Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

tieu luan tien te

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.21 KB, 49 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>A. Lời Mở Đầu</b>



Gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ. Trong
sự phát triển của nền kinh tế của các nước trên thế giới, vấn đề tiền tệ là vấn đề
rất được xã hội quan tâm do tiền tệ ra đời làm cho việc trao đổi hàng hóa, dịch
vụ được dễ dàng, thuận tiện hơn.


Tiền tệ được phát triển qua các giai đoạn khác nhau, sự thay thế nhau của các
loại tiền trong từng thời kỳ. Ở Việt Nam cũng vậy, sự thay đổi của tiền tệ, thay
đổi hình thái tiền tệ ( kim loại, giấy, polime, thẻ…), lịch sử tiền tệ cũng chịu ảnh
hưởng của lịch sử xã hội. Sự thay đổi đi lên của tiền tệ điều đó cũng là một phần
để đánh giá dự phát triển kinh tế của một đất nước.


Chính sự phát triển và vai trị quan trọng của tiền tệ mà chúng em lựa chọn
đề tài “Trình bày lịch sử phát triển của tiền tệ và những liên hệ đến chế độ
<b>tiền tệ Việt Nam”. Tìm hiểu đề tài này khơng chỉ cho chúng em biết thêm</b>
những kiến thức về lịch sử xuất hiện của tiền tệ mà còn hiểu biết sâu sắc hơn
những thực tế xoay quanh chế độ tiền tệ, những ảnh hưởng của tiền tệ với nền
kinh tế của đất nước Việt Nam.


Bố cục đề tài gồm ba chương:


Chương I: Lý luận chung về lịch sử phát triển của tiền tệ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>



<b> M</b>
<b>ỤC LỤC</b>


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ.
<b>I.</b> Khái niệm và nguyên nhân ra đời của tiền tệ.



1. Khái niệm.


- Khái niệm về tiền tệ.


- Nguồn gốc lịch sử của tiền tệ.
- Chế độ tiền tệ.


2. Quan điểm về chính sách tiền tệ.


3. Nguyên nhân dẫn đến sự hình thành của tiền tệ.
<b>II.</b> Vai trị và đặc điểm của tiền tệ.


1. Vai trò của tiền tệ.
2. Đặc điểm của tiền tệ.


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ Ở VIỆT
NAM QUA TỪNG THỜI KỲ.


I. So sánh giữa chế độ tiền tệ thế giới và chế độ tiền tệ Việt Nam
1. Các chế độ tiền tệ của thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

II. Thực trạng phát triển của tiền tệ.


CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN CHẾ ĐỘ TIỀN TỆ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.


I. Những vấn đề tiêu cực, những bất cập về chế độ tiền tệ ở nước ta hiện
nay.



II. Những giải pháp cần thực hiện cho chế độ tiền tệ ở nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN.


TÀI LIỆU THAM KHẢO.


DANH SÁCH NHÓM WER ARE ONE


Họ và tên Mã số sinh viên


Nguyễn Thị Liên 10011836


Phạm Thị Mỹ Dung 10008516


Lê Thị Thảo Vy 10007576


Vũ Thị Hà 10007626


Phan Thị Bích Quỳnh 10007356


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Võ Thị Nhi 10009776


Phan Thị Thủy 10012766


Hoàng Thị Ngọc Thúy 10007236


Nguyễn Hồng Vân 10007686


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ.
I. Khái niệm và nguyên nhân ra đời của tiền tệ.



<b>1.</b> Khái niệm.
<b>- Khái niệm tiền tệ:</b>


Theo Mác, tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng
hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hố khác. Nó
trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người
sản xuất hàng hóa.


Theo các nhà kinh tế hiện đại: Tiền được định nghĩa là bất cứ cái gì được chấp nhận
chung trong việc thanh toán để nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ.


<b>- Nguồn gốc và lịch sử của tiền tệ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

từ năm 600 trước công nguyên, vì thế ta biết chúng đã được lưu hành trong suốt
một thời gian dài. Lúc đầu người ta sử dụng những kim loại quý như vàng và bạc
để chế tiền xu. Họ in hình người hoặc (con) thú trên mỗi đồng tiền để xác định giá
trị của nó. Trong những năm 1200, người Trung Quốc đúc những đồng tiền bằng
sắt. Những đồng tiền này giá trị chẳng là bao, cho nên người dân phải sử dụng một
số lượng lớn khi mua hàng. Do đó rất bất tiện khi phải mang một số lượng lớn
những đồng tiền sắt nặng nề nên chính phủ đã cho in những giấy biên nhận. Người
ta mang các biên nhận này đến ngân hàng để đổi ra tiền xu. Đây là ví dụ đầu tiên ta
có được về việc phát hành và sử dụng tiền giấy. Ngày nay, hầu hết các nước đều sử
dụng cả tiền xu lẫn tiền giấy. Ở Mỹ, các loại tiền giấy đều có cùng kích cỡ và màu
sắc như nhau. Chẳng hạn, tờ một đơ la có cùng kích cỡ và màu sắc y như tờ một
trăm đô la. Ở nhiều quốc gia khác, tiền giấy được in dưới nhiều kích cỡ và màu sắc
khác nhau. Tờ có kích thước nhỏ hơn thì có giá trị thấp hơn. Việc này tạo điều kiện
cho chúng ta chỉ cần nhìn thống qua là có thể xác định được giá trị của chúng. Tất
cả những sự kiện này khiến lịch sử tiền tệ trở thành một công cuộc nghiên cứu lý
thú.



<b> Tối ưu hóa thương mại:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Đó là các hình thức thanh tốn đầu tiên trước khi có tiền. (Tiền trong tiếng La tinh
là pecunia bắt nguồn từ pecus có nghĩa là con bị vì đồng tiền kim loại đầu tiên của
La Mã tượng trưng cho giá trị của một con bò.) Khả năng có thể đếm được, dễ bảo
tồn, dễ vận chuyển đã đóng một vai trị quan trọng trong việc lựa chọn vật liệu
cũng như khả năng có thể giữ được giá trị. Các thỏi hay sợi dây bằng đồng thiếc
hay bạc đáp ứng được các yêu cầu này vì có giá trị bền vững và có thể bảo toàn dễ
dàng.


Các đồng tiền kim loại đầu tiên được người Lydia ở phía Tây của Thổ Nhĩ Kỳ ngày
nay đúc từ vàng, trong thời gian giữa 640 và 600 TCN, có nhiều kích thước và giá
trị khác nhau và được dùng như là một phương tiện thanh tốn để đơn giản hóa việc
trả lương cho những người lính đánh thuê. Một lượng nhất định của các hạt bụi
vàng được nấu chảy thành đồng tiền và sau đó hình của nhà vua được dập nổi lên
trên. Nhà vua người Lydia cuối cùng, Croesus, vì thế mà mang danh là giàu có vơ
hạn. Các đồng tiền kim loại này đã làm cho việc thương mại dễ dàng đi rất nhiều vì
chúng có ưu điểm là bao giờ cũng có kích thước, trọng lượng và hình dáng khơng
thay đổi và thay vì là phải cân thì có thể đếm được.


Các chỉ trích và phê phán về thuyết cho rằng tiền hình thành từ thương mại trao đổi
xuất phát từ những người đại diện cho Chủ nghĩa Nợ (tiếng Anh: Debitism), đặc
biệt là Paul C. Martin. Lý luận được đưa ra là sử dụng một vật trao đổi thứ ba trước
tiên là sẽ làm cho việc trao đổi phức tạp thêm. Từ một giao dịch biến thành hai giao
dịch. Điều quyết định chính là chức năng của tiền, dùng để nối tiếp thời gian giữa
nhu cầu cần dùng hàng hóa A và sự sản xuất hàng hóa B. Vì thế mà tiền ngay từ
đầu khơng phải là hàng hóa và cũng khơng phải là một vật trao đổi mà là dấu hiệu
cho một mối quan hệ nợ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Mãi cho đến trong thế kỷ 18 giá trị của các loại tiền tệ của châu Âu được định


nghĩa thông qua lượng kim loại quý. Bên cạnh việc theo dõi sản xuất trong nước,
các xưởng đúc tiền quốc gia còn theo dõi cả việc đúc tiền của nước ngoài. Một tiền
tệ được đánh giá quá cao hay quá thấp khi đồng tiền được tính trên hay dưới giá trị
của kim loại trong lúc tính tốn với các tiền tệ khác trên thế giới.


Việc cố tình mài mịn đồng tiền để lấy bớt đi kim loại đã tạo nên nhiều vấn đề rất
lớn trong việc sử dụng tiền kim loại. Việc giá trị của các kim loại quý biến động
khi so sánh với nhau còn mang lại nhiều vấn đề lớn hơn. Giá trị của các loại tiền tệ
khác nhau, bao gồm các đồng tiền bằng vàng, bạc và đồng, không thể giữ ổn định
khi so sánh với nhau được. Bạc được mang ra khỏi Tây Ban Nha và Anh vì các
thương gia người Tây Ban Nha và người Anh đánh giá các đồng tiền vàng cao hơn
một ít so với các đối tác thương mại quốc tế của họ, tạo thành một vấn đề lan rộng
khắp trong thương mại quốc tế: Ở châu Á người ta lại khơng thấy có lý do gì để
đánh giá vàng cao hơn như ở châu Âu. Vì thế mà bạc được mang đến châu Á để đổi
lấy vàng. Giải pháp cho vấn đề này trong đầu thế kỷ 18 tại Anh là loại tiền tệ về
nguyên tắc dựa trên vàng, Ngân hàng Quốc gia Anh (Bank of England) bảo đảm sẽ
trả cho người sở hữu đồng tiền Anh quốc giá trị tương ứng với giá trị của vàng trên
thị trường tại mọi thời điểm. (Xem: Kim bản vị). Các vấn đề của cuộc cải cách này
có thể nhìn thấy ngay trước mắt: Làm sao có thể bảo đảm là ngân hàng khơng phát
hành tiền nhiều hơn là số lượng tiền được bảo chứng bằng vàng của ngân hàng?
Trong thập niên 1730 đã có một cuộc khủng hoảng tín nhiệm và Ngân hàng Quốc
gia Anh chỉ được cứu thoát khi giới đại thương nghiệp của Luân Đôn sẵn sàng
gánh vác lấy sự bảo đảm này. Về mặt khác các thủ đoạn gian lận trong tiền kim loại
và biến động giá trị giữa các loại tiền kim loại trong nước khơng cịn nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>III.</b> <b>Chế độ tiền tệ.</b>


Quan hệ mậu dịch giữa các nước dẫn đến hình thành các chế độ tiền tệ quốc tế. Đó
là 1 tập hợp những quy định thống nhất giữa các nước trong việc tổ chức và điều
hành thống nhất các quan hệ tiền tệ- tín dụng phát sinh giữa các nước nhằm thiết


lập một trật tự cho các quan hệ kinh tế- mậu dịch.


Lịch sử các chế độ tiền tệ quốc tế điển hình:
Chế độ tiền tệ quốc tế Pari 1867


Chế độ tiền tệ Genova 1922


Chế độ tiền tệ Bretton Woods 1944
Chế độ tiền tệ Jamaica 1977


Chế độ tiền tệ Europe 1979


+ Chế độ tiền tệ quốc tế Pari năm 1867


Song song với việc thực thi chế độ tiền vàng ở các nước, trên phạm vi quốc tế, một
chế độ tiền tệ dựa trên tiêu chuẩn vàng đã được thiết lập. Đó là chế độ tiền tệ quốc
tế Pari.


Chế độ tiền tệ quốc tế này được xác lập vào năm 1867 tại Pari sau cuộc cách mạng
công nghiệp diễn ra trên thế giới. Những nội dung chủ yếu của chế độ tiền tệ này
là:


- Thừa nhận vàng là tiền tệ thế giới, được chu chuyển và trao đổi tự do giữa các
quốc gia.


- Vàng là căn cứ để xác lập tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia của các
nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>+ Chế độ tiền tệ Genova (Italia)</b>



<i>- Bối cảnh ra đời của chế độ tiền tệ Giê-nơ: Sau Thế chiến lần thứ I, việc khôi phục</i>
lại nền kinh tế ở các nước châu Âu trở nên cấp thiết. Nhu cầu thiết lập một trật tự
mới trong các quan hệ mậu dịch, tín dụng, tiền tệ quốc tế nhằm nhanh chóng khơi
phục lại nền kinh tế bị tổn thất trong chiến tranh trở nên vô cùng cấp thiết đối với
các quốc gia ở châu Âu. Thực tế này đòi hỏi phải có những thoả thuận thống nhất
giữa các nước để thiết lập một trật tự mới trong các quan hệ mậu dịch, tín dụng và
tiền tệ quốc tế.


<i>-</i> <i>Nội dung của chế độ tiền tệ Giê-nơ:</i>


Chế độ tiền tệ Giê-nơ hình thành là kết quả của những thoả thuận giữa các nước
tham gia Hội nghị tiền tệ-tài chính quốc tế tổ chức chức tại thành phố Giê-nơ
(Italia) vào năm 1922. Qua hội nghị nhằm tổ chức lại các quan hệ tiền tệ-tài chính
quốc tế, thúc đẩy các quan hệ mậu dịch và các quan hệ kinh tế quốc tế khác giữa
các nước thành viên vào thời kỳ hậu chiến. Trong chế độ này các nước đã thoả
thuận những nội dung chủ yếu sau đây:


Một là, các nước chính thức thừa nhận vai trò đặc biệt quan trọng của đồng Bảng
Anh (GBP) trong các quan hệ tiền tệ, thanh toán và tín dụng quốc tế. Họ thừa nhận
đồng Bảng Anh là phương tiện thanh toán và phương tiện dự trữ quốc tế, đánh giá
nó ngang với vàng, coi đồng Bảng Anh là đồng tiền chủ chốt. Vì vậy, thực chất của
chế độ tiền tệ này là chế độ bản vị Bảng Anh, một đồng tiền quốc gia do Ngân hàng
Anh phát hành.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Chế độ tiền tệ Giê-nơ tạo nên nhiều lợi thế cho nước Anh trong lĩnh vực mẫu
dịch, dịch vụ, thanh tốn và tín dụng quốc tế. Điều đó đã làm cho Chính phủ Anh
“lạm dụng” quyền phát hành đồng Bảng Anh, để rồi đẩy đồng tiền ây lâm vào tình
trạng khủng hoảng liên tục, làm cho uy tín của nó trên trường quốc tế ngày càng
giảm sút nghiêm trọng. Đánh dấu sự kiện này chính là việc nước Anh đã tuyên bố
chính thức phá giá đồng tiền nước mình với mức 33% so với đồng đô la Mỹ vào


ngày 21-09-1931. Việc phá giá đồng Bảng Anh – xương sống của chế độ tiền tệ
Giê-nơ cũng là sự “khai tử” đối với chế độ tiền tệ quốc tế này.


+ Chế độ tiền tệ Bretton-woods


<i>- Bối cảnh ra đời của chế độ tiền tệ Bretton-woods: Sự sụp đổ của chế độ tiền tệ </i>
Giê-nơ làm cho các quan hệ tiền tệ-tài chính quốc tế trở nên rối ren đã dẫn đến sự
hình thành các liên minh tiền tệ do một số nước tư bản đầu sỏ cầm đầu. Đó là các
khu vực tiền tệ như khu vực đồng Phơ-răng Pháp, khu vực đồng đô la Mỹ, khu vực
đồng Bảng Anh.


Khu vực đồng đô la do Mỹ cầm đầu tồn tại bên cạnh các “đối thủ không hơn kém”
là khu vực đồng Bảng Anh và khu vực đồng Phơ-răng Pháp. Nhưng sau Đại chiến
thế giới lần thứ II, Mỹ trở thành một cường quốc mạnh nhất thế giới về ngoại
thương, về tín dụng quốc tế và là nước có dự trữ vàng lớn nhất thế giới (chiếm
khoảng ¾ tổng dự trữ vàng của tồn bộ thế giới tư bản). Đây chính là những yếu tố
tạo nên thế mạnh cho đồng đô la Mỹ trên trường quốc tế, đưa đồng tiền này “lên
ngôi” đồng tiền chủ chốt của thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Bretton-woods với sự tham gia của 44 nước. Hội nghị đã ký kết một Hiệp định
quốc tế bao gồm những thoả thuận của các nước về việc thiết lập các quan hệ tiền
tệ - tài chính quốc tế mới cho thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần II. Được gọi là
chế độ tiền tệ Bretton-woods.


<i>- Nội dung chủ yếu của chế độ tiền tệ Bretton-woods:</i>


Một là, chế độ tiền tệ Bretton-woods đã thừa nhận USD là đồng tiền chuẩn, làm
trụ cột cho chế độ tiền tệ này. Nó được coi là phương tiện dự trữ và thanh tốn
quốc tế, đóng vai trị chủ chốt trong các quan hệ tiền tệ, thanh toán và tính dụng
quốc tế.



Hai là, việc sử dụng USD trong thanh toán quốc tế về ngoại thương và các quan
hệ đối ngoại khác không hạn chế, các đồng tiền của các nước khác phải liên hệ chặt
chẽ với USD theo chế độ tỷ giá cố định. Theo chế độ tỷ giá này thì các nước thành
viên phải chấp hành những quy định sau đây:


+ Phải xác định và công bố cho IMF tiêu chuẩn giá cả (nội dung vàng) của
đồng tiền nước mình.


+Không được tự ý tăng, giảm nội dung vàng của đồng tiền nước mình vượt
q mức ±10% nếu khơng được IMF đồng ý.


+ Ngân hàng trung ương của các nước thành viên của IMF phải can thiệp
vào thị trường để giữ cho tỷ giá hối đối thị trường khơng biến động vượt ra ngoài
biên độ ±1% so với đồng giá vàng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

ounce vàng. Nếu giá vàng này biến động thì cũng có nghĩa là chế độ tỷ giá cố định
cũng bị vơ hiệu hố.


Bốn là, các nước phải thực hiện ngay các biện pháp thiết thực để loại trừ chế độ
kiểm soát và quản chế ngoại hối, đồng thời thiết lập chế độ tiền tệ tự do chuyển đổi,
nhằm tạo những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các quan hệ thương mại và
các quan hệ đối ngoại khác giữa các nước với nhau.


Năm là, thiết lập một tổ chức tiền tệ quốc tế nhằm điều chỉnh các quan hệ tiền tệ
-tài chính quốc tế theo những nguyên tắc của chế độ tiền tệ Bretton-woods.


Chế độ tiền tệ Bretton-woods đã lấy USD làm chuẩn. Thực chất, các nước đã cố
định tỷ giá hối đối của đồng tiền nước mình theo đồng đô la. Tuy các nước vẫn
phải xác định nội dung vàng của đồng tiền nước mình, nhưng chỉ là hình thức.


Đồng tiền các nước khơng tự do chuyển đổi ra vàng, muốn có vàng thì các đồng
tiền đó trước hết phải chuyển thành USD, tức là các nước sẽ phải có USD, từ USD
sẽ chuyển được thành vàng theo tỷ giá chính thức (giá vàng chính thức) 35 USD =
1 ounce vàng. Vì lẽ đó, chế độ tiền tệ Bretton-woods được gọi là bản vị vàng-hối
đối dựa trên USD, cịn gọi là chế độ bản vị đô la.


Chế độ bản vị đô la đã làm cho sự liên hệ giữa đồng tiền các nước với vàng lại
một bước nữa bị nới lỏng. Chế độ tiền tệ này đã hợp pháp hoá, biến đồng tiền quốc
của Mỹ thành đồng tiền quốc tế. Chính vì thế đã khuyến khích Hoa Kỳ lạm phát đơ
la. Tình trạng này đã kéo theo sự lạm phát quốc tế, trước hết là ở những nước thành
viên của chế độ tiền tệ này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

giữ giá USD như đã cam kết, mà thả nổi tỷ giá trên thị trường. Đô la Mỹ càng bị
mất giá, thì các nước càng tìm mọi cách chuyển nó ra vàng với số lượng ngày càng
tăng. Để đối phó với tình trạng này, ngày 15-8-1971 Mỹ đã phải tuyên bố ngừng
chuyển đổi USD ra vàng theo tỷ giá chính thức. Sau đó, ngày 18-12-1973, USD lại
một lần nữa bị phá giá với mức 10%.


Qua hai lần phá giá USD (17,89%) đã chứng tỏ rằng, những nội dung cơ bản của
chế độ tiền tệ Bretton-woods gần như bị phá vỡ hoàn toàn. USD lại trở về vị trí
đồng tiền quốc gia. Nhưng do tiềm lực kinh tế của Mỹ rất lớn, cho nên USD vẫn
còn là một đồng tiền mạnh, đồng thời nó vẫn chiếm 1 tỷ trọng đáng kể trong quỹ
dự trữ ngoại hối quốc gia của các nước.


+ Chế độ tiền tệ Gia-mai-ca:


Chế độ tiền tệ Gia-mai-ca ra đời trên cơ sở Hiệp định được ký kết giữa các nước
thành viên IMF tại Gia-mai-ca vào những năm 1976-1978. Chế độ tiền tệ này vận
hành theo những nguyên tắc cơ bản sau đây:



- Thừa nhận SDR là cơ sở của chế độ tiền của các nước. SDR trở thành một
đơn vị tiền tệ tính tốn quốc tế mới. Giá trị của nó được xác định theo phương pháp
rổ tiền tệ, lúc đầu rổ tiền tệ gồm 16 đồng tiền mạnh nhất của thế giới. Hiện nay,
tham gia “rổ tiền tệ” là 5 đồng tiền mạnh của những quốc gia có tiềm lực về kinh
tế, tài chính. Như vậy, chế độ tiền tệ Gia-mai-ca thực chất là chế độ bản vị SDR.
- Các nước thành viên được tự do lựa chọn thi hành chế độ tỷ giá hối đối
mà khơng cần đến sự can thiệp của IMF.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Chế độ tiền tệ Gia-mai-ca đến nay vẫn chưa đi đến cùng của sự hoàn thiện. Một số
nguyên tắc của chế độ tiền tệ ấy vẫn chưa được chấp hành triệt để, chưa trở thành
hiện thực.


<b>+ Chế độ tiền tệ châu Âu</b>


Chế độ tiền tệ châu Âu là một chế độ tiền tệ quốc tế khu vực. Chế độ tiền tệ này
trong bối cảnh mâu thuẫn giữa ba trung tâm thế lực quốc tế trong lĩnh vực thương
mại, tiền tệ, tài chính ngày càng trở nên gay gắt. Nó được xây dựng trên cơ sở Hiệp
định tiền tệ do các nước trên lục địa châu Âu ký kết vào tháng 3-1979.


<i>Nội dung cơ bản của chế độ tiền tệ này như sau:</i>


- Chế độ tiền tệ châu Âu không dựa trên SDR mà dựa vào ECU - một đơn vị tiền tệ
quốc tế khu vực của các nước châu Âu. Giá trị của ECU được đảm bảo bằng dự trữ
vàng và ngoại hối của các nước thành viên.


Khác với chế độ tiền tệ Gia-mai-ca, chế độ tiền tệ châu Âu không dựa trên SDR mà dựa vào ECU
- một đơn vị tiền tệ quốc tế khu vực của các nước thuộc khối EU. Đồng ECU có các chức năng
tương tự như SDR, là hình thái tiền “bút tệ”. Giá trị của ECU được tính theo phương pháp “rổ
tiền tệ”, nghĩa là giá trị của nó được dựa trên sức mua “tổng hợp” của các đồng tiền tham gia “rổ
tiền tệ”. Khi “giá trị” của các đồng tiền tham gia “rổ tiền tệ” thay đổi, thì giá trị của tồn rổ cũng


thay đổi và do đó, giá trị của ECU cũng được được xác định lại. Hiện nay đồng tiền chung châu
Âu có tên gọi mới là EURO.


<b>1.</b> <b>Quan điểm về chính sách tiền tệ </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

nhau. Theo quan điểm của của Frederic S.Mishkin - trường Đại học


C o l u m b i a ( M ỹ ) – t h ì c h í n h s á c h t i ề n t ệ c h í n h l à v i ệ c m à C ụ c
d ự t r ữ l i ê n b a n g M ỹ (Federal Reserve System - FED) sử dụng đến
ba công cụ để điều tiết cungứng tiền tệ: nghiệp vụ thị trường tự do,


nghiệp vụ này ảnh hưởng đến cơ sốtiền tệ; thay đổi lãi suất chiết khấu, thay đổi
này ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ,bằng cách này ảnh hưởng đến lượng vay chiết
khấu; và thay đổi DTBB, thayđổi này ảnh hưởng đến số nhân tiền tệ.Quan điểm
của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) về chính sách tienf tệ
như sau: cơng cụ chính là lãi suất ngắn hạn để thực hiện mục tiêu chính
của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả khu vực Châu Âu trong thời kì trung
hạn.Theo quan điểm của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc: mục
tiêu của là chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền và theo cách đó
đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế.Còn ở Việt Nam, theo điều 2, Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2003, số 06/1997/QHX, qui định:
chính sách tiền tệ quốc gia là mộtbộ phận của chính sách kinh tế - tài
chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm
phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân.


Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động ngân hàng; có chính
sách để động viên các nguồn lực trong nước là chính, tranh thủ tối
đa nguồn lực ngoài nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các
thành phần kinh tế; bảo đảm vai trò chủ đạo và chủ lực của các tổ


chức tín dụng nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân
hàng; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia, mở rộng hợp tác
và hội nhập quốc tế; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Ngân hàng Trung ương thực hiện nhằ m tác động v àocung cầu tiền tệ, đảm
bảo mục tiêu ổn định hay tăng trưởng kinh tế.Có thể nói sử dụng chính sách
tiền tệ sao cho hiệu quả là một vấn đề hiện đang được tranh cãi rất
nhiều vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế. Tuy điều
hành chính sách tiền tệ giữa các thời kỳ, các giai đoạn phát triển kinh tếở mỗi
nước rất khác nhau song việc xây dựng và thực thi chính sách tiền
tệ của các Ngân hàng Trung ương đều hướng đến mục tiêu tăng trưởng hay ổn
định nền kinh tế.


<b>2. Nguyên nhân dẫn đến sự hình thành của tiền tệ</b>


<b> Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển, sản xuất hàng</b>
hóa và thị trường ngày càng mở rộng thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung
làm cho trao dổi giữa các điạ phương vấp phải khó khăn, do đó địi hỏi khách quan
phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố
định ở một vật độc tơn và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị. Lúc
đầu có nhiều kim loại đóng vai trị tiền tệ, nhưng về sau được cố định lại ở kim loại
quý: Vàng, bạc và cuối cùng là bạc. Sở dĩ bạc va vàng đóng vai trị tiền tệ là do
những ưu điểm của nó như thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, khơng hư hỏng, với một
lượng và thể tích nhỏ nhưng chứa đựng một giá trị lớn. Tiền tệ xuất hiện là kết quả
phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa, khi tiền tệ ra đời thì thế giới
hàng hóa dược phân chia thành hai cực: Một bên là hàng hóa thơng thường, một
bên là hàng hóa (vàng) đóng vai trị tiền tệ.


<b>IV.</b> <b>Vai trị và đặc điểm của tiền tệ.</b>


<b>1. Vai trò của tiền tệ.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i><b>-Thứ nhất: tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển nền </b></i>
kinh tế hàng hóa. C.Mác đã chỉ ra rằng, người ta khổng thể tiến hàng sản xuất hàng
hóa nếu như khơng có tiền và sự vận động của nó.


Khi tiền tệ tham gia trong chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông là
cho việc đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa trở nên giản đơn, thuận lợi và
thống nhất, làm cho sự vận động của hàng hóa trong lưu thơng tiến hành một cách
trôi chảy. Mặt khác, khi sử dụng tiền trong sản xuất kinh doanh giúp cho người sản
xuất có thể hạch tốn được chi phí và xác định kết quả sản xuất kinh doanh, thực
hiện được tích lũy tiền tệ để thực hiện tái sản xuất kinh doanh


Tiền tệ trở thành công cụ duy nhất và không thể thiêu để thực hiện yêu cầu quy luật
giá trị. Vì vậy, nó là cơng cụ khơng thể thiếu được để mở rộng và phát triển nền
kinh tế hàng hóa.


<i><b>-Thứ hai: tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế. </b></i>
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển chuyển sang nền kinh tế thị
trường thì tiền tệ khơng những là phương tiện thực hiện các quan hệ kinh tế xã hội
trong phạm vi quốc gia mà còn là phương tiện quan trọng để thực hiện và mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế.


Cùng với ngoại thương, các quan hệ thanh tốn và tín dụng quốc tế, tiền tệ phát huy
vai trị của mình để trở thành phương tiện cho việc thực hiện và mở rộng các quan
hệ quốc tế, nhất là đối với các mối quan hệ nhiều mặt giữa các quốc gia trên thế
giới hình thành và phát triển làm cho xu thế hội nhập trên các lĩnh vực kinh tế xã
hội, tài chính, tiền tệ ngân hàng, hợp tác khoa học kỹ thuật giữa các nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển cao thì hầu hết các mối quan hệ


kinh tế-xã hội đều được tiền tệ hóa, mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan…đều khơng thể
thoát ly khỏi các quan hệ tiền tệ. Trong điều kiênh tiền tệ trở thành cơng cụ có
quyền lực vạn năng xử l và giải tỏa mối ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế xã
hội không những trong phạm vi quốc gia mà còn phạm vi quốc tế. Chính vì vậy mà
tiền tệ có thể thỏa mãn mọi mục đích và quyền lợi cho những ai đang nắm giữ tiền
tệ. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ thì thế lực của đồng tiền
vẫn còn phát huy sức mạnh của nó.


<b>2. Đặc điểm tiền tệ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<b>Cặp tiền tệ chính.</b>


Cho đến nay cặp tiền tệ được giao dịch nhiều nhất là euro/dollar (EUR/USD),
chiếm 28% khối lượng giao dịch hàng ngày toàn cầu ở Ngân hàng Thanh toán
Quốc tế theo kết quả điều tra hoạt động thị trường tiền tệ. Cặp EUR/USD nhận lãi
suất phát sinh từ các cặp tiền tệ Euro chéo (chẳng hạn. Euro/Bảng Anh
(EUR/GBP), EUR/CHF và EUR/JPY, và lãi suất có xu hướng ngược với chiều của
đồng đơ la cơ bản. Ví dụ, khi đồng USD âm, đồng Euro sẽ có lượng mua cơ bản
xuất phát từ tổng lượng bán USD. Tuy nhiên, cặp đồng tiền ít có tính thanh khoản
(ví dụ EUR/USD), sẽ được bán thông qua các cặp tiền tệ Euro chéo có tính thanh
khoản, trong trường hợp này dẫn đến bán cặp EUR/CHF, chào bán đồng Euro ra thị
trường.Lãi suất hai chiều có xu hướng làm chậm lại biến động của đồng Euro so
với các cặp tiền tệ chính và khiến thị trường trở nên hấp dẫn với những nhà giao
dịch ngắn hạn, những người có thể tận dụng “backing and filling”. Mặt khác, khả
năng thanh khoản nghĩa là đồng EUR/USD có xu hướng trải qua các cuộc thử
nghiệm kéo dài dường như khơng có kết thúc về các mức kỹ thuật, cho dù xuất
phát từ các phân tích đường xu hướng hay các tính tốn sóng Fibonacci/Elliot. Các
nhà giao dịch breakout cần biên độ lớn hơn 20-30 pip. Một cách khác để xác định
sự phá vỡ của cặp EUR/USD là xem xét cặp tiền tệ ít có tính thanh khoản hơn
USD/CHF và GBP/USD. Nếu các cặp này có điểm phá vỡ tương tự, chẳng hạn các


điểm cao hàng ngày gần nhất, sau đó cặp EUR/USD sẽ biến động tương tự sau một
sự đi xuống. Nếu đồng “Swissy” và “Cable” sẽ dừng ở các mức đó, sau đó đồng
EUR/USD sẽ có xu hướng suy giảm.


<b>Cá nhân hóa các thiết lập của bạn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

chỉnh các giới hạn (tăng khoảng thời gian) để giải thích sự suy giảm tương đối, biến
động back-and-fill.


Theo nghĩa này, dựa trên các chỉ dẫn rất ngắn hạn (ít hơn 30 phút) các nhà
giao dịch có thể nhận ra xu hướng tăng lên của các chuyển động “whipsaw”
(whipsaw: là khoảng tiền mất đi khi đầu tư vào một thị trường biến động cao). Các
đường phân kỳ và hội tụ trung bình động MACD phù hợp với cặp tiền tệ
EUR/USD, đặc biệt bởi vì nó sử dụng đường trung bình cùng với đường trung bình
động thứ ba, giảm đi các điểm giao nhau sai. Các đường phân kỳ xung lượng ngắn
hạn (theo giờ) thông thường xuất hiện ở cặp EUR/USD, nhưng chúng cần được xác
nhận bởi các điểm phá vỡ của các mức giá xác định bằng các phân tích đường xu
hướng để có một giao dịch có thể thực hiện được. Khi một biến động lớn hơn xảy
ra, nhà giao dịch thường tìm hệ thống các chỉ dẫn biến động có định hướng có ích
để xác nhận liệu xu hướng có đúng vị trí hay khơng, trong trường hợp này các phân
tích xung lượng sẽ khơng được tính đến, và có thể lựa chọn để căn cứ các điểm
giao nhau DI +/DI xác định dấu hiệu điểm vào thị trường để giao dịch.


<b>Cặp tiền tệ thứ hai</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

chặt chẽ khác. Theo đó, cặp USD/JPY được giao dịch trong các thời điểm xảy ra
các vấn đề chính trị hoặc thương mại của khu vực (chẳng hạn: nâng giá đồng nhân
dân tệ).


Với giao dịch theo ngày, đặc điểm quan trọng nhất của cặp USD/JPY là sự ảnh


hưởng mạnh mẽ của các công ty đầu tư và các nhà quản lý tài sản. Với nền văn hóa
có sự gắn kết chặt chẽ giữa những người hoạt động cùng ngành, bao gồm các vị trí
có phạm vi hoạt động rộng và chia sẻ thơng tin chiến lược, các nhà quản lý tài sản
Nhật Bản thường hành động theo một định hướng giống nhau với đồng yen trên thị
trường tiền tệ. Một cách cụ thể, các nhà đầu tư thường thực hiện các lệnh ở cùng
một giá hoặc ở cùng một mức kỹ thuật, sau đó củng cố các mức đó như là các hỗ
trợ hay kháng cự. Một khi các mức này bị phá vỡ, một loạt các lệnh dừng lỗ theo
sau, sau đó sẽ tạo ra các điểm phá vỡ. Khi cộng đồng đầu tư Nhật Bản cùng thực
hiện hàng loạt một giao dịch nào đó, họ thường có xu hướng kéo thị trường tránh ra
xa trong một vài khoảng thời gian, trong khi đó điều chỉnh các lệnh đến một mức
giá mới, chẳng hạn tăng lệnh hạn chế mua khi giá tăng.


Một kỹ thuật thay thế khác thường được các nhà quản lý tài sản áp dụng là xếp xen
kẽ các lệnh để tận dụng các chiều nghịch đảo ngắn hạn của các xu hướng lớn hơn.
Chẳng hạn, nếu USD/JPY là 115.000 và xu hướng cao hơn, các lệnh mua USD/JPY
sẽ bị thay thế bới các điểm giá độc quyền, chẳng hạn như 114.75, 114.50, 114.25
và 114.00, để tận dụng bất kỳ sự kéo lùi nào trong xu thế lớn hơn. Điều này cũng
giúp giải thích tại sao cặp USD/JPY thường gặp các sự hỗ trợ hoặc kháng cự ở các
mức chẵn, mặc dù khơng có một tầm quan trọng kỹ thuật tương ứng.


<b>Xem xét các đường xu hướng</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

giá hay một mức kỹ thuật, cặp USD/JPY có xu hướng ít gặp các điểm phá vỡ của
các đường xu hướng hơn. Ví dụ, lãi suất bán ở phạm vi lớn tại một mức kháng cự
kỹ thuật sẽ cần được trung hòa nếu mức kỹ thuật bị phá vỡ. Điều này thường xảy ra
chỉ khi biến động của thị trường là mở rộng, bất kỳ một điểm phá vỡ sẽ cần được
bảo toàn. Điều này khiến cặp USD/JPY hấp dẫn đối với các nhà giao dịch dựa trên
các điểm breakout, những người sẽ sử dụng các lệnh dừng lỗ trên các điểm phá vỡ
của các ngưỡng hỗ trợ và kháng cự.



Các đường xu hướng ngắn hạn, theo giờ hay 15 phút, có thể sử dụng một cách hiệu
quả nhưng các nhà giao dịch cần hoạt động trên cơ sở ngắn hạn tương tự; mức
đóng cửa hàng ngày đóng vai trị quan trọng đối với cặp USD/JPY. Dựa trên phân
tích biểu đồ, những nhà quản lý tài sản Nhật Bản dựa chủ yếu vào các biểu đồ hình
nến (phụ thuộc phần lớn vào mức đóng cửa hàng ngày), và các nhà giao dịch được
khuyến nghị học cách nhận biết các mơ hình biểu đồ hình nến, chẳng hạn mơ hình
doji, người treo cổ, đỉnh nhíp, đáy nhíp và tương tự. Xem biểu đồ 2. Khi các đường
xu hướng quan trọng đảo ngược hoặc dừng, giá đóng cửa, biểu đồ hình nến có thể
được xem là một chỉ dẫn đáng tin cậy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

cứu xung lượng tiếp tục được giãn ra, cho đến khi xu hướng cơ bản trở lại. Cuối
cùng, phân tích Ichimoku là một hệ thống chỉ dẫn xu hướng được sử dụng chủ yếu
ở Nhật Bản thể hiện các xu hướng và các đường đảo ngược chính.


<b>Các lọai tiền tệ ít có tính thanh khoản</b>


Sau khi xem xét hai cặp tiền tệ được giao dịch nhiều nhất, hãy xét đến hai cặp tiền
tiền tệ chính có tính thanh khoản thấp nhất USD/CHF và GBP/USD, đặt ra nhiều
thử thách đặc biệt cho những nhà giao dịch thiên về phân tích kỹ thuật. Đồng Franc
hay cịn được gọi là “Swissy” có một vị trí quan trọng của các cặp tiền tệ chính do
vị trí độc đáp của Thụy Sĩ như là một nơi an toàn cho các khoản đầu tư tồn cầu.
Đồng Franc Thụy Sĩ có vai trị lịch sử như là một loại tiền tệ an toàn thay cho đồng
đơ la Mỹ trong thời kỳ địa chính trị bất ổn định, nhưng vai trò này đã giảm đi đáng
kể sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Ngày nay, cặp USD/CHF được giao dịch dựa
trên tâm lý về đồng đô la Mỹ, ngược với các phân tích cơ bản về kinh tế Thụy Sĩ.
Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ (SNB) chủ yếu kiểm soát giá trị đồng franc so với
đồng euro, do phần lớn giao dịch của Thụy Sĩ là với Liên minh châu Âu, những
diễn biến phân tích cơ bản Thụy Sĩ chủ yếu được phản ánh ở tỷ giá chéo của cặp
EUR/CHF.



</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

lỗ và giá giao dịch không theo như thường lệ khoảng 15-20 điểm thông qua mức hỗ
trợ/kháng cự trước khi đảo ngược lại mức dừng lỗ đã được kích hoạt. Trong một
biến động có định hướng, giá cặp USD/CHF có xu hướng đi theo một chiều, với
“backing and filling” tối thiểu nếu so sánh với cặp EUR/USD.


Đồng Bảng Anh “Cable” hay “sterling” (trong cặp GBP/USD), cũng có tính thanh
khoản tương đối thấp và một phần là do giá trị pip cao hơn (Đô la Mỹ) và thương
mại của Anh lấy đồng Euro làm trung tâm. Đồng Bảng Anh có những đặc điểm
giao dịch giống như đồng Thụy Sĩ đã được đề cập trên đây, nhưng đồng Bảng Anh
sẽ phản ứng mạnh mẽ với các thông tin cơ bản của Anh cũng như các tin tức của
Mỹ. Hành vi giá của Đồng Bảng Anh cũng thể hiện xu hướng một chiều trong thời
kỳ xảy ra


<b>Tập trung vào quản lý rủi ro</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

nhân tố tăng tốc, chẳng hạn như đường parabol SAR, phù hợp để tránh các biến
động có định hướng cho đến khi dấu hiệu đảo ngược giá báo hiệu thời điểm ra khỏi
thị trường. Dĩ nhiên, đặt các lệnh mua bán phụ thuộc không hạn chế được các
khoản lỗ của bạn.


Mức biến động cố hữu của đồng bảng Anh và đồng Franc Thụy Sĩ tận dụng các
xung lượng ngắn hạn của các dao động, do các điểm giao nhau sai và đường phân
kỳ giữ giá/xung lượng thường xuất hiện ở các khung thời gian này. Những dao
động dài hạn hơn (nhiều giờ hoặc dài hơn) thường được sử dụng tốt nhất để nhấn
mạnh các điểm đảo ngược tiềm tàng và các hành vi giá phân kỳ, nhưng mức biến
động đã hạn chế thực hiện các giao dịch dựa trên những căn cứ này. Thay vào đó,
các dấu hiệu xung lượng cần phải được xác nhận bằng các chỉ dẫn, như điểm phá
vỡ của các đường xu hướng, các đường truy hồi Fibonacci hoặc đường parabol
trước khi các giao dịch được kích hoạt.



<b>Thử một đường truy hồi rộng hơn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

mức biến động của đồng Bảng Anh và đồng Franc Thụy Sĩ. Cũng như các nghiên
cứu về mua vượt mức/bán vượt mức, hành vi giá cần đảo ngược trước khi các giao
dịch được thực hiện


<b>Không phải một chiến lược là phù hợp tất cả</b>


Những nhà giao dịch tìm kiếm các phương pháp giao dịch kỹ thuật đối với thị
trường tiền tệ nên nhận thức được sự khác biệt về đặc điểm giao dịch của các cặp
tiền tệ chính. Việc đồng euro và bảng Anh đều được giao dịch dựa trên đồng đơla
Mỹ khơng có nghĩa là chúng được giao dịch giống nhau. Một sự thấu hiểu hoàn
toàn về các đặc điểm thị trường của các loại tiền tệ đã cho thấy rằng các công cụ kỹ
thuật nhất định sẽ phù hợp với một vài cặp tiền tệ này hơn các cặp tiền tệ khác. Một
phương pháp cho một loại tiền tệ cụ thể để áp dụng phân tích kỹ thuật sẽ tạo ra các
kết quả thành công hơn chiến lược duy nhất cho tất cả các cặp tiền tệ.


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ Ở VIỆT
NAM QUA TỪNG THỜI KỲ.


I. So sánh giữa chế độ tiền tệ thế giới và chế độ tiền tệ Việt Nam
1. Các chế độ tiền tệ của thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

TT Bản vị Thời kỳ tồn tại Công cụ trao đổi Cơ chế phát hành


1 Bạc Đầu thế kỷ XIX


trở về trước


Tiền đúc Bạc được lưu thông



không hạn chế


2 Song bản vị Thế kỷ XIX Tiền đúc Lưu thơng đồng tiền


có giá trị kém
3 Tiền vàng Cuối thế kỷ


XIX đầu thế kỷ
XX


Tiền đúc Lưu thông không hạn


chế và được lưu
thông rộng rãi


4 Vàng thỏi Đầu thế kỷ XX tiền giấy Vàng không lưu


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

thanh toán.


5 Vàng hối


đoái


Cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ
XX


Tiền giấy Tiền giấy quốc gia



chuyển đổi ra vàng
theo quy định nhưng
ít nhất phải bằng mọt
thỏi vàng .


6 Ngoại tệ Thế kỷ XX Tiền giấy Tiền quốc gia được


xác định bằng đơn vị
tiền tệ của nước
ngồi đó phải các
ngoại tệ mạnh và
được tự do chuyển
đổi trên thị trường
quốc tế.


7 Tiền giấy


không
chuyển đổi
ra vàng (bản
vị hàng hóa
dịch vụ)


Cuối thế kỷ XX
đến nay


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

2.Các chế độ tiền tệ Việt Nam qua các thời kỳ.


<i><b>Bảng tổng kết các chế độ tiền tệ Việt Nam qua các thời kỳ:</b></i>
SST



1 Phong kiến thời
Trần


Tiền kim loại bản
vị bạc


Đồng, trinh, kẽm tiền đúc bằng
đồng hoặc kẽm


Tự do phát hành
chưa có pháp
luật


2 Phong kiến nhà
Hồ (1400-1407)


Tiền giấy pháp
định


Đồng, trinh, kẽm Tiền giấy nhiều
loại khác nhau


Nhà Hồ


3 Thực dân Pháp
(1880-1930)


Bản vị bạc Đồng bạc Đông
Dương



Tiền giấy hoặc
tiền đúc bằng bạc


Chính phủ Pháp


4 Thuộc địa Pháp
(1930-1945)


Bản vị vàng hối
đoái


Đồng bạc Đông
Dương (1 đồng
ĐD=10 France
Pháp= 0,655gram
vàng)


Tiền giấy hoặc
tiền đúc bằng bạc


chính phủ pháp


5 VNDCCH


(1940)


Bản vị hàng hóa
dịch vụ, sức mua



VND


(1 đồng ĐD = 1
đồng giấy)


Tiền giấy hoặc
tiền đúc bằng bạc


VNDCCH


6 Miền Bắc


(1954-1975)


Bản vị hàng hóa
dịch vụ, sức mua


Đồng ngân hàng Tiền giấy ngân
hàng, mệnh giá
1đ, 2đ, 200đ


VNDCCH


7 Miền Nam


(1954-1975)


Bản vị ngoại tệ
(USD)



Đồng tiền Ngụy Giấy bạc ngân
hàng


Chính quyền
Ngụy


8 Miền Nam


(1954-1977)


Bản vị hàng hóa
dịch, sức mua


tiền giải phóng
(500đ quy định =
1đ giải phóng)


Giấy bạc ngân
hàng


chính phủ lâm
thời miền Nam
việt Nam


9 VNDCCH


(1978)


Bản vị hàng hóa
dịch vụ sức mua



Đồng ngân hàng 2
mền (1đ miền Bắc
= 1đ mới, 1đ miền
Nam = 8 hào mới)


Giấy bạc ngân
hàng, mệnh giá
1đ, 5đ, 50đ,…
giấy; 1 hào, 2
hào, … 5 hào kim
loại
Chính phủ
CHXHCNVN
(NHNNVN)
10 CHXHCNVN
(1985-2003)


Tiền giấy, bản vị
hàng hóa dịch vụ,


VNĐ (1đ tiền cũ =
1đ tiền mới)


Giấy bạc ngân
hàng (cotton)


Chính phủ


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

sức mua (NHNNVN)


11 năm 2003 đến


nay phát hành
thêm tiền xu
mệnh giá nhỏ,
tiền polime
mệnh giá lớn


Tiền giấy, bản vị
hàng hóa dịch vụ
sức mua


VND Giấy bạc ngân


hàng ( tiền
cotton, polime,
tiền xu, các
chứng từ có giá)


Chính phủ


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

II. Thực trạng phát triển của tiền tệ.
<i><b>1.</b></i> <b>Chính sách tài chính</b>


Trong chính sách tài chính, chính sách thuế giữ một vị trí đặc biệt quan trọng tác
động đến hoạt động thương mại và sự vận động của các luồng vốn quốc tế, đồng
thời có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh và xuất khẩu của các doanh
nghiệp trong nước - điều kiện cốt tử để cho hội nhập đạt hiệu quả cao nhất đối
với mỗi quốc gia.



Hệ thống thuế quan của Việt Nam bắt đầu được ban hành năm 1988 theo danh
mục hàng hóa của khối Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV) mà không theo
hệ thống danh mục hàng hóa hài hịa (HS) của Hội đồng Hải quan thế giới.
Thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, Việt Nam đã dần từng bước điều chỉnh
lại hệ thống thuế quan cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu được Quốc hội thơng qua ngày 26/1/1991 có những nội dung
thay đổi cơ bản. Luật này không chỉ điều chỉnh tất cả các hoạt động xuất nhập
khẩu: xuất – nhập khẩu mậu dịch chính ngạch; xuất – nhập khẩu mậu dịch tiểu
ngạch; xuất – nhập khẩu phi mậu dịch; hàng hóa của cá nhân xuất – nhập
cảnh… mà biểu thuế xuất – nhập khẩu đã có thay đổi lớn với việc đưa vào hệ
thống danh mục hàng hóa hài hịa (HS) thay cho danh mục hàng hóa theo khối
SEV. Biểu thuế nhập khẩu có khoảng 50 mặt hàng có thuế suất 60% trở lên, cao
nhất là 200%.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

loại nguyên liệu sản xuất, máy móc, thiết bị…) đến mức cao nhất là 60%.
Năm 1999, Việt Nam áp dụng Luật sửa đổi một số điều của Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991. Theo quy định của Luật thuế này, thuế suất,
thuế nhập khẩu của Việt Nam gồm 3 loại: thuế suất thông thường, thuế suất ưu
đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt. Trong đó thuế suất thơng thường áp dụng cho
hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước khơng có thỏa thuận đối xử tối huệ quốc
trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất ưu đãi áp dụng cho hàng hóa
nhập khẩu có xuất xứ từ nước có thỏa thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ
thương mại với Việt Nam. Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng cho hàng hóa nhập
khẩu có xuất xứ từ nước mà Việt Nam và nước đó có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt
về thuế nhập khẩu. Thuế xuất khẩu chỉ đánh vào một số sản phẩm rất quan
trọng, như khoáng sản hay tài nguyên thiên nhiên, khơng có khả năng tái sinh
mà được xuất khẩu ở dạng thô. Các sản phẩm khác không chịu thuế để thực hiện
mục tiêu khuyến khích xuất khẩu.


Để thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan CEPT của AFTA, từ năm 1996, hàng


năm, Việt Nam đã công bố việc giảm thuế quan và đã có 1.661 nhóm mặt hàng
thuộc danh mục được thực hiện ngay, chiếm 51,6% và 1.317 nhóm mặt hàng
thuộc danh mục loại trừ tạm thời, chiếm 40,9% tổng số mặt hàng trong biểu
thuế nhập khẩu lúc đó. Năm 2001 có 712 sản phẩm đã được chuyển từ danh
mục loại trừ tạm thời sang danh mục được thực hiện ngay và cắt giảm các dòng
thuế này thấp hơn 20%. Năm 2003, Việt Nam tiếp tục đưa hơn 700 dòng thuế từ
danh mục loại trừ tạm thời sang danh mục được điều chỉnh và cắt giảm thuế
suất còn dưới 20%.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

CEPT cho các năm 2003-2006. Trong đó có trên 5000 dòng thuế sẽ được giảm
xuống 0%-5% vào các năm 2006.


Những đổi mới và hoàn thiện Luật thuế nói chung, Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu nói riêng ở Việt Nam thời gian qua là hoàn toàn phù hợp với chủ
trương phát triển một nền kinh tế thị trường mở và hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình của các Hiệp định làm cho nguồn thu
Ngân sách nhà nước từ thuế nhập khẩu giảm xuống nhưng lại được bù đắpt bởi
tăng nguồn thu từ nội địa do mở rộng đối tượng nộp thuế và mặt hàng chịu thuế.
Các chính sách ưu đãi về thuế đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài và việc bãi bỏ
thuế thu nhập đối với kiếu hối của người Việt Nam ở nước ngoài đã làm cho
luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và kiều hối tăng cao, tài trợ tích cực cho
thâm hụt cán cân thanh tốn vãng lai.


<i><b>2. Chính sách tiền tệ.</b></i>


Trong chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá có vai trị lớn, tác động trực tiếp đến
cán cân thanh toán quốc tế và tiềm lực tài chính trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Về chính sách tỷ giá, có thể xem xét sự ảnh hưởng của chính sách này đến mục
tiêu cân bằng kinh tế đối ngoại của Việt Nam qua các giai đoạn.



</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

thâm hụt cán cân thương mại và cán cân thanh toán qua các năm. Sự điều chỉnh
hợp lý tỷ giá hối đoái danh nghĩa phối hợp với việc thắt chặt cung tiền, cắt giảm
chi tiêu Chính phủ, hạn chế tín dụng, tăng lãi suất… và những chính sách kinh
tế khác đã chặn đứng được lạm phát, đưa nền kinh tế Việt Nam ra khỏi suy thoái
và bước vào thời kỳ phát triển.


Từ năm 1992 đến năm 1997, chính sách tỷ giá hối đối được điều chỉnh để
chống lạm phát và thu hút đầu tư nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu chống lạm
phát, chính sách tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối
đối danh nghĩa. Vì vậy, nếu so sánh chỉ số CPI của Mỹ và CPI của Việt Nam,
các nhà kinh tế tính tốn cho rằng, tỷ giá hối đối thực tế đã bị giảm tới hơn
20%.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

tỷ giá hối đối khơng chỉ tác động đến những vấn đề kinh tế đối ngoạ mà nó cịn
tác động đến các vấn đề kinh tế đối nội thông qua sự tác động của tỷ giá đến thị
trường tiền tệ và thị trường vốn.


Tỷ giá hối đối danh nghĩa ổn định đã có tác dụng tích cực trong việc thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng do ngoại tệ được đánh giá rẻ nên đã khuyến
khích các nhà đầu tư vay ngoại tệ để đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều vốn và
nguyên liệu nhập khẩu – một nguồn lực được coi là khan hiếm ở Việt Nam.
Điều này đã đi ngược với chiến lược phát triển kinh tế dựa trên cơ sở khai thác
có hiệu quả các nguồn lực sẵn có và những lợi thế so sánh của đất nước, đó là
nguồn lực lao động.


Một yếu tố khác càng làm trầm trọng hơn tác động tiêu cực của tỷ giá hối đoái
giai đoạn này là việc phá giá đồng NDT 50% vào năm 1994 của Trung Quốc.
Việc phá giá NDT đã làm cho hàng hóa, dịch vụ của Trung Quốc quá rẻ đã tràn
ngập thị trường Việt Nam qua con đường buôn bán mậu dịch và bn lậu, gây
khó khăn cho sản xuất trong nước và tăng nhập siêu của Việt Nam từ Trung


Quốc.


Từ năm 1997 đến nay, chính sách tỷ giá hối đoái được điều hành nhằm chống
đỡ tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực và khắc phục tình
trạng đánh giá cao VND thời gian trước đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

của Việt Nam, đã làm cho xuất khẩu của Việt Nam giảm sút nhanh chóng.


Phân tích những ngun nhân và bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ
khu vực cho thấy, mặc dù thị trường tài chính – tiền tệ của Việt Nam chưa phát
triển đầu đủ và mở cửa nên khơng bị kéo ngay vào làn sóng của cuộc khủng
hoảng, nhưng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã nhận thấy tính chất nghiêm
trọng của ổn định chế độ tỷ giá danh nghĩa kéo dài – một nguyên nhân quan
trọng tạo ra cuộc khủng hoảng nên đã có những biện pháp xử lý tương đối hợp
lý, ngăn chặn được những cú sốc không cần thiết đối với nền kinh tế. Vì vậy
tháng 10 năm 1997, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ giá
chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ (+) (-) 5% lên
(+) (-)10%. Nới rộng biên độ giao dịch đã làm cho tỷ giá thị trường tăng mạnh.
Mặc dù tỷ giá tăng, nhưng giá cả trên thị trường khơng có những biến động
đáng kể.


Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đây đã có tác động tích cực đối với xuất
khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu trong các năm
1997-1999, cán cân tài khoản vãng lai và cán cân thanh toán cũng giảm dần thâm hụt,
mặc dù đầu tư nước ngoài suy giảm mạnh trong các năm này. Nhưng điều chỉnh
tỷ giá như trên cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế, bởi vì khi VND
giảm giá đã làm tăng thêm gánh nặng nợ nước ngồi của cả chính phủ và các
doanh nghiệp có vốn vay nước ngồi, giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

hoạt, phản ánh đúng với quan hệ cung cấp về ngoại hối, sở thích của người tiêu


dùng, lạm phát, lợi tức của tài sản nội, ngoại tệ… để chống đỡ được các cú sốc
của nền kinh tế.


Vì vậy, từ năm 1999, NHNN chấm dứt cơng bố tỷ giá chính thức, mà chỉ cơng
bố tỷ giá giao dịch bình qn trên thị trường liên ngân hàng, đồng thời biên độ
giao dịch dao động cũng giảm xuống chỉ còn (+) (-) 0,1%. Việc can thiệp của
Nhà nước đối với tỷ giá được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động mua bán
ngoại tệ của NHNN trên thị trường ngoại hối, xố bỏ phương thức quản lý mang
nặng tính chất hành chính chủ quan trước đây. Từ đó cho đến nay, tỷ giá hối
đối đã được hình thành theo cơ chế thị trường, bám sát sự biến động của thị
trường thế giới, phản ánh tương đối sát quan hệ kinh tế quốc tế giữa đồng nội tệ
và ngoại tệ, nên đã cải thiện cơ bản cán cân thương mại và cán cân thanh toán
quốc tế của Việt Nam.


Tóm lại, chính sách tài chính và chính sách tiền tệ với những đổi mới, hoàn
thiện các cơng cụ của nó đã tác động tích cực tới quá trình phát triển kinh tế ở
Việt Nam trong những năm qua. Chính sách tài chính và chính sách tiền tệ đã
duy trì sự ổn định và tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, vượt qua sự ảnh hưởng
tiêu cực của những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực,
tạo cơ sở vững chắc cho Việt Nam mở cửa và hội nhập vào cộng đồng kinh tế
khu vực và thế giới an tồn và hiệu quả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Suy thối kinh tế toàn cầu do khủng hoảng 2008 - 2009 khiến các nước trên thế
giới phải sử dụng chính sách tài chính tích cực và chính sách tiền tệ nới lỏng. Nhờ
đó, kinh tế thế giới đã tăng trưởng 1,1% năm 2009 và đang bước vào giai đoạn
“hậu khủng hoảng”. Tuy nhiên, cho đến nay, các nước vẫn đang đứng trước sự đan
xen nhau giữa thời cơ và thách thức, với sự lựa chọn, đánh đổi giữa mục tiêu ổn
định vĩ mô (trọng tâm là chống lạm phát) và tăng trưởng kinh tế. Đây là bài tốn vĩ
mơ kinh điển, nhưng giai đoạn “hậu khủng hoảng” là điểm uốn chu kỳ, việc tìm cơ
hội bứt phá cho các nền kinh tế, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

Năm 2009 Chính phủ đã nỗ lực điều hành chính sách tiền tệ nhằm ngăn chặn suy
giảm kinh tế và duy trì tăng trưởng trong bối cảnh khủng hoảng tài chính tồn cầu
và suy thối kinh tế thế giới. Chính phủ đã thực hiện nới lỏng tiền tệ bằng cách cắt
giảm lãi suất cơ bản từ 14% xuống 7%, duy trì các mức lãi suất khác ở mức thấp,
hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nới rộng biên độ tỷ giá USD/VND, đặc biệt là gói kích cầu
hỗ trợ lãi suất thơng qua hệ thống ngân hàng, từ đó đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng,
tăng cung tiền cho nền kinh tế. Có thể nói, chính sách tiền tệ đã phát huy hiệu quả
cao nhất trong nhóm các chính sách điều hành vĩ mơ của Chính phủ thời gian qua,
góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng (GDP năm 2009 tăng 5,32%,
cao nhất khu vực Đông Nam Á và là một trong 12 nước có mức tăng GDP cao nhất
thế giới), ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

ngân hàng và tỷ giá giao dịch ngoài thị trường tự do đã thu hẹp đáng kể (từ chênh
lệch khoảng 1.000 VND/1 USD đầu tháng 2-2010 xuống chỉ còn 300 VND/1 USD
trong tháng 3-2010), giúp cân đối lại cung - cầu trên thị trường ngoại hối, làm giảm
áp lực ngoại tệ đối với các ngân hàng và hoạt động đầu cơ trên thị trường tự do,
góp phần giảm bớt được tình trạng nhập siêu (nhập siêu đã giảm trong 4 tháng liên
tiếp kể từ tháng 11-2009).


Tuy nhiên, trên thị trường tiền tệ vẫn đang xuất hiện một số vấn đề bất cập và có
dấu hiệu tiêu cực ảnh hưởng đến việc ổn định vĩ mơ, duy trì tăng trưởng và tác
động tới an ninh kinh tế đất nước, cụ thể là:


- Cùng với tình trạng đơ-la hóa nền kinh tế, ln xuất hiện tình trạng hai giá trên thị
trường ngoại hối (trong ngân hàng và ngoài thị trường tự do), và mỗi khi nền kinh
tế gặp khó khăn thì chênh lệch giá giữa hai thị trường này ở mức rất cao, gây khó
khăn trong điều hành chính sách tiền tệ. Thực tế, người dân Việt Nam đã quen với
việc tìm đến thị trường tự do để giải quyết nhu cầu mua bán ngoại tệ do tính thanh
khoản cao; trong khi đó thanh khoản và việc huy động vốn bằng ngoại tệ của hệ


thống ngân hàng khó khăn hơn, nhất là khi thị trường ngoại hối căng thẳng (các tổ
chức, cá nhân có USD đều găm giữ mà khơng muốn bán cho ngân hàng, cịn khi
mua USD trong hệ thống ngân hàng thì phải mua qua đồng EUR hay đồng tiền
khác, đến khi đổi được USD thì giá đã bị đội lên nhiều so với giá niêm yết). Đây là
thực trạng bất cập đã nhiều lần xuất hiện trong nền kinh tế nước ta. Những biện
pháp đối phó từ trước đến nay chỉ có tính chất ngắn hạn, do vậy nếu khơng có biện
pháp dài hạn để giải quyết vấn đề này thì đây sẽ là yếu tố rất nhạy cảm, ảnh hưởng
bất lợi đến việc điều hành chính sách và tác động tiêu cực đến an ninh tiền tệ, nhất
là khi nền kinh tế có biến động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

huy động vốn trong năm 2009 (tăng 37,7% so với 28,7%) đã gây khó khăn cho việc
cân đối vốn của các tổ chức tín dụng khi bước vào kế hoạch năm 2010;


Những tháng đầu năm 2010, tình trạng khó khăn trong huy động vốn vẫn tiếp tục
diễn ra, nhất là từ nguồn vốn tiết kiệm dân cư (cấu phần quan trọng nhất trong hoạt
động cân đối vốn của ngân hàng) do lãi suất huy động thấp so với mức kỳ vọng lạm
phát và tỷ suất lợi nhuận của nhiều kênh đầu tư khác. Hoạt động cho vay cũng gặp
khó khăn do thiếu vốn và phải huy động với chi phí cao, lãi suất huy động tăng cao
sát với lãi suất cho vay trong khi trần lãi suất cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ
bản; Bên cạnh đó, trong năm 2009, các ngân hàng thương mại sử dụng vốn huy
động để đầu tư và cho vay nhiều trong lĩnh vực chứng khoán, bất động sản nên khi
các thị trường này trầm lắng đã bị đọng vốn lại. Chính việc đầu tư vào các khu vực
này, nên mặc dù tăng trưởng tín dụng năm 2009 tới 37,7% (gấp 7 lần so với mức
tăng GDP, những năm trước chỉ 3 - 4 lần), nhưng nền kinh tế vẫn trong trạng thái
thiếu vốn. Điều này khiến cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chịu thiệt thòi lớn
bởi trong thời kỳ hậu khủng hoảng họ phải được tiếp cận nguồn tín dụng thuận lợi
hơn để có thể thực sự phục hồi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

- Vấn đề cần quan tâm hơn là những khó khăn trên cùng với những bất cập trong
điều hành chính sách lãi suất (vơ hình trung đã hình thành hai mức lãi suất trên thị


trường thời gian qua) đã tạo môi trường cho hoạt động tham nhũng. Những tháng
đầu năm đã xuất hiện tình trạng “chợ đen” trong hoạt động tín dụng ngân hàng; tổ
chức, cá nhân đi vay phải tiến hành thỏa thuận ngầm với ngân hàng về mức lãi suất
trong khi lãi suất của hợp đồng vẫn phải phù hợp quy định của Nhà nước. Sự khó
khăn về việc vay vốn đã dẫn tới một số hiện tượng tiêu cực. Sau khi Ngân hàng
Nhà nước cho phép áp dụng lãi suất thỏa thuận đối với các khoản cho vay trung và
dài hạn, về cơ bản, đã giảm bớt căng thẳng cung - cầu cho thị trường tiền tệ. Tuy
nhiên, những khó khăn về vốn của ngân hàng và doanh nghiệp vẫn là mơi trường
có thể nảy sinh các hoạt động tiêu cực.


- Những diễn biến thực tế trên thị trường tiền tệ thời gian qua cho thấy công cụ lãi
suất cơ bản chưa phát huy hiệu quả cao trong điều hành chính sách tiền tệ: Lãi suất
cơ bản vừa qua không phản ánh được quan hệ cung - cầu trên thị trường vốn, việc
điều hành chính sách tiền tệ qua cơng cụ này cịn mang tính hành chính. Những
tháng đầu năm, thực tế lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại
khơng cịn neo vào lãi suất cơ bản, mà đã biến tướng vượt biên độ quy định, trong
khi Ngân hàng Nhà nước không thể điều chỉnh biên độ quá 150% lãi suất cơ bản
(do quy định của Điều 476 Bộ luật Dân sự). Hơn nữa, việc cho phép áp dụng lãi
suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn càng làm giảm đi vai trò của
lãi suất cơ bản.


- Yếu tố đáng lo ngại nhất trong mục tiêu ổn định vĩ mơ của năm nay chính là lạm
phát, địi hỏi việc điều hành chính sách tiền tệ phải được quan tâm đặc biệt. Lạm
phát đang có nguy cơ tiềm ẩn xuất phát từ những yếu tố như:


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

+ Do cầu kéo: Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm qua vẫn ở mức tương đối
cao nên nhu cầu vẫn được duy trì, mặt khác việc tăng lương tối thiểu cho người lao
động làm việc tại doanh nghiệp từ tháng 1-2010 và tiếp theo là những người hưởng
lương ngân sách cũng tăng từ tháng 5 sẽ là nguồn bổ sung lực cầu tạo sức ép cho
mặt bằng giá chung;



+ Do chi phí đẩy: Sức ép từ việc tăng giá trở lại của các mặt hàng nguyên, nhiên
vật liệu trên thị trường thế giới sẽ kéo theo sự gia tăng chi phí đầu vào của sản xuất.
Bên cạnh đó, tác động của việc điều chỉnh giá một số mặt hàng cơ bản do Nhà
nước quản lý (điện, xăng dầu, than...) theo giá thị trường sẽ có những ảnh hưởng
nhất định làm tăng chỉ số giá tiêu dùng.


- Sức ép giảm giá VND và vị thế thanh toán quốc tế của Việt Nam bị đe dọa khơng
chỉ từ lạm phát, mà cịn từ tình trạng thâm hụt cao của cán cân thương mại Việt
Nam trong những năm qua. Thâm hụt thương mại của Việt Nam gia tăng từ cuối
năm 2007 với mức nhập siêu là 14 tỉ USD, tăng gấp ba so với năm 2006 (4,8 tỉ
USD), đến năm 2008 lên tới 18 tỉ USD và năm 2009 là 12,2 tỉ USD.


<b>II - Một số giải pháp liên quan đến chính sách tiền tệ</b>


- Định hướng ưu tiên của chính sách tiền tệ: Cần tập trung trước hết cho mục tiêu
bảo đảm ổn định vĩ mơ, trong đó chú ý đến nguy cơ lạm phát. Chỉ bắt đầu từ sự ổn
định vĩ mơ mới có thể tăng trưởng bền vững trong trung và dài hạn. Tranh thủ
những thời cơ thuận lợi của giai đoạn “hậu khủng hoảng”, sẵn sàng đáp ứng nhu
cầu của nền kinh tế phục vụ tăng trưởng theo mục tiêu đề ra.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

doanh nghiệp). Tính chất linh hoạt thể hiện: Giữ mục tiêu tăng trưởng tín dụng đề
ra là 25% và linh hoạt thay đổi phù hợp với tình hình, nhưng khơng vượt thêm q
3%; Bên cạnh đó, cần chú ý nắm tình hình sức mua của thị trường để điều chỉnh
hợp lý khi cần (ví dụ nếu sức mua quá cao có thể dẫn đến hiện tượng lạm phát do
cầu kéo thì cần hạn chế việc cho vay tiêu dùng); Liên quan đến nguyên nhân chi
phí đẩy, cần kiểm tra giám sát chặt chẽ và thực hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ về việc hạn chế yếu tố phát sinh lạm phát.


- Làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền trên thị trường tiền tệ để tạo sự đồng thuận


trong tồn xã hội về cơng tác điều hành của Chính phủ, giúp doanh nghiệp dự phịng
phương án sản xuất kinh doanh hợp lý, đồng thời tạo niềm tin vào các cơ quan quản lý
vĩ mơ. Sự thành cơng của chính sách vĩ mơ phụ thuộc rất nhiều bởi niềm tin của các tác
nhân thị trường vào cơ quan quản lý vĩ mô, nếu khơng thì phản ứng chính sách sẽ bị
méo mó và các thế lực thù địch, các đối tượng xấu sẽ lợi dụng để trục lợi, chống phá ta,
ảnh hưởng đến an ninh kinh tế và trật tự an toàn xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức, cá nhân kinh doanh mua bán ngoại tệ, đặc
biệt là các cửa hàng kinh doanh vàng bạc; mở những đợt cao điểm kiểm tra, xử lý
các hoạt động thu đổi ngoại tệ trái phép, và niêm yết, quảng cáo giá hàng hóa, dịch
vụ bằng ngoại tệ sai quy định.


- Xác định đúng thời điểm chín muồi trong cân đối vĩ mơ và theo tín hiệu thị


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

<b>KẾT LUẬN</b>


Vấn đề tiền tệ luôn là tiêu điểm của nhiều mối quan tâm đặc biệt là lịch sử phát
triển của nó, sự ra đời của nó kéo dài theo từng thời kì lịch sử. Ở mỗi thời kỳ khác
nhau thì lại có những biến đổi khác nhau ở khắp các nước trên toàn thế giới và
riêng ở việt nam vấn đề này luôn thu hút được sự quan tâm của những chuyên gia
nghiên cứu về lịch sử phát triển của tiền tệ. Hiểu biết về lịch sử và quá trình phát
triển sẽ giúp định hướng theo chiều tích cực. Nghiên cứu về lịch sử và các chế độ
của tiền tệ giúp cúng em rõ hơn kiến thức của môn học, đó là hành trang cho tương
lai chúng em.


Để hồn thành bài tiểu luận này chúng em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị
Quỳnh Trang giảng viên bộ môn tài chính tiền tệ đã hướng dẫn, giúp đỡ tận tình.
Bài tiểu luận của chúng em do hiểu biết cịn ít, tài liệu cịn hạn chế nên khơng
tránh khỏi những sai sót nên mong sự đóng góp thêm của cô và các bạn.



</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48></div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×