Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

KINH-TẾ-CHÍNH-TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.77 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
I,
ĐẦU...........................................................................................................1.

MỞ

II,
LÀM.........................................................................................................1.

BÀI

1,
Phần
luận........................................................................................................1.
2,
Phần
áp
dụng
thực
Nam:..................................................................4.

tiễn




Việt

a, Thực tiễn tích cực
nam...................................4.


của

quy

luật

cạnh

tranh

tại

Việt

b, Thực tiễn tiêu cực
nam...................................5.

của

quy

luật

cạnh

tranh

tại

Việt


c, Yêu cầu, giải pháp để duy trì cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường..............6.
III,
LUẬN.....................................................................................................8.

KẾT

IV, DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................9.


Đề bài: Quy luật cạnh tranh – lí luận và thực tiễn ở Việt Nam.
I, Mở bài.
Quy luật phản ánh 1 cách khách quan mối quan hệ ganh đua về kinh tế
giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hóa. Khi đã tham gia thị trường,
các chủ thể kinh doanh, sản xuất, bên cạnh sự hợp tác, luôn phải chấp nhận sự
cạnh tranh với nhau.
Cạnh tranh là sự ganh đua những chủ thể kinh tế với nhau nhằm có được
những ưu thế về sản xuất cũng như tiêu thụ để từ đó thu được lợi ích tối đa.
Ở Việt Nam cũng vậy, trong nền kinh tế thị trường cũng có sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiêp, xí nghiệp với nhau để tranh giành thị trường, trao đổi
hàng hóa.
II, BÀI LÀM.
1, Phần lí luận:
Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều tiết một cách khách quan mối
quan hệ ganh đua kinh tế giữa các chu thể trong sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm có
được những ưu thế về sản xuất cũng như tiêu thụ và thơng qua đó thu được lợi
ích tối đa. Kinh thế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường ngày
càng trở nên thường xuyên, quyết liệt hơn.

Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể diễn ra giữa các chủ thể
trong nội bộ ngành, cũng có thể diễn ra giữa các chủ thể thuộc ngành khác nhau.
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành:
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh trang giữa các chủ thể kinh doanh
tỏng cùng một ngành, cùng sản xuất một loại hàng hóa. Đây là một trong những
phương thức để thực hiện lợi ích của doanh nghiệp trong cùng một ngành sản
xuất. Biện pháp cạnh tranh là các doanh nghiệp ra sức cải tiến kĩ thuật, ra sức
2


đổi mới cơng nghệ, hợp lí hóa sản xuất, tăng năng suất lao động để hạ thấp giá
trị sản xuất cá biệt của hàng hóa, làm cho giá trị hàng hóa của doanh nghiệp sản
xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa đó.
Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành giá thị trường
(giá trị xã hội) của từng loại hàng hóa. Cùng một loại hàng hóa được sản xuất ra
trong các doanh nghiệp sản xuất khác nhau, do điều kiện sản xuất (điều kiện
trang bị kĩ thuật, trình độ tổ chức sản xuất, trình độ tay nghề của người lao
động....) khác nhau, cho nên hàng hóa sản xuất ra có giá trị cá biệt khác nhau,
nhưng trên thị trường các hàng hóa phải bán theo một giá thống nhất, đó là giá
cả thị trường. Giá cả thị trường dựa trên cơ sở giá trị thị trường (giá trị xã hội).
Giá cả thị trường chính là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường.
Giá cả thị trường do giá trị thị trường quyết định. Giá thị trường là giá trị trung
bình của những hàng hóa được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó
hay giá trị cá biệt của những hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện
trung bình của khu vực và chiếm đại bộ phận trong tổng số những hàng hóa
trong khu vực đó.
+ Cạnh tranh giữa các ngành:
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh
doanh giữa các ngành khác nhau. Vì vậy, cũng trở thành phương thức thực hiện
lợi ích của các chủ thể thuộc các ngành sản xuất khác nhau trong điều kiện kinh

tế thị trường. Nó là phương thức để các chủ sản xuất kinh doanh ở các ngành sản
xuất khác nhau tìm kiếm lợi ích của mình. Mục đích của cạnh tranh giữa các
ngành là nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất.
Biện pháp cạnh tranh giữa các ngành là các doanh nghiệp tự do di chuyển
nguồn lực của mình từ ngành này sang ngành khác, vào các ngành sản xuất kinh
doanh khác nhau.
+ Tác động tích cực của canh tranh:
3


Thứ nhất, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất. Trong nền
kinh tế thị trường, để nâng cao năng lực cạnh tranh, các chủ thể sản xuất, kinh
doanh khơng ngừng tìm kiếm và ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật,... mới vào
sản xuất, từ đó kéo theo sự đổi mới về trình độ tay nghề, tri thức của người lao
động. Kết quả là cạnh tranh thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh
hơn.
Thứ hai, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường. Trong
nền kinh tế thị trường, mọi hành vi của mọi chủ thể kinh tế đều hoạt động trong
mơi trường cạnh tranh, đều nhằm mục đích lợi nhuận tối đa. Vì vậy, khơng chỉ
hợp tác mà cịn phải cạnh tranh với nhau đểu có được những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất và kinh doanh để thu được lợi nhuận cao nhất. Thơng qua đó nền
kinh tế thị trường khơng ngừng được hồn thiện hơn.
Thứ ba, canh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bố nguồn lực.
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi việc tiếp cận nguồn lực phải dựa trên nguyên tắc
cạnh tranh để phân bố vào chủ thể có thể sử dụng hiệu quả hơn.
Thứ tư, cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Mục
đích của các chủ thể kinh tế là lợi nhuận cao nhất, mà người tiêu dùng là người
cuối cùng, quyết định chủng loại, số lượng và chất lượng của hàng hóa trên thị
trường, do chỉ có hàng hóa người tiêu dùng lựa chọn thì mới bán được. Vì vậy,
những nhà sản xuất phải tìm mọi cách để tạo ra khối lượng sản phẩm đa dạng,

chất lượng tốt,...
+ Những tác động tiêu cực của cạnh tranh:
Thứ nhất, cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại mơi trường kinh
doanh. Nhiều chủ thể có thủ đoạn xấu để tìm kiếm lợi thế sẽ làm xói mịn mơi
trường kinh doanh, đạo đức xã hội. Dó đó, cần phải loại trừ cạnh tranh không
lành mạnh.
Thứ hai, cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí nguồn lực xã hội. Để
giành ưu thế trong cạnh tranh, nhiều chủ thể chiếm giữ các nguồn lực mà không
4


phát huy vai trị của các nguồn lực đó trong sản xuất, kinh doanh, không đưa vào
sản xuất tạo ra hàng hóa, dịch vụ. Như vậy, nguồn lực bị lãng phí.
Thứ ba, gây làm tổn hại phúc lợi của xã hội. Nguồn lực bị lãng phí nên
phúc lợi xã hội bị tổn thất. Thay vì sử dụng hiệu quả, xã hội sẽ có nhiều sơ hội
lựa chọn hơn để thỏa mãn nhu cầu. Cho nên, khi các chủ thể sử dụng các biện
pháp cạnh tranh thiếu lành mạnh, phúc lợi xã hội sẽ bị ảnh hưởng.
2, Phần áp dụng thực tiễn ở Việt Nam:
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Khi
thực hiện chuyển đổi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam phải chấp nhận những qui luật của nền kinh tế thị trường, trong đó là ảnh
hưởng của quy luật cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh cũng đem lại nhiều thành
tựu lớn cho Việt Nam, nhưng nó cũng tạo ra những thách thức lớn là khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế của nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém.
a, Thực tiễn tích cực của quy luật cạnh tranh tại Việt nam
Tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Đỗ
Mười đã nêu rõ: "...Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một mơi trường
cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì mục đích phát triển
đất nước, chứ khơng phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí các nguồn lực, thơn
tính lẫn nhau..." Mặc dù vậy, các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh trên thị

trường giữa doanh nghiệp nước ngoài với doanh nghiệp trong nước, giữa hàng
nội và hàng ngoại... vẫn đang diễn ra.
Vậy nên, Việt Nam cần phải thúc đẩy cạnh tranh của nền kinh tế thị
trường với các đối tượng cần phải tác động là các doanh nghiệp. Đặc biệt là
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhà nước với tư nhân. Bên cạnh đó phát huy
các lợi thế của năng lực canh tranh của chúng ta.
Sau chiến tranh đất nước thống nhất, cả nước bắt tay hăng hái vào công
cuộc xây dựng đất nước, thúc đẩy đất nước hướng tới chủ nghĩa xã hội. Trong
5


khi đó, nền kinh tế sau chiến tranh bị tàn phá nặng nền, đó là nền kinh tế tập
trung bao cấp của cải xã hội. Nhưng mơ hình kinh tế này thực sự không phù hợp
với Việt Nam lúc ấy. Nó đã làm cho nền kinh tế của Việt Nam bị suy thoái trầm
trọng, đồng tiền mất giá, phương tiện kĩ thuật lạc hậu, lực lượng sản xuất yếu
kém. Trong thời kì đó, mọi hoạt động kinh tế đều do nhà nước nắm giữ, nhà
nước bao tiêu hết qua trình sản xuất của các doanh nghiệp cả việc tiêu thụ sản
phẩm. Các doanh nghiệp thực hiện thực hiện theo các kế hoạch sản xuất của nhà
nước, không cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Nó gây lãng phí nguồn lực xã
hội.
Thời kì sau, do yêu cầu phát triển nền kinh tế, chúng ta buộc phải chuyển
dổi nền kinh tế thị trường chịu sự quản lí của nhà nước sang nền kinh tế tị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường năng động,
nó buộc các chủ thể kinh tế ln phải tìm kiếm vị trí của mình. Nhận thức về
cạnh tranh của các chủ thể kinh tế đúng đắn là điều cần thiết. Cùng với quá trình
đổi mới, cạnh tranh theo pháp luật ngày càng được chấp nhận ở nước ta để đảm
bảo hiệu quả, tiến bộ xã hội, những vẫn phải chịu sự điều tiết của nhà nước.
Đảng và nhà nước ta đã ban hành các văn bản pháp pháp lí điều chỉnh các hành
vi cạnh tranh trên thị trường.
b, Thực tiễn tiêu cực của quy luật cạnh tranh tại Việt Nam.

Nhưng nhận thức về canh tranh kinh doanh ở nước ta chưa có sự nhất
quán, chưa thấy được vai trò quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị
trường. Bên cạnh đó, nhà nước chưa có nhữn biện pháp cụ thể liên quan đến
giám sát các hành vi cạnh tranh, nên vẫn còn nhiều bất cập xảy ra.
Thứ nhất, cạnh tranh bất bình đẳng. Đó là cạnh tranh bất bình đẳng giữa
các doanh nghiệp thuộc sử hữu của nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác. Các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước được
hưởng nhiều ưu đãi từ nhà nước hơn: ưu đã về vốn, thuế,... Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp này cịn tập trung vào các ngành nghề lớn, quan trọng: điện, nước,
6


xăng dầu,... Vì vậy mà các doanh nghiệp tư nhân khơng được coi trọng, thu
hút,... Các doang nghiệp nước ngồi thì thực hiện theo một quy chế riêng, khơng
được hưởng ưu đãi từ nhà nước. Nó đã gây hậu quả lớn đối với nền kinh tế thị
trường, do các doang nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước trong chờ vào các chính
sánh, vốn từ nhà nước nên nó gây lãng phí nguồn lực xã hội, trong khi các doanh
nghiệp tư nhân hoạt động hiệu quả hơn. Ngồi ra cịn có các quy định, chính
sách trong hoạt động của các doan nghiệp nước ngồi gây nên sựu khó khăn, e
ngại của ác doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào thị trường Việt nam.
Thứ hai, cạnh tranh không lành mạnh. Các doanh nghiệp đều muốn tối đa
hóa lợi nhuận của mình, nên bằng các thủ đoạn khác nhau để loại bỏ các doanh
nghiệp như là ngăn cản không cho các các doanh nghiệp khác tham gia vào hoạt
động kinh doanh, hạn chế mở rộng hoạt động, tẩy chay không cung cấp sản
phẩm dịch vụ, chèn ép các doanh nghiệp có thể dẫn tới phá sản, giải thể. Hành
vi lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp để chi phối thị trường, hành vi này dẫn đến
việc áp dụng các điều kiện sản xuấ kinh doanh đối với các doanh nghiệp yếu
hơn, hơn nữa nó cịn gây hạn chế khả năng lựa chọn của người tiêu dùng, khả
năng kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên khi tham gia các hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực khác. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp sát nhập, hợp

nhất, mua lại thị trường để làm cho thị truường tập trung hơn, giảm bớt đối thủ
cạnh tranh. Các chủ thể kinh tế còn sử dụng các hành vi cạnh tranh khác khơng
lành lạnh: nạn hàng giả, hình thức quảng cáo gian dối, tăng mức giá cao hơn so
với mức giá thực tế của sản phẩm, thông đồng với các cơ quan quản lí nhà nước,
hối lộ, lơi kéo các chuyên gia,... Nó gây thiệt hai lớn cho người tiêu dùng và
những doanh nghiệp sản xuất chân chính.
c, Yêu cầu, giải pháp để duy trì cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Yêu cầu phát triển nền kinh tế với nhịp độ cao và quá trình hội nhập thì
chúng ta cần phải cải thiện mơi trường cạnh tranh là yêu cần cần thiết để nâng
cao sự cạnh tranh của các doanh nghiệp, thực hiện q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế thế giới. Để duy trì
7


cạnh tranh lành mạnh thì cẩn phải đưa ra các giải pháp đối với các doanh
nghiệp:
Thứ nhất, đổi mới nhận thức về cạnh tranh, thống nhất quan điểm về vai
trò của cạnh tranh trong nền kinh tế. Coi cạnh tranh là động lực của sự phát
triển, nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Xá định rõ ràng vị trí
của nhà nước cũng như vai trị của các doanh nghiệp đối với nền kinh tế. Nhà
nước cần phải giảm dần, xóa bỏ các rào cản đối với các doanh nghiệp tư nhâ,
doanh nghiệp nước ngoài để tăng năng lực cạnh tranh chung của nền kinh tế và
thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật cạnh tranh để cạnh
tranh được nâng cao, hạn chế các cạnh tranh không lành mạnh:
+ Xây dựng luật, văn bản dưới luật: soạn thảo luật phải thực hiện một
cách dân chủ với sự tham gia của các cơ quan có liên quan để đảm bảo tính
khách quan. Bên cạnh đó phải đảm bảo được ngun tắc cạnh tranh lành mạnh.
+ Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lí thì cần xóa bỏ những quy định
khơng phù hợp với nền kinh tế hiện đại, mở rộng quyền kinh doanh, chủ động

của các doanh nghiệp.
+ Bổ sung, sửa đổi các quy định mà bộ luật , các văn bản khác còn thiếu,
chưa hướng dẫn thi hành (đặc biệt là quan hệ giữa luật Việt Nam và luật nước
ngoài).
Thứ ba, xây dựng một cơ quan chuyên trách theo dõi, giám sát các hành
vi liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh (hành vi lạm dụng ưu thế của các
doanh nghiệp lớn). Thường xuyên rà soát các hoạt động của doanh nghiệp. Việc
này cần phải đào tạo được lực lượng cán bộ có uy tín, tránh bị lạm dụng. Bên
cạnh đó cũng phải bồi dưỡng lực lượng thẩm phán có kiến thức, kinh nghiệp để
xử lí các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

8


Thứ tư, cải thiện thông tin pháp luật kịp thời, cần thiết nhất là các thủ tục
hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân, nước
ngồi. Bên cạnh đó, tọa các ưu đãi về đất đai, vốn (mở rộng khả năng vay vốn từ
các nguồn ưu đãi), lao động (ưu đãi về trwoj cấp, lương), tiếp cận thị trường
(xuất nhập khẩu). Chúng ta phải tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
cạnh tranh không lành mạnh đến với các đối tượng là cộng đồng doanh nghiệp:
cần giúp các doanh nghiệp nhận diện được các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện của các doanh nghiệp bị hại, các hình
thức chế tài có thể áp dụng đối với các doanh nghiệp có hành vi vi phạm.
Thứ năm, hình thành các tổ chức người tiêu dùng để thu thập các thông tin
người dùng để phát hiện cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Vì bảo vệ
lợi ích người tiêu dùng và cạnh tranh có mối liên hệ với nhau. Ở trên thế giới đã
có những nước áp dụng nội dung này như là Nhật Bản, Mỹ,...
III, KẾT LUẬN.
Cạnh tranh là một phần của nền kinh tế thị trường. Nó đem lại nhiều lợi
ích nhưng cũng gây nhiều khó khăn đối với nhà nước và các doanh nghiệp.

Ở Việt nam cũng vậy, cạnh tranh tạo ra môi trường năng động đối với các
doanh nghiệp, làm tăng trưởng nền kinh tế, hướng tới xã hội chủ nghĩa. Nhưng
bên cạnh những ưu điểm đó, cạnh tranh cũng đem lại những hạn chế: xuất hiện
cạnh tranh khơng lành mạnh làm gây lãng phí nguồn lực xã hội. Việt Nam cũng
không thể tránh khỏi thất bại nếu vận dụng không đúng quy luật cạnh tranh vào
nền kinh tế thị trường. Vì vậy, chúng ta cần phải phát huy năng lực để khẳng
định được rằng Việt Nam bất bại, là mảnh đất đầy màu mỡ để thu hút đầu tư
nước ngoài để sản xuất các mặt hàng có tầm quan trọng.

9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình kinh tế chính trị

10



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×