Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Khong nen cho TQ lam gi roi doi pho

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.04 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tranh chấp Biển Đông: </b>



<b>Không nên chờ TQ làm gì rồi đối phó </b>



Xâu chuỗi tồn bộ q trình lấn chiếm Biển Đơng của Trung Quốc, đặc biệt trong mấy năm trở lại
đây, ta thấy, đến nay Bắc Kinh đã cơ bản hồn thành trị ảo thuật "biến khơng thành có". Từ một vùng
biển chung của Đông Nam Á với chằng chịt những tuyến đường hàng hải quốc tế giờ đây bổng nằm
gọn trong cái gọi là "Thành phố Tam Sa" của riêng người Trung Quốc. Đó là "sự đã rồi" mà Bắc Kinh
đã dầy công tạo ra bằng sức mạnh và những thủ đoạn dối trá. Đầu tiên họ tung ra một đường ranh giới
mơ hồ gồm 9 đoạn đứt khúc không dựa vào bất cứ cơ sở pháp lý nào để khoanh trọn 80% diện tích của
biển Đơng và gọi đó là "lợi ích cốt lõi " của TQ. Sau đó để thực hiện âm mưu này, Bắc Kinh đã lần
lượt chiếm quần đảo Hoàng Sa, rồi một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam; chiếm đảo Mischief
và bãi cạn Scarborough của Philipine. Tàu hải quân và tàu dân binh TQ hàng ngày xâm phạm lãnh hải
và liên tục quấy phá các hoạt động kinh tế cuả Việt Nam, Philipine và một vài nước khác trong khu
vực. Tuy vậy, Bắc Kinh luôn bác bỏ đàm phán đa phương với ASEAN hoặc bất cứ bên thứ ba nào. Họ
một mặt hứa sẽ đàm phán với ASEAN với điều kiện tổ chức này thỏa thuận xong Bộ quy tắc ứng xử
(COC), một mặt dùng thủ đoạn "chia để trị" nhằm trì hỗn sự ra đời của COC, kể cả việc trắng trợn
mua quyền phủ quyết của nước chủ nhà Hội nghi AMM 40 là Campuchia. Thực chất đó là chiến thuật
"câu giờ" của Bắc Kinh nhằm tranh thủ thời gian chuẩn bị điều kiện cần thiết cho giai đoạn đấu tranh
tiếp theo của họ. Đó là lý do tại sao Bắc Kinh ráo riết lấn chiếm Scarborough của Philipine và cho
hàng nghìn tàu thuyền vây hãm quần đảo Trường Sa của Việt Nam bất chấp nguy cơ xung đột quân sự
(miễn sao tránh được sự can thiệp của Mỹ). Sự ra đời vội vàng của cái gọi là " Thành phố Tam Sa"
giữa Biển Đông là một bằng chứng rõ rệt nhất. Việc Bắc Kinh đồng thời gây hấn với cả Nhật Bản là
một phần của chiến thuật "dương đơng kích tây" nhằm đánh lạc hướng chính của họ tại Biển Đơng để
khiến cả Mỹ, Nhật cùng bối rối.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

có thể hình thành một cơ chế đàm phán bao gồm các nước ven bờ là Việt Nam, Philipine, Malaysia,
Indonesia , Brunei và Singapore, hoặc với các nước có lợi ích hàng hải tại Biển Đông, kể cả Đài Loan
chẳng hạn. Một vài tiếng súng vang lên khi cần cũng không có gì là tồi tệ, bởi vì Bắc Kinh tuy tham
lam, hiếu chiến nhưng rất lo ngại chiến tranh, ít nhất là vào thời ky này. Tuy nhiên những việc làm đó
đã khơng xảy ra. ASEAN cũng như thế giới đã thụ động chờ đợi trước những bước đi ngang ngược


của Bắc Kinh mà không đưa ra những đối sách kịp thời cần thiết.


Nhắc lại chuyện này chỉ để rút ra bài học cho thời kỳ sắp tới mà thơi!. Điều gì xảy ra đã xảy ra rồi. Giờ
đây hậu quả đã hiện rõ với cái gọi là "thành phố Tam Sa" khơng có dân cư nhưng đầy căn cứ quân sự
và các phương tiện chiến tranh. Nếu Bắc Kinh thành công trong mục tiêu của họ, thì nơi đây sẽ là lãnh
thổ bất khả xâm phạm của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và quyền đi lại tự do của tàu bè quốc
tế qua Biển Đông coi như chấm dứt! Tiếp sau đó sẽ khơng tránh khỏi một chu kỳ bành trướng mới
diễn ra đối với các quốc gia vịng ngồi và phía Nam của Biển Đơng. Có thể nói, đến nay Bắc Kinh đã
hồn tất giai đoạn đầu của mưu đồ độc chiếm Biển Đơng. Đó là một tổn thất khơng đáng có khơng chỉ
đối với Việt Nam và Philipin mà đối với ASEAN và thế giới. Nó cho thấy sự tham lam và thâm độc
của chủ nghĩa bành trướng bá quyền, nhưng chính thái độ chờ đợi thụ động của các bên bị hại đã trao
cho Bắc Kinh quyền chủ động trên bàn cờ trong khi thế giới lại cứ "đánh cờ nước một" để ứng phó.
Mới đây trong một cử chỉ đáng lưu ý khi Người phát ngôn Ngoại giao TQ- Hồng Lỗi trả lời về 6
nguyên tắc giải quyết vấn đề Biển Đơng của ASEAN đã nói: “Điểm cốt lõi của vấn đề Biển Đông là
tranh chấp giữa các nước liên quan xung quanh chủ quyền quần đảo Trường Sa (của Việt Nam) và
phân giới vùng biển phụ cận”.


Đây là lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra công khai về “điểm cốt lõi của vấn đề Biển Đơng”. Bình luận
về việc này, báo điện tử Liên hợp Buổi sáng của Singapore ngày 23/8 cho rằng tuyên bố này của
Trung Quốc sẽ có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của tình hình Biển Đơng trong tương lai, đồng
thời đánh dấu sự chuyển biến lớn về lập trường và sách lược của Chính phủ Trung Quốc trong vấn đề
Biển Đơng. Bài báo cũng nhận định: "Ở một khía cạnh nào đó, ý nghĩa và ảnh hưởng của “điểm cốt lõi
của vấn đề Biển Đông” không hề kém quan trọng hơn “thuyết lợi ích cốt lõi Biển Đơng” xuất hiện vào
tháng 3/2010. Việc Bắc Kinh đưa ra “điểm cốt lõi của vấn đề Biển Đông” cho thấy nước này không
cho rằng quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và quần đảo Trung Sa cùng vùng biển phụ
cận tồn tại tranh chấp chủ quyền và hy vọng thế giới bên ngoài thừa nhận cũng như tiếp thu lập trường
này (của phía TQ). Bài báo đi tới kết luận: "Việc Trung Quốc đưa ra giới định “điểm cốt lõi của vấn đề
Biển Đông” là để chuẩn bị ứng phó với thách thức đến từ việc đưa ra “Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển
Đông” (COC)".





Giờ thì rõ rồi nhé, con cáo đã thị tồn bộ hai cái chân lơng lá của nó vào tấm chăn Biển Đơng. Bước
đi sắp tới của Bắc Kinh rất có thể là chấp nhận đàm phán vói ASEAN, và cũng có thể sẽ làm lơ
chuyện "đường lưỡi bị" (vì nhân thấy nó đã tỏ ra quá lố bịch). Tuy nhiên, thay vào đó Bắc Kinh đã có
trong tay những con bài cụ thể để thương lượng. Bằng cách này, Bắc Kinh hy vọng sẽ có thêm lý lẽ để
gạt Mỹ, Nhật Bản hoặc các nước ngoài khu vực ra khỏi cuộc đàm phán về Biển Đông. Đối với Bắc
Kinh, giờ đây toàn bộ vùng biển đảo bên trên quần đảo Trường Sa coi như đã thuộc về TQ, và nếu bắt
buộc phải đàm phán thì Bắc Kinh chỉ đàm phán với ASEAN về quần đảo Trường Sa mà thôi!.
Hy vọng rằng, với những bài học của thời gian vừa qua, ASEAN cũng như các quốc gia có lợi ích tại
Biển Đơng sẽ tìm được đối sách thích hợp làm thất bại âm mưu độc chiếm Biển Đông của nhà cầm
quyền Bắc Kinh . Đồng thời cùng với thời gian, nhân dân Trung Quốc u chuộng hịa bình và cơng lý
sẽ giác ngộ và đứng lên phản đối hành động sai trái của các thế lực dân tộc cực đoan trong nước họ.
Đó sẽ là kết cục đúng logic thường thấy đối với các cuộc tranh chấp quốc tế xưa nay, tuy nhiên có thể
sẽ rất chậm xảy ra đối với trường hợp TQ nơi mà chủ nghĩa dân tộc cực đoan luôn ngự trị. /.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Giông tố đang kéo đến Biển Đông </b>



<b>Tất cả các nước Đông Á đang chờ đợi xem Mỹ đáp trả lại sự hiếu chiến của Trung Quốc như thế</b>
<b>nào</b>


Tác giả: <b>James Webb/ Wall Street Journal, ngày 20/8/2012</b>


Người dịch: <b>Dương Lệ Chi</b>


Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, mặc dù chiến tranh bùng
nổ ở Triều Tiên và Việt Nam gây tốn kém, nhưng Hoa Kỳ đã chứng minh là nước bảo đảm sự ổn định
cần thiết trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, ngay cả khi sức mạnh chuyển dịch từ Nhật Bản
sang Liên Xô và gần đây nhất là sang Trung Quốc. Những lợi ích của việc tham gia của chúng ta là
một trong những câu chuyện thành công lớn của lịch sử nước Mỹ và lịch sử châu Á, cung cấp cho các


nước được gọi là ‘bậc hai’ trong khu vực có cơ hội phát triển về mặt kinh tế và trưởng thành về mặt
chính trị.


Khi khu vực này phát triển thịnh vượng hơn, vấn đề [tranh chấp] chủ quyền đã trở nên dữ dội hơn.
Trong hai năm qua, Nhật Bản và Trung Quốc đã đụng độ cơng khai ở quần đảo Senkaku, phía đơng
Đài Loan và phía tây Okinawa, mà sự quản lý [quần đảo này] được quốc tế công nhận là dưới quyền
kiểm soát của Nhật Bản. Nga và Nam Triều Tiên đã tái khẳng định tuyên bố chủ quyền chống lại Nhật
Bản ở vùng biển phía Bắc. Cả Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng
Sa. Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Brunei và Malaysia, tất cả các nước này đều tuyên bố chủ
quyền trên quần đảo Trường Sa, nơi tiếp diễn các cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Philippines.
Các tranh chấp như thế không chỉ liên quan đến thể diện lịch sử mà còn là các vấn đề quan trọng như
vận chuyển thương mại, quyền đánh bắt cá và các hợp đồng khai thác khống sản có khả năng sinh lợi
ở các vùng biển bao quanh các quần đảo hàng ngàn dặm. Không nơi nào mà căng thẳng gia tăng rõ
ràng hơn là các tranh chấp ngày càng trở nên thù địch ở Biển Đông.


Ngày 21 tháng 6, Quốc Vụ viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập một khu hành chính mới có tên
là Tam Sa, với trụ sở chính đặt tại đảo Phú Lâm (Woody Island), thuộc quần đảo Hoàng Sa. Được
Trung Quốc gọi là đảo Vĩnh Hưng (Yongxing), đảo Phú Lâm khơng có dân bản địa và khơng có
nguồn cung cấp nước tự nhiên, nhưng có một đường băng có khả năng quân sự, bưu điện, ngân hàng,
cửa hàng tạp hóa và một bệnh viện.


Quần đảo Hoàng Sa cách Hải Nam hơn 200 dặm về phía đơng nam, đảo Hải Nam là lãnh thổ cực nam
của Trung Quốc đại lục, và cách phía đơng bờ biển miền trung của Việt Nam một khoảng cách như
thế. Việt Nam kiên quyết đòi chủ quyền trên các nhóm đảo, nơi xảy ra một trận chiến hồi năm 1974,
khi Trung Quốc tấn công quần đảo Hồng Sa để xua đuổi những người lính thuộc chế độ cũ của miền
Nam, Việt Nam (VNCH – ND).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

tuyên bố lãnh thổ của Trung Quốc bằng một quy định hành chính. Theo Tân Hoa Xã, hãng tin chính
thức của Trung Quốc, cơ quan hành chính mới này “quản lý hơn 200 đảo nhỏ” và “2 triệu km vuông
biển”. Để củng cố sự thơn tính này, 45 nhà lập pháp đã được bổ nhiệm để quản lý khoảng 1.000 người


dân trên các hòn đảo này, cùng với 15 ủy viên Ban Thường vụ, cộng với một thị trưởng và một phó thị
trưởng.


Những hành động chính trị này trùng hợp với sự mở rộng quân sự và kinh tế. Ngày 22 tháng 7, Quân
uỷ Trung ương của Trung Quốc đã thông báo rằng, họ sẽ triển khai một đơn vị binh lính đồn trú để
bảo vệ các hòn đảo trong khu vực. Ngày 31 tháng 7, họ đã công bố một chính sách mới về “<i>tuần tra </i>
<i>đều đặn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu</i>” ở Biển Đông. Và Trung Quốc hiện đã bắt đầu cung cấp
quyền khai thác dầu khí tại các địa điểm được cộng đồng quốc tế công nhận là vùng đặc quyền kinh tế
của Việt Nam.


Vì tất cả các mục đích thực tế này, Trung Quốc đã đơn phương quyết định sáp nhập một khu vực mở
rộng về phía đơng từ các lục địa Đơng Á xa tới tận Philippines, và về phía nam xa gần như tới eo biển
Malacca. “Quận” mới của Trung Quốc lớn gần gấp đôi đất đai của tất cả các nước Việt Nam, Nam
Triều Tiên, Nhật Bản và Philippines cộng lại. “Các nhà lập pháp” của họ sẽ trực tiếp báo cáo với chính
quyền trung ương.


Phản ứng của Mỹ là im lặng. Bộ Ngoại giao chờ tới ngày 3 tháng 8 trước khi bày tỏ mối quan ngại
chính thức về việc “<i>nâng cấp hành chính… và thành lập một đơn vị đồn trú quân sự mới</i>” của Trung
Quốc trong các khu vực tranh chấp. Tuyên bố trên được diễn đạt một cách cẩn thận trong bối cảnh các
chính sách lâu dài là kêu gọi giải quyết các vấn đề chủ quyền theo quy định của luật pháp quốc tế và
khơng có việc sử dụng sức mạnh quân sự.


Mặc dù chỉ nói như vậy, nhưng chính phủ Trung Quốc đã phản ứng một cách giận dữ, cảnh báo rằng
các viên chức Bộ Ngoại giao đã “<i>lầm lẫn giữa đúng và sai, và gửi một thông điệp sai lầm nghiêm </i>
<i>trọng</i>“. Nhân Dân Nhật Báo, trong một bài đăng tải gần như chính thức [quan điểm của chính phủ
Trung Quốc], đã cáo buộc Mỹ “<i>thổi bùng ngọn lửa và là bộ phận kích động, cố tình tạo ra sự đối </i>
<i>kháng với Trung Quốc</i>“. Phiên bản ở nước ngoài của báo này nói rằng, đã đến lúc Hoa Kỳ nên “<i>câm </i>
<i>miệng</i>“.


Rõ ràng là sự do dự của Mỹ trong nhiều năm qua đã khuyến khích Trung Quốc. Chính sách của Hoa


Kỳ đối với các vấn đề chủ quyền ở vùng biển châu Á – Thái Bình Dương là chúng ta khơng đứng về
phía bên nào, các vấn đề đó phải được giải quyết một cách hịa bình giữa các bên liên quan. Các nước
nhỏ hơn và yếu đuối hơn đã nhiều lần kêu gọi sự tham gia lớn hơn của quốc tế.


Trong khi đó, Trung Quốc đã khẳng định rằng tất cả các vấn đề như thế phải được giải quyết song
phương, có nghĩa là hoặc sẽ không bao giờ được giải quyết, hoặc chỉ giải quyết theo các điều kiện của
Trung Quốc. Do sức mạnh ngày càng gia tăng của Trung Quốc trong khu vực, do không thể hiện quan
điểm, nên Washington đã mặc nhiên trở thành nước cho phép Trung Quốc thể hiện các hành động hiếu
chiến hơn bao giờ hết.


Hoa Kỳ, Trung Quốc và tất cả các nước Đông Á hiện đã đi đến thời khắc không thể né tránh sự thật.
Tranh chấp chủ quyền mà các bên tìm kiếm giải pháp hịa bình là một chuyện, các hành động hiếu
chiến một cách trắng trợn hoàn toàn là một chuyện khác. Những thách thức này sẽ được giải quyết như
thế nào để các tác động không chỉ cho Biển Đông, mà cịn cho sự ổn định của khu vực Đơng Á và
tương lai của các mối quan hệ Mỹ – Trung.


Lịch sử dạy chúng ta rằng khi các hành vi đơn phương xâm lược mà khơng có sự đáp trả, thì những tin
tức xấu chẳng bao giờ tốt hơn theo thời gian. Khơng nơi nào trong cái quy trình này lại rõ ràng hơn là
sự chuyển đổi sức mạnh sang Đông Á. Như sử gia Barbara Tuchman ghi nhận trong cuốn tiểu sử của
Tướng Joseph Stillwell thuộc Quân đội Hoa Kỳ, đó là lời cầu khẩn của Trung Quốc để được Hoa Kỳ
và Liên đoàn các Quốc gia hỗ trợ đã khơng có ai trả lời sau sự xâm lăng Mãn Châu của Nhật Bản hồi
năm 1931, sự thờ ơ đó đã “ấp ủ sự nhân nhượng vô nguyên tắc… đã mở ra thập niên về căn nguyên
chiến tranh” ở châu Á và hơn thế nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

đó nhưng vẫn giữ vai trị cần thiết như là nước thực sự bảo đảm sự ổn định ở khu vực Đông Á, hay là
khu vực này một lần nữa sẽ bị thống trị bởi sự hiếu chiến và đe dọa.


Trung Quốc hiểu mối đe dọa này hồi năm 1931 và đã chịu hậu quả về sự thất bại của cộng đồng quốc
tế [giúp Trung Quốc] giải quyết. Câu hỏi được đặt ra là, liệu Trung Quốc năm 2012 có thực sự mong
muốn giải quyết các vấn đề thông qua các tiêu chuẩn đã được quốc tế công nhận, và liệu nước Mỹ năm


2012 có đủ ý chí và khả năng để khẳng định rằng phương pháp này là con đường duy nhất đối với sự
ổn định hay không.


<i>———</i>


- Mời xem lại: 1164. Thượng nghị sĩ Jim Webb: Trung Quốc có thể “vi phạm luật pháp
<b>quốc tế” (Jim Webb/ Ba Sàm).</b>


Ông Jim Webb là Thượng Nghị sĩ Mỹ, thuộc Đảng Dân chủ, bang Virginia. Cha ông là một sĩ quan
Không quân Hoa Kỳ, đã tham gia trong Đệ Nhị Thế chiến. Jim Webb tốt nghiệp Học viện Hải quân
Hoa Kỳ, là một trong ba học viện danh giá nhất nước Mỹ. Ông là sĩ quan Thủy quân Lục chiến Hoa
Kỳ, đã từng tham chiến ở chiến trường Triều Tiên và Việt Nam, sau đó trở thành Bộ trưởng Hải quân
dưới tổng thống Ronald Reagan.


Về đời tư, người vợ hiện tại của ông (và là cuộc hôn nhân lần thứ ba của ông) là cô Hồng Lê, một luật
sư Mỹ gốc Việt. Cô Hồng Lê nhỏ hơn ông 22 tuổi, sinh ở Vũng Tàu, cơ đã cùng gia đình rời khỏi Việt
Nam sau sự kiện 30-04-1975. Hai người có chung một đứa con là Georgia LeAnh, sinh năm 2006.
Ngoài ra, Jim Webb cịn là cha ni của cơ con gái Emily, là con riêng của cô Hồng Lê từ cuộc hơn
nhân trước. Jim Webb nói thơng thạo tiếng Việt.


<b>Nguồn:</b> Wall Street Journal
Trần Kinh Nghị


<b>Tại sao lại là TQ? </b>



Có một câu hỏi thường vấn vương trong mỗi người VN chúng ta là tại sao mỗi lần an ninh đất nước bị
đe dọa, rừng vàng biển bạc bị xâm lấn, kinh tế mất ổn định, thực phẩm bị đầu độc, nạn bán rừng, bán
ruộng, giết trâu lấy móng, làm chè bẩn, ni đỉa, trồng khoai lang....để xuất khẩu, v.v....thì y như rằng
người Việt Nam lại tìm thấy nguyên nhân nào đó từ TQ (?) Có nhiều trường hợp rõ ràng nhưng cũng
có những trường hợp mập mờ, ám muội. Không biết từ bao giờ nhiều người Việt tin rằng người TQ có


thể iểm bùa, trấn huyệt, chặn long mạch... khiến dân tộc này không thể ngóc đầu lên được (?). Tóm
lại,Việt Nam khơng khác nào con giun, con dế sống duới chân con gà mái, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ
bị nó nuốt chửng nhưng khơng biết chạy đi đâu cho thốt! Vậy nên cũng có một câu hỏi: Tại sao người
Việt Nam khơng thốt ra khỏi thế bị kìm kẹp đầy rũi ro, nguy hiểm đó, mà có vẻ vẫn an phận với nó
hàng ngàn năm nay?


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

trạng thái ức chế như vậy để cứ mỗi lần bị TQ chèn ép, xâm lấn lại chỉ biết hậm hực trách người?
Có người cho đó là do số mệnh, là do thế đất trời đã định cho dân tộc ta sống bên cạnh dân tộc Đại
Hán tham lam, xảo quyệt và độc ác ..., đành chịu vậy thôi (!) . Nghe cũng có lý. Nhưng nếu vậy, ta hãy
thử liên hệ đến trường hợp các dân tộc khác trên thế giới xem sao. Nhật Bản và Hàn Quốc có lẽ là hai
trường hợp có hồn cảnh chung sống cận kề với Trung Quốc tương tự như Việt Nam. Hai nước này
đều đã trải qua thời kỳ dài trong lịch sử đấu tranh sinh tồn bên cạnh Hán tộc mà trong đó họ cũng đã
từng chịu đựng tình trang lớn-bé, mạnh-yếu. Nhưng rốt cuộc hai nước này đều đã lần lượt thốt ra
được khỏi vịng cương tỏa của TQ, thậm chí phát triển vượt xa TQ . Ngày nay cung cách quan hệ giữa
họ với TQ là quan hệ hồn tồn bình đẳng, hai bên cùng có lợi khơng ai có thể chèn ép ai. Ngồi ra,
các trường hợp Đài Loan, Hồng Kơng và Ma Cao tuy khơng hồn tồn giống nhau nhưng cũng đều
cho thấy khả năng thốt khỏi thế kìm kẹp của Trung Quốc là hồn tồn có thể . Xa hơn, ta thấy trường
hợp nước Cu ba sống bên cạnh Cường quốc số I chênh lệch nhau về mọi mặt nhưng vẫn hiên ngang
tồn tai đâu có bao giờ phải quỵ lụy, triều cống? Không hiếm những quốc gia khác trên thế giới tuy
nhỏ bé cả về dân số hoặc diện tích nhưng có thể tồn tại độc lập và phát triển thịnh vượng bên cạnh các
nước lớn. Vậy tại sao với TQ, Việt Nam lúc nào cũng phải quỵ lụy, bạn không ra bạn, thù khơng ra
thù, anh em, đồng chí cũng khơng phải?


Việt Nam thực ra đã có những thời kỳ và cơ hội để thoát ra khỏi thế kìm kẹp của Vương triều phương
Bắc, nhưng tiếc thay cho đến nay vẫn chưa làm được điều đó. Lý do gì, nếu khơng phải trước hết là do
chính bản thân mình. Phải chăng đó là do ý chí và khát vọng tự cường dân tộc chưa đủ mạnh trong
toàn bộ dân chúng, đặc biệt trong giới cầm quyền của đất nước?. Bên cạnh những trang sử chống
ngoại xâm oanh liệt ln có sự ám ảnh của một tâm thế thần phục, cam chịu lệ thuộc đối với Vương
triều Phương Bắc. Ngọn lửa tự cường, tự tôn dân tộc thường bùng lên trong những thời kỳ chống
ngoại xâm nhưng rồi lại lắng xuống trong thời bình. Ngày nay tuy tính chất thời đại đã khác xưa,


nhưng tâm thế đó vẫn cịn. Phải chăng đó là lý do để hiểu tại sao dù căm ghét TQ xâm lược biển đảo,
nhưng dân chúng vẫn cứ vơ tư tiêu xài hóa, kể cả hàng nhập lậu và hàng độc từ TQ. Các doanh nghiệp
(cả tư nhân và nhà nước) đua nhau nhập máy móc thiết bị, vật tư của và công nghệ lỗi thời của TQ. Đó
là lý do tại sao nhiều cơ quan chính quyền các cấp mơ hồ mất cảnh giác trước những hoạt động ngầm
của người TQ len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm của đất nước. Đó là lý do tại sao giới lãnh đạo mà
nhầm lẫn người dân yêu nước với "các lực lượng thù địch" . Đó cũng là lý do tại sao các tướng lĩnh
Việt Nam lại chọn lúc lòng dân bức xúc trước họa xâm lăng để tung hô công đức của giặc và coi đó là
một việc làm khơn khéo(?). Có rất nhiều những hiện tượng trái khuấy như vậy thường tái diễn trong
quan hệ hai nước bất chấp sự thật đã có tới 3-4 cuộc chiến tranh đẫm máu do phía TQ chủ động gây ra
trong thời gian ngắn ngũi vừa qua.


Từ kinh nghiệm của bản thân và từ bài học của các nước có hồn cảnh tương tự, thiết nghĩ, con đường
tất yếu của Việt nam là phải dứt khoát đoạn tuyệt với cái tâm thế thần phục và lệ thuộc vào nước láng
giềng Phương Bắc dù nó được trị vì bởi bất cứ thể chế nào. Đây hồn tồn khơng phải là sự bài bác
hay đối đầu mà là một phương cách để Việt Nam thật sự trở thành một quốc gia độc lập bình đẳng với
TQ-điều kiện cần thiết để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và phát triển đất nước./.


</div>

<!--links-->
30 điều KHÔNG nên TIẾP tục làm với bản THÂN
  • 4
  • 457
  • 5
  • ×