốc gia nhận đầu tư sẽ tăng lên
đáng kể trong khi “vay mượn” được nguồn lực tài chính từ nước ngoài.
+ Huy động vớn cho sản xuất mà khơng gây nợ chính phủ và có tính ổn
định lâu dài.
+ Tăng khả năng tiếp cận khoa học công nghệ cũng như nâng cao khả năng

chuyên môn, kỹ năng, kinh nghiệm quản lý khi được nhận chuyển giao
công nghệ từ nước ngoài.
+ Tạo điều kiện khai thác các tiềm năng có sẵn, gia tăng lợi nhuận sản xuất,
mở rộng sức cạnh tranh của một ngành nghề tại quốc gia nhận đầu tư.
+ Cải thiện cơ sở hạ tầng khi có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp FDI.


+ Cung cấp việc làm cho người lao động và cải thiện vấn đề thiếu việc làm
trong nền kinh tế.
1.4.2. Tiêu cực
Đối với nhà đầu tư
− Mức độ rủi ro cao khi khoản đầu tư ra nước ngoài có thể phải chịu nhiều tác
động từ bất ổn kinh tế chính trị xã hội ở q́c gia đó.
− Khi xảy ra tổn thất, nhà đầu tư phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Việc xử lý
các tranh chấp đơi khi khó hơn và tớn kém hơn nhiều vì phải căn cứ vào
phúc lợi của q́c gia đó hoặc phải đưa ra toà án q́c tế để tranh tụng.
− Có thể xảy ra mâu thuẩn về luật pháp khi đầu tư ở nhiều quốc gia khác nhau.
Đối với quốc gia nhận đầu tư
− Quy hoạch cơ cấu ngành kinh tế dễ mất cân đối khi FDI tham gia vào nền
kinh tế nội địa nhưng chỉ tập trung vào một ngành nghề nhất định nhưng thu
hút hết lao động và nguồn lực của những ngành nghề khác.
− Nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên, gia tăng ô nhiễm môi trường khi những
doanh nghiệp FDI không được lựa chọn kỹ càng.
− Nguy cơ tiếp nhận thiết bị cơng nghệ lạc hậu vì mục đích sản xuất giá rẻ của
doanh nghiệp FDI dẫn tới khoa học công nghệ của nước nhận đầu tư đi lùi
và kinh tế trở nên sa sút.
− Nguy cơ thiệt hại của các doanh nghiệp trong nước khi phải đối đầu với các
tập đoàn đa quốc gia lớn mạnh.

2. VIỆT NAM VÀ THU HÚT FDI

2.1. Thuyết “cái vòng luẩn quẩn” và “cú huých từ bên ngoài”
Nhà kinh tế học Samuelson với tác phẩm “Kinh tế học” ra đời vào năm
1948, trong đó ông đưa ra thuyết “Cái vòng luẩn quẩn” và “Cú huých từ bên
ngoài”. Với lý thuyết này nhiều quốc gia đã vận dụng vào quá trình phát triển
nền kinh tế nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Vận dụng lý
thuyết này, các quốc gia muốn đạt mức tăng trưởng kinh tế thì cần có một cú
huých từ bên ngoài cụ thể như yếu tố về vớn, khoa học cơng nghệ hiện đại,
chun gia... trong đó thì ́u vớn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò
là cú huých mang tính đột phá quan trọng trong yếu tố tăng trưởng kinh tế của
các quốc gia.
Lý thuyết này cũng cùng quan điểm với trường phái tân cổ điển cho rằng
có 4 nhân tớ ảnh hưởng và là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế: nguồn nhân


lực, tài nguyên thiên nhiên, tư bản và kỹ thuật. Samuelson cho rằng các yếu tố
này ở các nước đang phát triển đều khan hiếm nên việc kết hợp bốn ́u tớ này
gặp khó khăn trở ngại lớn và ở nhiều nước nghèo khó khăn lại càng tăng thêm
trong “cái vòng luẩn quẩn” của sự nghèo khổ. “Vòng luẩn quẩn” nghèo khổ có
thể được biểu thị qua Hình 1.
Hình 1. Cái vòng luận quẩn của sự đói nghèo
Tiết kiệm, đầu tư thấp
Thu nhập bình qn
thấp

Tích luỹ vớn thấp

Năng suất lao động thấp
Samuelson cũng nhấn mạnh rằng để phá vỡ vòng l̉n q̉n này thì cần
phải có “Cú huých từ bên ngoài”. Tức là các q́c gia này cần có sự đầu tư từ
bên ngoài về về vốn, công nghệ, chuyên gia... Vì vậy, các nước đang phát triển

cần phải có đầu tư nước ngoài, phải tạo điều kiện thuận lợi để kích thích đầu tư
nước ngoài nhằm vực dậy và phát triển nền kinh tế.
2.2. Quá trình hình thành đầu tư trực tiếp ngước ngoài tại Việt Nam
Kể từ khi có Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực năm 1988, dòng
vớn FDI đã có tác động tích cực trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của
nước ta trong suốt gần 30 năm đổi mới đất nước. Khu vực kinh tế có vớn đầu tư
nước ngoài (FDI) luôn phát triển năng động, ngày càng phát huy vai trò quan
trọng và có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
của VN. Trong 25 năm từ 1988-2013, tổng vốn FDI đăng ký vào VN đạt khoảng
218,8 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt 106,3 tỷ USD, lĩnh vực công nghiệp
chiếm tới gần 60%. Thông tin từ Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu
tư cho biết tính cho cả cấp mới và tăng vớn trong năm 2014 thì nhà đầu tư nước
ngoài đã đăng ký đầu tư vào VN 20,2 tỷ USD, giảm 6,5% so với năm 2013 và
vượt 19% kế hoạch năm 2014 (17 tỷ USD). Các doanh nghiệp FDI đã có mặt và
lấn át ở hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Thu hút vốn đầu tư FDI đã đem lại
những kết quả khả quan, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên bên
cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn tồn tại những hạn chế trong q trình thu
hút vớn FDI. Do đó, cần có sự đánh giá thực trạng thu hút vốn FDI, nêu những


hạn chế, bất cập, những tác động tiêu cực để có hướng đề xuất biện pháp nhằm
sử dụng hiệu quả nguồn vốn này.
2.3. Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Sau hơn 30 năm, FDI mang về những gì cho Việt Nam?
Vớn FDI thực hiện tăng cao, từ 1 tỷ USD trong ba năm đầu tiên 19871990 lên 184 tỷ USD tính đến tháng 8/2018. Chiếm 22-24% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội.

FDI đóng góp vào ngân sách 1,8 tỷ USD giai đoạn 1994-2000 lên 8 tỷ
USD chỉ trong năm 2017 tương đương 14-15% ngân sách.
Tạo việc làm cho khoảng 4 triệu việc làm trực tiếp và 5 triệu việc làm

gián tiếp.
Kim ngạch xuất khẩu của FDI chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu
chung của cả nước.
Tính đến tháng 1/2017 có hơn 23.000 doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, với
lĩnh vực thu hút chủ yếu là công nghiệp chế biến, chế tạo; bất động sản và sản
xuất, phân phối điện, khí nước.


Hình 2: Cơ cấu đầu tư FDI theo ngành năm 2017

Nguồn: Tạp chí Tài chính

Trên đây là những con số mang tính tổng quát về bức tranh FDI vào Việt
Nam trong śt hơn 30 năm qua, vậy lợi ích lớn nhất mà FDI mang lại cho Việt
Nam là gì? Khơng thể đánh giá FDI đã cứu cánh cho nền kinh tế Việt Nam, còn
rất nhiều vấn đề khác nữa như vấn đề hội nhập, vấn đề phát triển nội địa, vấn đề
chính sách… Nhưng phải ghi nhận FDI đã đóng góp rất lớn trong thành cơng
phát triển của Việt Nam. Thứ nhất là giải quyết vấn đề vốn cho tăng trương, vốn
nhà đầu tư nước ngoài đưa vào là một liều th́c kích thích cho phát triển kinh
tế. Thứ hai, bản thân đầu tư nước ngoài làm cho năng lực của người Việt Nam
được nâng lên, năng lực về quản lý, năng lực về lao động, nguồn nhân lực phát
triển tốt hơn. Thứ ba, đầu tư FDI không những trực tiếp phát triển hạ tầng mà
còn kích thích cơ sở hạ tầng phát triển. Vì khi FDI vào Việt Nam đòi hỏi hệ
thống giao thông, hệ thống điện, hệ thống cấp nước, hạ tâng xã hội phải phát
triển để đáp ứng yêu cầu. Thứ tư, đầu tư nước ngoài góp phần rất quan trọng vào
phát triển thể chế chính trị, thúc đẩy sửa đổi phát triển luật pháp thể chế lạc hậu
để bắt kịp với nhu cầu hội nhập quốc tế. Cuối cùng, FDI đã gián tiếp gia tăng
sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.



Mặc dù có nhiều tác động tích cực tới kinh tế và sự phát triển bền vững
của đất nước, vốn FDI cũng có những tác động tiêu cực trên nhiều lĩnh vực, cụ
thể:
Vốn FDI tạo cơ hội để một nguồn vốn lớn chảy ra bên ngoài (lợi nhuận,
các khoản thanh toán khác, … của các nhà đầu tư nước ngoài tại VN), ảnh
hưởng đến lượng ngoại hối của nước nhận đầu tư, giảm đóng góp vào nguồn thu
thuế của VN. Đầu tư nước ngoài đôi khi biệt lập với các ngành sản xuất trong
nước, do đó khơng có những hiệu ứng lan trùn có lợi về mặt phổ biến cơng
nghệ sản xuất, quản lý và marketing. Tiếp nhận FDI nhất là của các công ty đa
quốc gia, xuyên quốc gia có thể làm cho các nhà sản xuất trong nước đứng trước
một cuộc cạnh tranh mới với đới thủ có tiềm lực mạnh và không cân sức.
Đối với môi trường: Việc chuyển giao công nghệ của các dự án FDI cũng
có mặt hạn chế. Đó là bất kỳ một tổ chức nào ḿn thay thế kỹ thuật-cơng nghệ
mới thì phải tìm được nơi loại bỏ những kỹ thuật-cơng nghệ cũ. Việc loại bỏ các
công nghệ cũ này dễ dàng được nhiều nơi chấp nhận nên các nước phát triển
xem các nước đang phát triển như nơi tiếp nhận các máy móc lạc hậu. Bởi vậy,
các nước đang phát triển có thể dễ dàng bị biến thành “bãi rác” công nghiệp.
nhiễm mơi trường có thể coi là thất bại lớn nhất của khu vực đầu tư
này. Các ví dụ về ơ nhiễm mơi trường điển hình như sự việc Cơng ty Vedan xả
thải xuống sông Thị Vải, trốn thuế môi trường. Công ty Miwon mỗi ngày xả tới
900m3 nước thải chưa xử lý ra sông Hồng, hay sự việc của Công ty Formosa Hà
Ô

Tĩnh thuộc Tập đoàn Formosa (Đài Loan) với công suất xả thải 12.000m3/1 ngày
đêm chứa độc tố phê-non, xy-a-nua… kết hợp hy-đrơ-xít sắt, tạo thành một dạng
phức hỗn hợp (mixel) quá tiêu chuẩn cho phép đã làm khoảng 80 tấn hải sản
chết hàng loạt dọc bờ biển 4 tỉnh Bắc miền Trung.
Trong tổng các dự án FDI đăng ký, nhiều dự án đầu tư vào các ngành khai
thác tài nguyên, tận dụng bảo hộ, công nghiệp gây ô nhiễm và bất động sản và
điều này khơng có tác dụng lan tỏa. Vốn đầu tư vào các ngành bảo hộ thì khơng

có sức cạnh tranh chỉ làm cho chi phí của nền kinh tế gia tăng; vớn đầu tư vào
các ngành cơng nghiệp gây ơ nhiễm thì lợi nhuận họ hưởng, còn hậu quả và chi
phí khắc phục thì ta chịu; vớn đầu tư vào bất động sản thì có thể làm căng thêm
“bong bóng”, dễ gây ra bất ổn.
Công nghệ được sử dụng thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành
và cùng loại sản phẩm của khu vực kinh tế trong nước, nhưng do phần lớn là từ
các nước châu Á (69%, Đông Nam Á chiếm 19%), các nước châu Âu mới chiếm
24%, châu Mỹ chiếm 5%, các nước G8 mới chiếm 23,7% nên chưa thu hút được
nhiều đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển, cơng nghệ nguồn. Có một sớ


trường hợp, nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật VN, cũng
như sự yếu kém trong việc kiểm tra, giám sát tại các cửa khẩu, nên đã nhập vào
VN một sớ máy móc, thiết bị có cơng nghệ lạc hậu.

PHẦN 2: THẢO LUẬN VÀ PHÂN TÍCH 3 TÁC ĐỘNG ĐÁNG
CHÚ Ý CỦA FDI TỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
Điểm chung giữa Việt Nam và Cristiano Ronaldo là gì?
Từ nhiều năm nay, thế giới biết đến Cristiano Ronaldo vì thể lực sung
mãn và kĩ năng chơi bóng đỉnh cao. Thời còn chơi cho đội Manchester United,
siêu sao bóng đá này có những pha bứt tớc từ sân nhà đến vòng cấm đới phương,
rê bóng qua nhiều cầu thủ để ghi bàn. Đến nay, ở tuổi 35, Ronaldo vẫn có thể ghi
đến ba bàn trong một trận đấu mang tính qút định, vì anh có mặt tại đúng nơi
và đúng thời điểm. Ronaldo đến nay vẫn là một trong những cầu thủ hàng đầu
thế giới nhờ biết cách thích nghi và điều chỉnh kĩ thuật phù hợp với từng trận
đấu anh chơi.

Như Ronaldo, Việt Nam cũng được coi là ngôi sao sáng trong lĩnh vực
kinh tế phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đứng thứ hai thế giới
trong suốt thập kỷ qua, đồng thời tỉ lệ nghèo cùng cực giảm từ mức 53% năm

1992 xuống còn chưa đến 2% vào năm 2017. Kết quả ngoạn mục trên có được là
nhờ nền kinh tế phát triển nhanh, giống Ronaldo thời trẻ ở đỉnh cao về sức mạnh
thể chất. Việt Nam có dân sớ trẻ, năng động và ham học hỏi, thêm vào đó các
ngành sản xuất được hưởng lợi từ q trình toàn cầu hóa và chủn đổi cơ cấu.
Nhìn về tương lai, giớng như Ronaldo ở độ tuổi 35, nền kinh tế Việt Nam
có lẽ khó có thể chạy nhanh hơn. Nhiều động lực tăng trưởng truyền thống đã
bắt đầu giảm đà và dự kiến còn giảm sâu hơn nữa trong trong thời gian


tới. Lợi thếtừ cơ cấu dân số vàng hiện đang mờ dần và nguy cơ dân sớ già hóa
ngay trước mắt. Đà xuất khẩu có lẽ còn khó duy trì hơn trong một thế giới ngày
càng khép cửa – minh chứng chứng là sự chậm lại của dịch chuyển vốn và
thương mại toàn cầu. Lợi thế nguồn nhân công giá rẻ của Việt Nam sẽ không
còn đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài nữa khi xu thế tự động hóa khiến
họ chuyển hoạt động sản xuất về chính q́c. Khi chạy q nhanh, Việt Nam trở
nên dễ bị tổn thương hơn với những rủi ro môi trường. Một trong những tài
nguyên quý báu nhất của quốc gia, như những cánh rừng hay vùng đồng bằng
sông Cửu Long, đang xuống cấp. Các đô thị ở Việt Nam cũng đang trở nên ô
nhiễm nặng nề.
Với tất cả những ký do trên, nhóm chúng em cho rằng 3 ́u tớ then chốt
của FDI cần quan tâm:
1. Năng suất lao động
Nếu như FDI và mở rộng giao thương được xem như những phần tất yếu
của sự hợp nhất với kinh tế toàn cầu, thì bằng cách nào giá trị FDI đóng góp cho
sự phát triển của năng suất lao động trong nước. Những người ủng hộ cho tác
động tích cực của FDI lên sự phát triển của năng suất lao động cũng đồng thời
nhấn mạnh tầm quan trọng của nó tác động lên sản phẩm và công nghệ sản xuất
tiên tiến. Các mơ hình phát triển nội sinh hiện tại cũng nhấn mạnh thêm tầm
quan trọng của những công nghệ và kiến thức du nhập trên con đường phát triển
lâu dài, và để phục vụ cho mục đích đó, nhập khẩu cũng là một kênh quan trọng

để những thứ đó có thể du nhập vào thị trường nội địa. Ví dụ, một bài nghiên
cứu về các yếu tố liên quan tới năng suất tại Hàn Quốc từ năm 1980 đến 2003,
những tác động của nhập khẩu làm tăng TFP do chuyển giao cơng nghệ thể hiện
trong nhập khẩu hàng hóa từ các nước phát triển và bởi áp lực cạnh tranh liên
quan đến nhập khẩu cho mục đích tiêu dùng.
Dựa vào những vai trò của việc xuất khẩu, liên quan tới việc những công
cụ sản xuất tiên tiến cho phép những cơng ty gia tăng lượng hàng hóa xuất khẩu
của họ. Tham gia cạnh tranh trên thị trường nước ngoài tạo ra những cơ hội để
nâng cao hiệu quả trong sản xuất. Thêm vào đó, việc thúc đẩy xuất khẩu cũng
đồng thời giảm thiểu chênh lệch tỷ giá hới đối, đặc biệt là ở giai đoạn đầu của
quá trình phát triển kinh tế. Nhập khẩu nhiều hơn tư liệu sản xuất và cơng nghệ
có thể thúc đẩy xuất khẩu và tăng năng suất lao động hơn nữa. FDI là một
phương tiện thiết ́u của q trình này. Ći cùng, một chu kì ảo của FDI,
thương mại và tăng trưởng năng suất lao động có thể được hình thành.
Đã có một vài nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra mối quan hệ tồn tại giữa
FDI và tăng năng suất lao động cho trường hợp của Việt Nam. Le và cộng sự đã


điều tra tác động của FDI và phát triển vốn con người đối với năng suất lao động
của Việt Nam từ năm 1986 đến 2014 bằng cách sử dụng cách tiếp cận độ trễ
phân tán tự động hồi phục (ARDL). Họ phát hiện ra rằng FDI và phát triển vốn
con người có tác động tích cực và đáng kể đến năng suất lao động về lâu dài,
trong khi tác động về ngắn hạn là không rõ ràng. Newman và cộng sự đã khảo
sát 4000 doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam từ năm 2009 đến năm 2012 và kết
luận rằng mối liên kết trực tiếp từ các nhà cung cấp đầu vào có vớn đầu tư nước
ngoài với các doanh nghiệp trong nước có liên quan tích cực đến năng suất.
Nghiên cứu cũng gợi ý rằng sự hình thành độc quyền của các doanh nghiệp nước
ngoài có tác động tiêu cực đến năng suất của các doanh nghiệp nội địa. Các kết
quả hỗn hợp như vậy cho thấy tác động của FDI về năng suất lao động đòi hỏi
phải phân tích thêm.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, triển vọng thu hút vốn FDI ở Việt Nam năm
2021 là rất sáng sủa trong bối cảnh nhiều nhà đầu tư lớn, vừa và nhỏ từ các quốc
gia phát triển dần chuyển hướng đầu tư vào Việt Nam. Những dự án FDI, tận
dụng các hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết cũng sẽ tiếp tục vào Việt
Nam trong thời gian tới.
Trong thời kỳ đầu thu hút vốn FDI, lao động thường tập trung vào một số
ngành sản xuất thâm dụng lao động như dệt may, da giày. Song hiện nay, tỷ
trọng lao động trong một số ngành sản xuất áp dụng cơng nghệ cao đang gia
tăng nhanh chóng. Tỷ trọng lao động trong ngành điện tử và sản phẩm điện tử
đã tăng từ 8,03% năm 2012 lên 15,7% năm 2017. Năng suất lao động cũng có
sự chủn biến tích cực nhờ nguồn vớn của khu vực có vớn FDI. Theo giá hiện
hành, năng suất lao động của doanh nghiệp có vớn FDI năm 2017 đạt 330,8 triệu
đồng/lao động, cao gấp 3,5 lần năng suất lao động chung của cả nước, cao hơn
của toàn bộ khu vực doanh nghiệp nói chung và của doanh nghiệp ngoài nhà
nước nói riêng.
Hình 3: Biểu đồ NSLĐ của các thành phần kinh tế năm 2019


Nguồn: Tạp chí Công thương

Tuy nhiên, càng về sau, những điều kiện thuận lợi đã giúp Việt Nam có
thể tận dụng sự hội nhập với nền kinh tế toàn cầu thơng qua FDI và thương mại
có thể giảm dần dần. Sự suy giảm lao động thặng dư ở nông thôn và hậu quả là
tiền lương thực tế tăng lên làm giảm khả năng cạnh tranh của khu vực sản xuất
định hướng xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động, cũng chính là lợi thế so sánh
hiện tại của Việt Nam. Hơn nữa, sự ra đời của trí tuệ nhân tạo và các cơng nghệ
tiên tiến ví dụ như robot và in 3D sẽ làm giảm tầm quan trọng của lao động giá
rẻ trong qút định vị trí của các cơng ty,doanh nghiệp đa quốc gia (Ngân hàng
Thế giới 2020). Những xu hướng này làm tăng nguy cơ giảm tốc dòng vớn FDI
vào Việt Nam kèm theo đó là xuất khẩu.

Đới với các nước có thu nhập trung bình như Việt Nam để đạt được tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn và nâng cấp cơ cấu công nghiệp của họ thành một
trong những nước có thu nhập cao, đảm bảo năng suất lao động tăng trưởng sẽ là
một thách thức quan trọng.
Việt Nam tiếp tục nâng cao chiến lược mở cửa đất nước bằng các hiệp
định thương mại và đồng thời sử dụng cam kết của các hiệp định như một cơng
cụ để khóa trong nước cải cách để cải thiện khung pháp lý thân thiện với doanh
nghiệp (Deprez 2018; Ngân hàng Thế giới 2020). Trong vấn đề này, Việt Nam
đã có những bước tiến xa hơn để đẩy nhanh và nâng cao hội nhập với kinh tế
toàn cầu. Một loạt các biện pháp tự do hóa toàn diện và cải cách cơ cấu trong
nước đã được cam kết thực hiện bởi Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) năm
2015, Hiệp định Đới tác Toàn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP)
năm 2019 và Hiệp định Thương mại Tự do Liên minh Châu Âu - Việt Nam vào
năm 2020. Trong các hiệp định này, tự do hóa FDI vào các lĩnh vực dịch vụ như
viễn thông, vận tải và tài chính cũng được đề cập tới. Mở rộng phạm vi tự do
hóa ra ngoài lĩnh vực sản xuất, cụ thể là khu vực dịch vụ, là một bước cần thiết


để cải thiện hơn nữa năng suất lao động, xem xét tầm quan trọng của khu vực
dịch vụ đối với tăng trưởng năng suất lao động ở các nước mới nổi ở q́c gia
Châu Á (Asada 2020).
Trong q trình nâng cấp cơ cấu công nghiệp, khả năng hấp thụ trở nên
quan trọng hơn trong việc biến sự mở rộng FDI và thương mại thành tăng năng
suất lao động. Trong quá trình thực hiện các hiệp định này, chính phủ đã hoạch
định một loạt các biện pháp cải cách cơ cấu để tăng cường khả năng cạnh tranh
và năng suất, chẳng hạn như phát triển cơ sở hạ tầng, cải cách quy định thân
thiện với doanh nghiệp và sắp xếp lại các nguồn lực phân bổ sai, đặc biệt là
thông qua cải cách các doanh nghiệp nhà nước là di sản của thời kỳ kinh tế chỉ
huy. Hơn nữa, đối với các nước có thu nhập trung bình như Việt Nam để thúc
đẩy nâng cấp cơ cấu cơng nghiệp của mình, các chính phủ nhấn mạnh các chính

sách cải thiện phát triển nguồn nhân lực và kỹ năng lao động để đảm bảo cơng
nghệ tích cực lan tỏa các doanh nghiệp trong nước do dòng vốn FDI mang lại
(Dinh và cộng sự. 2019). Đối với các doanh nghiệp nội địa của Việt Nam, thu
hẹp khoảng cách cơng nghệ có thể cải thiện hiệu suất của các công ty. Mở rộng
khả năng tiếp cận nền kinh tế toàn cầu cho phép các doanh nghiệp trong nước
của Việt Nam có cơ hội lớn hơn để tiếp thu sự lan tỏa của công nghệ và củng cố
hệ thống sản xuất của họ (Nguyen và cộng sự 2019).
Khuyến nghị giải pháp
Việt Nam nên tìm cách không chỉ tăng trưởng nhanh mà còn phải tốt hơn.
Điều này đòi hỏi phải sử dụng nguồn lực của quốc gia một cách thơng minh
nhất, nhờ đó các doanh nghiệp trở nên năng động hơn, kết cấu hạ tầng đạt hiệu
suất cao hơn, người lao động có tay nghề cao hơn, và mơi trường trở nên có khả
năng chớng chịu hơn với biến đổi khí hậu và các ảnh hưởng tiêu cực từ các hoạt
động của con người. Lấy năng suất làm điểm then chớt là điều nói thì dễ nhưng
làm thì khó, vì nó đòi hỏi phải thay đổi tư duy.
Trước hết, Việt Nam cần giảm tập trung vào tăng trưởng sản lượng và
quan tâm hơn đến tối ưu hóa phân bổ nguồn tài lực và nhân lực cho những
doanh nghiệp năng động nhất. Các cấp có thẩm quyền cần giảm bớt rào cản
tham gia thị trường cho những công ty mới, đặc biệt là những người sẵn sàng
đem lại kiến thức và công nghệ mới. Trên thực tế những rào cản này hiện vẫn
còn nhiều ở một số ngành. Ngoài ra các cấp có thẩm quyền cần tạo điều kiện để
các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả nhất được rút khỏi thị trường bằng
cách hiện đại hóa thủ tục phá sản (chỉ số này Việt Nam hiện xếp hạng 133 trên
190 nền kinh tế theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới ). Đây là lĩnh vực không
phải ai cũng lưu tâm.


Thứ hai, Chính phủ cần chuyển trọng tâm từ việc tăng tiếp cận các dịch vụ
hạ tầng cơ bản sang khún khích hành vi có trách nhiệm. Hầu hết người dân
Việt Nam nay được tiếp cận những dịch vụ này, vì vậy thay vì trợ giá như trước,

Việt Nam cần có chính sách giá phù hợp thể phản ánh đúng chi phí cung cấp
dịch vụ, qua đó nâng cao hiệu suất đồng thời giảm lãng phí và ơ nhiễm. Dĩ
nhiên, chính sách như vậy cần được triển khai từng bước một cách hợp lý, vừa
bảo vệ cho các nhóm dễ bị tổn thương vừa giảm thiểu được sự phản đối của các
nhóm lợi ích. Bước chủn chính sách sẽ tiết kiệm đáng kể ngân sách để dành
nguồn lực cho những ưu tiên khác, bao gồm giáo dục sau trung học, đây là lĩnh
vực mà Việt Nam đang đi chậm hơn các đối thủ cạnh tranh.
2. Gia tăng xuất khẩu
FDI hướng vào xuất khẩu đã thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu nhanh chóng
ở nhiều nước đang phát triển. Nó giúp các q́c gia đó vượt qua những rào cản
và khó khăn do thiếu thương hiệu và hệ thống phân phối toàn cầu. Nó cũng giúp
tiếp thị sản phẩm của họ trên thị trường toàn cầu, đặc biệt là thị trường các nước
công nghiệp phát triển.
Tương tự như kinh nghiệm thành công của nhiều nước Đông Á khác như
Trung Quốc, tốc độ phát triển nhanh chóng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam cũng phụ thuộc phần lớn vào sự tham gia của FDI. Các doanh nghiệp có
vớn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã đóng một vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy xuất khẩu của đất nước. Trung bình 2,5 USD vốn FDI vào Việt Nam
tương ứng với 1 USD xuất khẩu. Hơn nữa, tỷ trọng xuất khẩu của các doanh
nghiệp có vớn đầu tư nước ngoài đã lên tới 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của
cả nước.
Chiếm lĩnh thị trường địa phương là một trong những mục đích của các
MNE để tham gia đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực xanh ở nước ngoài. Sử dụng các
nước nhận đầu tư như một nền tảng xuất khẩu là một động lực khác. Hình thức
FDI - định hướng xuất khẩu, thúc đẩy đáng kể xuất khẩu của các nước tiếp nhận
FDI. Các lợi thế so sánh khác nhau giữa các q́c gia. Nhìn chung, các nước
cơng nghiệp phát triển có lợi thế so sánh về công nghệ tiên tiến và tư bản, trong
khi các nước đang phát triển có lợi thế về lao động và tài nguyên thiên nhiên. Sự
khác biệt về lợi thế so sánh giữa các quốc gia đóng vai trò qút định trong việc
giải thích mới quan hệ giữa FDI và thương mại (Helpman, 1984). Các doanh

nghiệp đa q́c gia có các đòn bẩy để chủn năng lực sản xuất của họ sang các
nước có khả năng tích hợp lao động giá rẻ và các đầu vào trung gian khác của
nước sở tại, với công nghệ tiên tiến và hệ thống phân phối thị trường toàn cầu.
Sự hội nhập có thể tăng cường khả năng cạnh tranh toàn cầu của họ và tránh


những bất lợi so sánh gây ra bởi sự phát triển cơng nghệ và chi phí lao động tăng
cao ở các nước đi đầu tư. Hoạt động gia công phần mềm gia tăng trong thập kỷ
qua là một ví dụ điển hình của dòng vớn FDI định hướng xuất khẩu. Thơng qua
sản xuất manh mún, các MNE tích hợp theo chiều dọc các thiết kế sản phẩm, sản
xuất và tiếp thị trên các quốc gia khác nhau (Feenstra, 1998).
Kết quả thực nghiệm cho thấy xuất khẩu của Việt Nam mở rộng nhanh
chóng chủ ́u là nhờ vào dòng vớn FDI. FDI tăng 1% sẽ làm tăng xuất khẩu
0,25%. Đáng chú ý là độ co giãn của xuất khẩu đối với GDP của Việt Nam là
4,28, cao hơn nhiều so với thu nhập của các đối tác thương mại, chứng tỏ rằng
năng lực xuất khẩu ngày càng tăng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm
Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường xuất khẩu. (Xuan và
Yu, 2006)
Từ năm 2016 đến nay, cán cân thương mại luôn đạt thặng dư với mức
xuất siêu tăng dần qua các năm từ 1,77 tỷ USD năm 2016, 2,1 tỷ USD năm
2017, 6,8 tỷ USD năm 2018, 10,9 tỷ USD năm 2019 và nhất là kỷ lục xuất siêu
hơn 19 tỷ USD năm 2020. Việc khai thác các Hiệp định thương mại tự do (FTA)
cũng đạt được những thành tựu nhất định, góp phần phát triển xuất khẩu nhanh
và bền vững, giảm dần phụ thuộc vào một hay một vài thị trường.
Cùng với đó, tỷ trọng đóng góp của khới FDI trong tổng kim ngạch xuất
khẩu ngày càng lớn. Năm 2020, khu vực FDI đóng góp 202,89 tỷ USD trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, chiếm tỷ trọng 71,7%. Không chỉ là tỷ
trọng chung, mà các con số thống kê đều cho thấy, ở các mặt hàng xuất khẩu chủ
lực, khu vực FDI luôn đứng đầu bảng. Chẳng hạn, với mặt hàng điện thoại và
linh kiện, khu vực FDI chiếm tới chiếm 99,1%. Trong khi đó, sản phẩm điện tử,

máy tính và linh kiện chiếm 98%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng là 93,1%.
Còn với giày dép và dệt may, những tưởng lợi thế thuộc về doanh nghiệp nội
địa, thì khới FDI cũng chiếm tương ứng 81,9% và 62,5%.
Hình 4: Tình hình xuất nhập khẩu của khu vực FDI từ 2016-2020


Mặc dù chịu ảnh hương bơi dịch Covid-19, nhưng hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam
đạt tốc độ tăng cao nhất trong vòng 5 năm qua
Nguồn: Tổng cục thống
kê

Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế phụ thuộc nhiều vào nhu cầu từ bên ngoài và
năng lực xuất khẩu của khu vực FDI khiến nền kinh tế Việt Nam dễ bị tổn
thương trước khủng hoảng toàn cầu. Khơng ít cảnh báo cho rằng về lâu dài sẽ là
mối lo ngại lớn nếu như tăng trưởng xuất khẩu phải dựa hoàn toàn vào khối
doanh nghiệp FDI. Thực tế, với bất cứ nền kinh tế nào, muốn xuất siêu bền
vững, ngành công nghiệp hỗ trợ phải thật sự phát triển và các doanh nghiệp nội
địa phải giảm nhập siêu.
Sự phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu và FDI của Việt Nam được coi là
một vấn đề tiềm ẩn rủi ro. Trong khi các cơng ty có vớn đầu tư nước ngoài chỉ
chiếm 20,3% GDP của Việt Nam, họ đã đóng góp tới 67,8% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2019. Một trong những thí dụ điển hình về
sự đóng góp “ngoại cỡ” của khu vực đầu tư nước ngoài vào sự phát triển kinh tế
và hoạt động xuất khẩu của Việt Nam là Samsung.
Tính đến tháng ba năm 2020, Samsung là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất
của Việt Nam với số vốn đầu tư lũy kế hơn 17 tỷ USD. Samsung cũng là một
trong những nhà tuyển dụng lớn nhất tại Việt Nam, với tổng số nhân viên là hơn
110 nghìn người. Năm 2019, doanh thu của Samsung tại Việt Nam là khoảng
68,3 tỷ USD, bằng khoảng 26% GDP của Việt Nam. Đóng góp của Samsung
vào hoạt động xuất khẩu của Việt Nam cũng rất đáng chú ý. Năm 2019, công ty

đã xuất khẩu các sản phẩm trị giá 51,3 tỷ USD, chiếm 19,4% kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam trong năm đó.


Dù đầu tư của Samsung vào Việt Nam là một thí dụ tiêu biểu cho thấy
thành cơng của Việt Nam trong việc thu hút FDI nhưng nó cũng làm nổi bật sự
phụ thuộc của Việt Nam vào dòng vốn nước ngoài và xuất khẩu. Việc một cơng
ty nước ngoài đóng góp tới 19,4% kim ngạch xuất khẩu là điều chưa từng có
tiền lệ ở Việt Nam và cũng là điều hiếm thấy ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.
Nếu Samsung quyết định ngừng hoặc thu hẹp quy mô hoạt động tại Việt Nam,
nền kinh tế Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.
Mặt khác, việc doanh nghiệp FDI xuất siêu nhiều có thể sẽ khơng mang
lại nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Điều này xuất phát từ việc các doanh
nghiệp FDI xuất khẩu nhiều thì cũng nhập nguyên liệu đầu vào từ các nước xuất
xứ, không phải ở Việt Nam, kéo theo giá trị gia tăng trong nước khơng cao.
Có thể thấy, nhờ các chính sách ưu đãi đầu tư khác nhau và nhiều cải cách
pháp lý và hành chính, Việt Nam đã trở thành một trong những điểm đến hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong khu vực. Điều này cũng phù hợp
với những cân nhắc và chiến lược của Chính phủ trong việc phát triển kinh tế. Ở
chiều ngược lại, sự lép vế của các doanh nghiệp Việt Nam lại cho thấy thế cân
bằng chưa được thúc đẩy một cách thích đáng. Việc chưa tham gia được sâu và
rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu cho thấy năng suất thấp và khả năng cạnh tranh
còn yếu của khu vực kinh tế trong nước là do các doanh nghiệp trong nước đa
phần quy mô nhỏ và siêu nhỏ (chiếm khoảng 98% tổng số doanh nghiệp đang
hoạt động trong nền kinh tế), có trình độ cơng nghệ khơng cao, năng lực tài
chính hạn chế, khả năng tích tụ và đầu tư đổi mới công nghệ thấp, hạn chế về
nguồn nhân lực chất lượng cao... Trong khi đó, các doanh nghiệp quy mơ vừa và
lớn của Việt Nam chiếm tỷ trọng rất nhỏ (khoảng 2%), chưa thật sự đóng vai trò
dẫn dắt cho các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ trong việc liên kết chuỗi giá trị
khu vực và toàn cầu.

Khuyến nghị giải pháp
Để thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng nhanh và bền vững, đồng thời xây
dựng nền kinh tế tự chủ thì không thể tiếp tục phụ thuộc nhiều vào khối FDI như
hiện nay. Tuy nhiên, cân bằng cán cân tỷ trọng xuất khẩu là phải tìm cách nâng
cao năng lực của khu vực doanh nghiệp trong nước chứ không phải kéo giảm
sức sản xuất của khu vực FDI. Như vậy, cần có các giải pháp để hỗ trợ doanh
nghiệp trong nước nâng cao năng lực sản xuất. Cùng với đó, cần phải lựa chọn
thu hút các dự án FDI có sức lan tỏa lớn, tăng kết nối với khu vực trong nước, từ
đó giúp các doanh nghiệp Việt lớn dần, đủ sức trở thành đối tác của các doanh
nghiệp FDI, tham gia sâu hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu và dần tăng tỷ trọng


trong đóng góp vào xuất khẩu. Việt Nam cần gia tăng sức mạnh nội tại thông
qua một số giải pháp:
Thứ nhất, tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh
nghiệp này đóng vai trò là chất xúc tác của nền kinh tế và quan trọng trong vấn
đề giải quyết việc làm. Đặc biệt, khi những doanh nghiệp này tác động ngược
trở lại sẽ mang đến lợi ích cho doanh nghiệp nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp từ
start up đến đào tạo, quản trị, tài chính, thơng tin định hướng, thị trường… Đẩy
mạnh chiến lược phát triển thương hiệu Việt và quảng bá trên toàn thế giới. Tăng
chi đầu tư trực tiếp trong nước, bao gồm cả đầu tư cho hoạt động nghiên cứu
phát triển R&D, xây dựng chiến lược tạo việc làm là trọng tâm của chiến lược
kinh tế vĩ mô. Tăng cường ứng dụng và chuyển giao công nghệ, hỗ trợ các
doanh nghiệp trong nước hiện đại hóa sản xuất.
Giai đoạn 2021-2023, Chính phủ cần khuyến khích, hỗ trợ cho các doanh
nghiệp trong nước đầu tư vào các lĩnh vực nông nghiệp, bán lẻ, logistic, du lịch,
công nghiệp hỗ trợ, giáo dục, y tế, ICT để phục vụ thị trường nội địa và xuất
khẩu. Tạo tiền đề hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh, tạo ra các thương hiệu
lớn vươn ra cạnh tranh và kinh doanh toàn cầu.

Thứ hai, kết nối thành công giữa doanh nghiệp FDI và trong nước. Để
tăng kết nối chặt chẽ giữa doanh nghiệp FDI và khu vực tư nhân hơn nữa cần
thực hiện cải thiện ba yếu tố. Trước tiên là chất lượng nguồn nhân lực. Kế tiếp là
trình độ cơng nghệ và khả năng hấp thụ đầu tư của doanh nghiệp tư nhân trong
nước. Cuối cùng là khoảng cách địa lý giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp
nội địa. Cuối cùng là khoảng cách địa lý giữa doanh nghiệp FDI và doanh
nghiệp nội địa. Để thực hiện điều này rất khó kỳ vọng vào nỗ lực tự thân của
chính doanh nghiệp, mà cần vai trò dẫn dắt của Nhà nước như (i) cải thiện chất
lượng các trường đào tạo nghề, kết nối hoạt động đào tạo nghề và thực tiễn phát
triển công nghệ; (ii) vận hành quỹ phát triển công nghệ, sử dụng các chính sách
về thuế, tài chính để khuyến khích đầu tư cơng nghệ cao và (iii) dỡ bỏ hình
thành các khu công nghiệp, khu chế xuất riêng biệt, tách biệt các doanh nghiệp
FDI.
Thứ ba, khai thác động lực từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Một
yếu tố quan trọng thúc đẩy xuất nhập khẩu tăng trưởng là do chúng ta đã và đang
thực thi hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết, nhất là các
FTA thế hệ mới như FTA Việt Nam – EU (EVFTA) hay Hiệp định Đối tác Toàn
diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP). Nếu tận dụng tớt các


cơ chế liên kết kinh tế và ưu đãi thương mại này, doanh nghiệp Việt Nam hoàn
toàn có thể tìm thấy những cơ hội kinh doanh thuận lợi, đa dạng hóa mặt hàng
và thị trường xuất khẩu trong bới cảnh dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu như
hiện nay.
3. Lan toả công nghệ
Tác động lan toả được định nghĩa là những hiệu ứng gián tiếp hay ngoại
tác về thông tin xuất phát từ những tương tác có chủ đích hay khơng có chủ đích
giữa các chủ thể kinh tế theo thời gian (Rosenbloom & Marshallian, 1990). Lan
toả công nghệ từ FDI có thể diễn ra khi một doanh nghiệp có vớn đầu tư nước
ngoài gặp khó khăn trong việc bảo vệ những tài sản chun biệt của mình (ví dụ

như bí qút cơng nghệ và kĩ thuật sản xuất tiên tiến, bí qút quản trị, kĩ năng
Marketing, thơng tin khách hàng, thị trường) khiến chúng bị rò rỉ ra bên ngoài
cho doanh nghiệp trong nước (Caves, 1996; Blomström & Kokko, 1998). Nhờ
khả năng rò rỉ, phát tán thông tin này mà FDI có thể gián tiếp ảnh hưởng đến
năng suất của doanh nghiệp và nền kinh tế địa phương.
Trong khi lí thuyết tăng trưởng tân cổ điển (Solow, 1956; Todaro, 1997)
xem FDI là kênh cung cấp vớn quan trọng thì lí thuyết tăng trưởng nộI sinh
(Romer, 1986; Lucas, 1988) nhấn mạnh vai trò và ảnh hưởng dài hạn của lan toả
công nghệ từ FDI đến nền kinh tế nước tiếp nhận. Doanh nghiệp FDI, đặc biệt là
các công ty đa q́c gia, thường có ưu thế vượt trộI về trình độ cơng nghệ có thể
vượt qua những rào cản khi gia nhập thị trường mới và cạnh tranh thành công
với các doanh nghiệp bản địa (Graham & Krugman, 1995). Sự hiện diện của
doanh nghiệp FDI với nhiều lợi thế công nghệ có thể gián tiếp tạo ra tác động
tích cực và lâu dài đến năng lực công nghệ và năng suất lao động của doanh
nghiệp trong nước thông qua quá trình tương tác trong khu vực địa lí nhất định.
Lan toả công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp trong nước có thể diễn ra đới
với các doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành (lan toả chiều ngang) hay
khác ngành (lan toả chiều dọc) (Blomstrom & Kokko, 1998). Trong đó, lan toả
chiều dọc xuất phát từ các liên kết công nghiệp khi doanh nghiệp FDI trở thành
khách hàng (liên kết ngược) hay nhà cung ứng (liên kết xuôi) của doanh nghiệp
trong nước. Các doanh nghiệp trong nước có thể nâng cao trình độ cơng nghệ
thơng qua q trình quan sát và học hỏi kiến thức, kinh nghiệm và kĩ thuật từ
doanh nghiệp FDI; tuyển dụng lao động đã qua đào tạo tại doanh nghiệp FDI;
hay tự cải tiến, đổi mới công nghệ do áp lực cạnh tranh từ doanh nghiệp FDI
(Blomström & Sjöholm, 1999; Javorcik, 2004; Newman & cộng sự, 2015).
Đối với Việt Nam, nghiên cứu về lan toả công nghệ từ FDI được thực hiện
trong thời gian gần đây và tập trung kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng lan


toả. Le Thanh Thuy (2005) kiểm định các kênh lan toả từ FDI tại Việt Nam. Tác

giả sử dụng khung phân tích dạng hàm sản xuất Cobb- Douglas. Kết quả ước
lượng cho thấy lan toả tích cực nhưng chỉ có ý nghĩa thống kê cho giai đoạn
1995–1999. Kết quả này được cho là do áp lực cạnh tranh từ FDI gia tăng trong
giai đoạn 2000–2002. Nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng dữ liệu bảng
giúp kiểm soát được khả năng thiên lệch ước lượng so với phương pháp OLS.
Tuy nhiên, nghiên cứu sử dụng dữ liệu cấp ngành với cỡ mẫu khá nhỏ có thể ảnh
hưởng đến độ tin cậy của kết quả.
Sử dụng dữ liệu bảng cho giai đoạn 2005–2010, Truong và cộng sự (2015)
kiểm định lan toả công nghệ từ FDI đến các doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt
Nam. Nghiên cứu này cũng vận dụng phương pháp ước lượng dữ liệu bảng
nhưng có đóng góp mới khi kiểm định tác động của chính sách bảo hộ thương
mại và đặc trưng FDI đến hiệu ứng lan toả. Kết quả ước lượng cho thấy chính
sách hạn chế nhập khẩu làm giảm năng suất và khả năng hấp thụ lan toả từ FDI
của doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, doanh nghiệp 100% vốn FDI tạo ra lan
toả tiêu cực trong khi doanh nghiệp liên doanh tạo ra lan toả tích cực đến năng
suất lao động của doanh nghiệp trong nước.
Le và Pomfret (2011) phân tích lan toả cơng nghệ từ FDI đến doanh
nghiệp Việt Nam giai đoạn 2000–2006. Kết quả cho thấy liên kết ngược tạo ra
lan toả tích cực đến năng suất của doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, liên kết
ngang tạo lan toả tiêu cực và điều này được giải thích bởi tác động của áp lực
cạnh tranh từ doanh nghiệp FDI. Trong đó, doanh nghiệp 100% vốn FDI và
doanh nghiệp FDI hướng đến thị trường trong nước có tác động tiêu cực đến
năng suất của doanh nghiệp trong nước. Nghiên cứu này có đóng góp mới khi
kiểm định các kênh lan toả công nghệ từ FDI với dữ liệu cấp doanh nghiệp. Vai
trò của đặc trưng của doanh nghiệp đối với tác động lan toả cũng đã được nghiên
cứu thông qua các biến tương tác nhưng mới chỉ sử dụng nhân tố chất lượng lao
động và khoảng cách công nghệ.
Nguyen Trong Hoai và Pham The Anh trong nghiên cứu “Lan toả công
nghệ từ FDI và các nhân tố quyết định: Trường hợp các doanh nghiệp Việt
Nam” đã chỉ ra bốn nhân tố tác động lan toả công nghệ từ FDI:

Thứ nhất, các doanh nghiệp có mức độ vớn hóa cao thường tiềm lực tài
chính mạnh hơn để đầu tư nguồn lực cho thiết lập các liên kết nhằm tiếp cận,
học hỏi kinh nghiệm và thu thập thơng tin hữu ích về các kĩ thuật, cơng nghệ sản
xuất kinh doanh từ các doanh nghiệp FDI. Hơn thế nữa, doanh nghiệp sở hữu
tiềm lực tài chính có thể nhanh chóng hiện thực đầu tư vào các dự án mới mua
sắm máy móc tân tiến để nâng cao năng lực sản xuất.


Thứ hai, quy mô sản xuất tác động cùng chiều đến hiệu ứng lan toả công
nghệ từ FDI đến doanh nghiệp VN. Theo đó, doanh nghiệp có quy mơ lớn hơn
được hưởng lợi nhiều hơn từ hiệu ứng lan toả tích cực của FDI. Doanh nghiệp
càng phát triển về quy mơ thì càng tích lũy được những kinh nghiệm và cơng
nghệ mang tính cạnh tranh. Những lợi thế sẵn có này có thể giúp cho doanh
nghiệp dễ dàng hơn trong việc tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm và bắt chước các
công nghệ tiên tiến của các doanh nghiệp FDI trong cùng ngành.
Thứ ba, khoảng cách công nghệ ảnh hưởng ngược chiều đến lan toả công
nghệ từ FDI. Khoảng cách công nghệ có thể tạo ra tác động hai mặt khi vừa tạo
động lực để doanh nghiệp trong nước học hỏi, cải thiện công nghệ, nâng cao
năng suất nhưng nếu khoảng cách quá lớn có thể hạn chế cơ hộI tiếp cận công
nghệ của doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư, yếu tố khu vực địa lí có tác động đến hiệu ứng lan toả công nghệ
từ FDI đến doanh nghiệp trong nước. So với các doanh nghiệp ở khu vực ở
Đồng bằng sơng Hồng và miền núi phía Bắc thì doanh nghiệp ở khu vực Đông
Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long dường như hưởng lợi nhiều hơn từ lan
toả công nghệ. Kết quả này có thể xuất phát từ thực tế rằng một số lượng lớn
doanh nghiệp FDI lựa chọn đầu tư ở khu vực phía Nam và với mật độ tiếp xúc
lớn hơn thì doanh nghiệp trong nước sẽ có nhiều điều kiện để tiếp cận, học hỏi
và bắt chước các cơng nghệ, quy trình sản xuất hiện đại từ các doanh nghiệp FDI
trong khu vực để từ đó nâng cao năng suất của mình.
Khuyến nghị giải pháp

Cách mạng kỹ thuật số chưa bao giờ chỉ là tạo ra những công nghệ đột
phá. Các quốc gia hàng đầu về đổi mới, sáng tạo trong lĩnh vực này như Mỹ và
Trung Quốc sở hữu gần 2/3 số bằng sáng chế CNTT mới và các cơng nghệ liên
quan đến máy tính đăng ký hàng năm. Tuy nhiên, đối với hầu hết các q́c gia
trên thế giới, trong đó có Việt Nam, tương lai sẽ không được quyết định bởi
động lực đổi mới, sáng tạo mà là năng lực của quốc gia trong việc tận dụng tối
đa các công nghệ kỹ thuật số do các nước khác phát triển.
Để trở thành cường quốc kỹ thuật số, Việt Nam sẽ cần tạo điều kiện để
các đơn vị trong nước áp dụng và thích ứng với những công nghệ kỹ thuật số
toàn cầu mới. Cho đến nay, Việt Nam đã làm việc này rất tốt. Ngày nay, Việt
Nam được so sánh với các đối thủ ngang hàng và có tham vọng về sự phổ biến
điện thoại di động (hình 1) và người dân cũng như doanh nghiệp của Việt Nam
có khả năng kết nới tốt với Internet. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của Việt Nam khá
hiện đại, phủ khắp các tỉnh thành và do các công ty viễn thông trong nước đầu
tư. Việt Nam cũng là điểm đến của một số công ty CNTT hàng đầu thế giới như


Apple, Samsung, Intel,… Điều này thể hiện khả năng cạnh tranh của Việt Nam
và tạo lập một nền tảng đặc biệt cho các doanh nghiệp và đơn vị phát triển trong
nước – mơ hình được Nhật Bản và Hàn Q́c áp dụng trong những năm 1970 và
1980, và gần đây là Trung Quốc.
Báo cáo “Điểm lại gần đây” của Ngân hàng Thế giới cho rằng Việt Nam
sẽ cần phải làm nhiều hơn nữa nếu muốn trở thành cường quốc kỹ thuật số như
mục tiêu đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được Đại hội Đảng
XIII thơng qua vào tháng 2 năm 2021. Chính phủ cần tập trung giải quyết 3 thất
bại của thị trường bằng những giải pháp thông minh. Xin nhắc lại là thất bại của
thị trường hạn chế khả năng đạt được kết quả tới ưu mà lẽ ra có thể đạt được với
những nguồn lực sẵn có. Khi đó, xã hội có nhiệm vụ khắc phục sự thất bại này,
đồng nghĩa với việc Việt Nam cần đảm bảo sự phát triển của lực lượng lao động
có kỹ năng kỹ thuật sớ, sự tham gia của khu vực tư nhân trong nước năng động

và tích cực, cùng với khả năng tiếp cận thơng tin tốt và an toàn.
Đầu tiên là đảm bảo khả năng cung cấp lực lượng lao động có kỹ năng sớ
(hình 2). Đây là giải pháp trọng tâm vì có tới 1/3 sớ việc làm hiện có ở Việt Nam
có nguy cơ bị mất trong khoảng 5 năm tới do sớ hóa. Mặc dù chủn đổi kỹ
thuật sớ sẽ tạo ra nhiều việc làm mới, những công việc này sẽ đòi hỏi nhiều kỹ
năng mới. Có thể kỳ vọng thị trường lao động sẽ điều chỉnh dần dần do nhu cầu
cao về lao động có kỹ năng sẽ làm tăng mức lương tương đới. Điều này sẽ
khún khích người lao động và doanh nghiệp tăng đầu tư vào giáo dục và đào
tạo. Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế đã chứng minh rằng người lao động có thể
khơng có thơng tin hoặc nguồn lực tài chính để đầu tư vào con đường học vấn
dài hơn. Với tốc độ hiện tại, Việt Nam có thể mất 25 năm để có sớ lượng sinh
viên đăng ký vào các trường đại học như tại Thái Lan hiện nay. Ở các q́c gia
thành cơng, chính phủ đã giải quyết thất bại này của thị trường bằng cách (i) loại
bỏ các trở ngại pháp lý đối với dịch chuyển lao động; (ii) cung cấp thông tin cho
người lao động về các xu hướng và nhu cầu của thị trường lao động để họ biết
khi ra quyết định; (iii) nâng cao chất lượng các chương trình giáo dục kỹ thuật
và dạy nghề; và (iv) hỗ trợ các doanh nghiệp và người lao động về tài chính khi
học những kỹ năng mới.


×