LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay nền kinh tế thị trường rất đa dạng và phong phú. Nó bao gồm tổng
thể các nền kinh tế của mỗi quốc gia có mối tác động qua lại lẫn nhau.Tuy nhiên
chúng đều có một xu hướng chung đó là phát triển và những yếu tố để tạo nên sự
phát triển dó là : vốn, lao động và khoa học công nghệ. Tuỳ từng thời kỳ, từng giai
đoạn phát triển mà vai trò của các yếu tố này có khác nhau song chúng không thể
thiếu trong phát triển kinh tế.
Trong xu thế ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và
được áp dụng rộng rãi vào sản xuất đã đưa thế giới bước sang nền văn minh mới đó
là nền văn minh trí tuệ . Tri thức đã trở thành động lực của thời đại của con
người .Thiếu tri thức, thiếu chất xám thì thiếu năng động.Nước ta đang nằm trong
danh sách các nước chậm phát triển,việc tạo ra chất xám là vô cùng cần thiết để đủ
sức tiếp cận với thế giới hiện đại. Với những đòi hỏi ngày càng cao về con người
cho phát triển kinh tế, em thấy rằng việc phát triển nguồn nhân lực là một yêu cầu
thiết yếu để phát triển nền kinh tế Việt nam hiện nay. Chính vì vậy em đã chọn đề
tài Phát huy nguồn nhân lực của con người tại Việt Nam_ thực tiễn và triển
vọng.
1
I. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CHỦ YẾU CỦA NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM.
1. Xuất phát điểm của nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực Việt Nam với xuất phát điểm thấp, trước yêu cầu lớn của quá
trình phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế tỏ ra bất cập. Từ
nền kinh tế nông nghiệp, phong cách, tư duy con người Việt Nam còn mang nặng
tính chất sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu. Sản xuất và quản lý bằng kinh nghiệm
theo kiểu trực giác, lấy thâm niên công tác, vị thế nghề nghiệp và lòng trung thành
để đánh giá kết quả lao động và phân chia thu nhập. Lao động chưa được đào tạo
và rèn luyện trong môi trường sản xuất công nghiệp nên hiệu suất lao động chưa
được đề cao và đánh giá đúng mức.
Khi tiến bộ khoa học hiện đại được thâm nhập và chuyển giao vào Việt Nam
thì mâu thuẫn giữa trình độ hiện đại của trang thiết bị - kỹ thuật - công nghệ với
trình độ lạc hậu của người sử dụng xuất hiện. Người quản lý, người sử dụng công
nghệ có trình độ thấp hơn so với công nghệ thì không thể tiếp thu, càng không thể
khai thác có hiệu quả công nghệ, nên làm giảm hiệu suất vốn đầu tư.
Hiện nay nguồn nhân lực Việt Nam còn ở trình độ thấp chưa được đào tạo
hiện đại. Số nhân công có trình độ bậc 4 trở lên chỉ bằng 1/3 tổng số công nhân kỹ
thuật, công nhân có trình độ bậc 7 chỉ có 4000 người mà đa phần tuổi đã cao, thiếu
công nhân kỹ thuật, đặc biệt là công nhân bậc cao là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng
đến quá trình thực hiện chuyển giao công nghệ, làm giảm hiệu suất sử dụng công
nghệ.
Hiện nay các nhà công nghệ, công trình sư, kỹ sư thực hành nước ta còn rất
thiếu, nhất là cán bộ ở các ngành công nghệ thông tin, vi điện tử, sinh học, tự động
hoá sản xuất. Số lao động thuộc các ngành kỹ thuật liên quan đến công nghệ chỉ
chiếm 11% tổng cán bộ trong cơ chế kinh tế cũ nên kinh nghiệm, năng lực sáng tạo
2
thực tiễn, khả năng sáng tạo công nghệ yếu.
Đội ngũ nhân lực Việt Nam bộc lộ nhiều bất cập cả về trình độ, số lượng, cơ
cấu tác phong thói quen lao động trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
2 Quy mô nguồn nhân lực.
Theo tổng cục thống kê tổng điều tra dân số năm 1989, năm 1999, năm 2009
Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số quy mô, chất lượng và cơ cấu của dân
số hầu như quy định quy mô, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực. Dân số nước ta
theo điều tra dân số tháng 4-1989 là 64,4 triệu người; tháng 4-1999 là 76, 3 triệu
người; năm 2009 là 85,8 triệu người tức là sau 20 năm dân số tăng khoảng 20 triệu
người. Với dân số đứng thứ 2 Đông Nam á ( sau Indonê xia 204 triệu người ), và
thứ 13 trong số hơn 200 quốc gia trên thế giới và khu vực, đồng thời cũng là nước
có nguồn nhân lực dồi dào thứ 2 khu vực ( sau In dô nê xi a ) . Năm 1999 trong độ
tuổi lao động chiếm gần 59% dân số Việt nam. Lực lượng trong độ tuổi lao động
năm 1999 có 43 triệu người .Theo điều tra 2009, lực lượng trong tuổi lao động là
57 triệu người. Đây là môt tiềm năng quý báu để phát triển kinh tế , xã hội Việt
nam.
Ở Việt Nam mỗi năm khoảng 1,5 triệu người bước vào tuổi lao động .Số
người bước ra khỏi độ tuổi lao động khoảng gần 0,5 triệu người .Vì vậy mỗi năm
người lao dộngViệt nam tăng thêm 1triệu người.
Tốc độ tăng lao động cao hơn so với tốc độ tăng dân số trong thời gian qua.
Thời kỳ 1991-1997 tốc độ tăng lao động là 2,9% trong khi tốc độ tăng dân số là
2,12%.Riêng thời kỳ 96-97 tốc độ tăng lao động là 3,42% trong khi tốc độ tăng dân
số là 1,84%.
Về số lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân tăng nên nhanh chóng.
Năm 95 là 34,994 triệu người ,năm 96 là 35,794 triệu người, năm 97 là 36,994 triệu
3
người ,năm 98 là 38,094 triệu người. Như vậy bình quân mỗi năm người lao động
làm việc trong nền kinh tế tăng nên mỗi năm khoảng trên 1,2 triệu người.
Với lực lượng người bước vào tuổi lao động đạt mức cao như hiện nay, cùng
với hàng chục vạn dôi dư từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, hai thập kỷ đầu
tiên của thế kỷ 21sẽ tạo ra áp lực rất lớn về việc làm và nguồn vốn đang câưng
thẳng với tỉ lệ thất nghiệp ở mức cao (năm 2000 có 6,4% dân số thành thị ở độ tuổi
lao động thất nghiệp, ở nông thôn bình quân người nông dân chỉ sử dụng 4% thời
gian lao động,ở vùng miền núi phía bắc và Bắc trung bộ tỉ lệ này chỉ là 66%). Một
số lao động thất nghiệp rơi vào nhóm lao động trẻ được đào tạo gây ra nhiều hậu
quả cả về kinh tế và xã hội.
3 Chất lượng nguồn nhân lực
a. Trình độ văn hoá xã hội của nguồn nhân lực
Trình độ văn hoá xã hội của nguồn nhân lực Việt Nam ngày càng được nâng
cao. Năm 97 điều tra 36,3 triệu người lao động thấy 5% số lao động chưa biết chữ
2% chưa tốt nghiệp cấp I, 28% đã tốt nghiệp cấp 1, 32% đã tốt nghiệp cấp 2, 15%
đã tốt nghiệp cấp 3.
Giờ đây số người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp 1 ngày càng giảm.
Năm 96 tỉ lệ này là 26,6% và năm 99 là 22,10%. Đồng thời, số người đã tốt nghiệp
cấp 2 và cấp 3 không ngừng tăng lên, trong đó tăng nhanh nhất là số người tốt
nghiệp cấp 3. năm 96 số người tốt nghiệp cấp 3 chiếm 13,48% tổng số, đến năm
1999 chiếm 19,07%. Lớp học bình quân cao nhất, qua đIều tra 37,78 triệu lao động
năm 1999 là lớp 7,4/12, cao hơn nhiều so với lớp học bình quân là 3,3/12 của năm
97. Đến nay số người từ 10 tuổi trở lên đã hoặc đang đI học chiễm 92% so với kết
quả tổng đIều tra dân số 1989. Số người đi học tăng mạnh ở tất cả các nhóm tuổi.
Tương tự số người từ 10 tuổi trở lên chưa bao giờ đi học cũng giảm đáng kể: thành
4
thị giảm 35%, nông thôn giảm 38% số người từ 10 tuổi trở lên đã học xong trung
học cơ sở (cấp 2) đạt 61% tính đến thời điểm điều tra cả nước có 18.233278 học
sinh đang theo học phổ thông giảm dần qua mỗi lớp, cấp học, từ 13,4% học lớp 1
đến khi học lớp 12 chỉ còn khoảng 4%. Nghiên cứu tỉ lệ học sinh đã thôi học phổ
thông cho thấy, phần lớn học sinh phổ thông bỏ học sau khi học xong trung học cơ
sở (cấp 2).
Như vậy tình hình giáo dục của nước ta đã được cải thiện rõ nét qua từng giai
đoạn và là điều kiện để nâng cao trình độ văn hoá cho nguồn nhân lực ở giai đoạn
sau.
b) Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực
Trình độ và chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực Việt Nam trong thời
gian qua đã tăng lên đáng kể. Lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp/học nghề trở lên
tăng cả về số lượng và tỉ lệ chiếm trong tổng lực lượng lao động. Năm 96 tỉ lệ này
là 14,81% đến năm 2000 tăng lên 13,31%. Bình quân hàng năm tăng thêm 472,083
người với tốc độ tăng 9,92%/năm, trong đó tăng nhiều nhất và nhanh nhất là lao
động được đào tạo ở trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên (174.343 người với tốc độ
tăng 16,86%/năm) tiếp đến là lao động đào tạo nghề, công nhân kỹ thuật (131905
người với tốc độ tăng là 8,64%).
Tuy nhiên, so với yêu cầu, đội ngũ đã qua đào tạo nói chung của lực lượng lao
động hiện nay vẫn còn nhiều bất cập trong đó đáng chú ý là:
Sự phân bố lực lượng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp/học nghề trở lên cũng
như từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị,
đặc biệt là các khu đô thị trọng điểm, lực lượng lao động ở nông thôn chiếm
77,44% nhưng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp/học nghề trở lên chỉ chiếm
46,26% trong tổng số lao động đã qua đào tạo của cả nước với lao động có trình độ
5
từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên tỉ lệ này chỉ có 40,96%. Cấu trúc lao động
đào tạo của lực lượng lao động đã qua đào tạo vốn đã rất bất hợp lý lại càng bất
hợp lý hơn. Năm 1996 cấu trúc đào tạo là 1-1,7-2,4 (tức ứng lao động có trình độ
cao đẳng, đại học trở lên thì có 1,7 lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và
2,4 lao động có trình độ sơ cấp/học nghề/ công nhân kỹ thuật). Năm 2000 cấu trúc
này là 1-1,2-1,7 trong khi đó cấu trúc của một số nước phát triển là 1-4-10. Đây là
vấn đề mà trong khi kế hoạch phát triển nguồn nhân lực thời kỳ tới chúng ta cần
phải điều chỉnh để phù hợp với nhu cầu và mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội.
4 Cơ cấu nguồn nhân lực
a. Cơ cấu lực lượng lao động có việc làm thường xuyên theo trình độ học
vấn và chuyên môn kỹ thuật.
Nhìn chung trình độ học vấn của lực lượng lao động thường xuyên ngày càng
được nâng cao biểu hiện rõ rệt là tỉ lệ số người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp
cấp I không ngừng giảm. Năm…Tỉ lệ người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp
Số người tốt nghiệp cấp 2 và cấp 3 cũng không ngừng tăng lên trong đó tăng nhanh
nhất là số người tốt nghiệp cấp 3.
Năm…Số người tốt nghiệp cấp 3 (%)Về chuyên môn kỹ thuật, tính đến năm
2000 cả nước có 3992,4 nghìn người thuộc lực lượng lao động thường xuyên có
trình độ chuyên môn kỹ thuật (gồm sơ cấp học nghề, công nhân kỹ thuật có bằng và
không có bằng, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ) chiếm
15,51% năm 1996 tỉ lệ này là 12,31%. Trong đó trình độ từ công nhân kỹ thuật có
bằng trở lên chiếm 11,7% so với tổng số lực lượng lao động nói chung, năm 96 tỉ lệ
này là 8,41%. Năm 2000 so với 1996 ở cả 2 khu vực thành thị, nông thôn số lượng
và tỉ lệ lao động có trình độ từ sơ cấp/học nghề trở lên đều tăng, nhưng tốc độ tăng
của khu vực thành thị lớn hơn tốc độ tăng của khu vực nông thôn và tỉ lệ lao động
6
có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở nông thôn vốn đã thấp lại càng thấp so với khu
vực thành thị.
b) Cơ cấu lực lượng lao động có việc làm thường xuyên theo nhóm ngành
kinh tế
Năm 2000, cả nước có 22.260,8 nghìn người làm việc trong nhóm ngành
nông, lâm, ngư nghiệp, chiếm 62,56% so với tổng số. Năm 96 các chỉ tiêu này là
24.366,7 nghìn người và 69,80%. Bình quân hàng năm giai đoạn 96-2000 só lao
động làm việc thường xuyên trong nhóm ngành nông nghiệp giảm 1,02% so với qui
mô giảm là 237,8 nghìn người.
Năm 2000, cả nước có 4761,4 nghìn người làm việc trong nhóm ngành công
nghiệp và xây dựng, chiếm 13,15% so với tổng số. Năm 1996 các chỉ tiêu này là
3682,1 nghìn người với 11,93%. Bình quân hàng năm giai đoạn này số lao động
thường xuyên trong nhóm ngành công nghiệp và xây dựng tăng thêm 7,49% với
quy mô tăng là 298,7 nghìn người. Lao động làm việc trong nhóm ngành dịch vụ
năm 2000. Cả nước có 8794,8 nghìn người chiếm 24,29% so với tổng số. Năm
1996 các chỉ số này là 6888,8 nghìn người. Và 19,65%. Bình quân hàng năm giai
đoạn 1986-2000, số lao động làm việc thường xuyên trong nhóm ngành dịch vụ
tăng thêm 7,26% với quy mô tăng là 87,537,8 nghìn người.
II.NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT HUY NGUỒN NHÂN
LỰC Ở VIỆT NAM
+ Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục - đào tạo
Đầu tư cho giáo dục - đào tạo lấy từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi
phát triển trong ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước giữa vai trò chủ yếu trong
tổng nguồn lực cho giáo dục - đào tạo và phải được sử dụng tập trung, ưu tiên cho
việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đào tạo cán bộ cho một số ngành trọng điểm, bồi
7
dưỡng nhân tài, trợ giúp cho giáo dục ở những vùng khó khăn và diện chính sách.
Tăng dần tỉ trọng chi ngân sách (NS) cho giáo dục đào tạo để đạt được 15% tổng
chi NS vào năm 2000.
Tích cực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách như học phí, nghiên cứu
ban hành chính sách đóng góp phí đào tạo từ phía các cơ sở sử dụng lao động, huy
động một phần lao động công ích để xây dựng trường sở. Khuyến khích các đoàn
thể, các tổ chức kinh tế - xã hội xây dựng quỹ khuyến học. Lập quỹ giáo dục quốc
gia, phát hành xổ số kiến thiết để xây dựng trường học.
Cho phép các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và
các viện nghiên cứu, lập các cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học đúng với ngành
nghề đào tạo.
Xây dựng và công bố công khai quy định về học phí và các khoản đóng góp
theo nguyên tắc không thu bình quân, miễn giảm cho người nghèo và người thuộc
diện chính sách. Căn cứ vào nhu cầu phát triển giáo dục, tình hình kinh tế và các
khoản đóng góp của tầng lớp địa phương, hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW quy định mức học phí cụ thể trong khung học
phí do chính phủ quy định cho từng khu vực và các khoản đóng góp ổn định khác.
Không thu học phí ở các bậc tiểu học và trường công lập.
Các chính sách ưu tiên ưu đãi đối với việc xuất bản sách giáo khoa, tài liệu
dạy học, sản xuất và cung ứng máy móc, đồ dùng dạy học, nhập khẩu sách, báo, tài
liệu, thiết bị dạy học mà trong nước chưa sản xuất được để phục vụ cho việc giảng
dạy, học tập và nghiên cứu khoa học trong nhà trường.
Các ngân hàng lập quỹ tín dụng đào tạo cho con em các gia đình có thu nhập
thấp, trước hết ở nông thôn và các vùng khó khăn, cho vay với lãi suất ưu đãi để có
điều kiện học tập tại các trường đại học, cao đẳng trung học chuyên nghiệp và dạy
8
nghề.
Nhà nước quy định cơ chế cho các doanh nghiệp đầu tư vào công tác đào tạo
và đào tạo lại. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các cá nhân, các tổ chức
trong và ngoài nước giúp đỡ để phát triển giáo dục và đào tạo tại Việt Nam. Phần
tài trợ cho giáo dục - đào tạo dưới mọi hình thức sẽ được khấu trừ trước khi tính
thuế lợi tức, thuế thu nhập.
Dành NS nhà nước thoả đáng để cử những người giỏi và có phẩm chất tốt đi
đào tạo và bồi dưỡng vì những ngành nghề và lĩnh vực then chốt ở những nước có
nền khoa học công nghệ phát triển.
Khuyến khích đi học nước ngoài bằng con đường tự túc, hướng vào những
ngành mà đất nước đang cần, theo quy định của nhà nước.
Khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài có
khả năng về nước tham gia giảng dạy và đào tạo, mở trường học hoặc hợp tác với
các cơ sở đào tạo trong nước, các tổ chức và cá nhân nước ngoài có thể vào Việt
Nam mở các trung tâm đào tạo quốc tế, tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học,
trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ tài chính theo quy định của nhà nước.
Sử dụng một phần vốn vay và viện trợ nước ngoài để xây dựng cơ sở vật chất
cho giáo dục - đào tạo. Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, các tổ chức xã hội,
các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ tích cực góp sức phát triển giáo dục - đào
tạo. Kết hợp giáo dục xã hội, giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường, xây dựng
môi trường giáo dục lành mạnh. Hệ thống phát thanh truyền hình dành thời lượng
thích đáng phát các chương trình giáo dục - đào tạo. Các ngành văn hoá, nghệ
thuật, thông tấn, báo chí có trách hiệm cung cấp những sản phẩm tinh thần có nội
dung tốt cho việc giáo dục thế hệ trẻ. Không để các văn hoá tư tưởng độc hại, các tệ
nạn xã hội xâm nhập vào trường học. Định kỳ tổ chức hội nghị giáo dục các cấp để
9
kiểm điểm, rút kinh nghiệm, bàn biện pháp giáo dục - đào tạo. Khen thưởng cá
nhân và đơn vị có thành tích tốt.
Tiếp tục phát triển các trường dân lập ở tất cả các bậc học. Từng bước phát
triển vững chắc các trường lớp tư thục ở giáo dục mầm non, phổ thông trung học,
trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và đại học. Nhà nước hỗ trợ, hướng dẫn và
quản lý thống nhất chương trình, nội dung chất lượng giảng dạy và học tập ở các
trường dân lập, tư thục. Hiệu trưởng và giáo viên ở các trường này đều do nhà nước
đào tạo, cấp bằng. Ở các trường dân lập, tư thục lập các tổ chức đảng và đoàn thể
như trường công lập. Khung học phí ở các trường dân lập và tư thục do nhà nước
quy định.
Xây dựng đội ngũ giáo viên tạo động lực cho người dạy, người học.
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục - đào tạo và được xã
hội tôn vinh. Giáo viên phải có đủ đức tài. Do đó cần phải.
Củng cố và tập trung đầu tư nâng cấp các trường sư phạm xây dựng một số
trường đại học sư phạm trọng điểm để vừa đào tạo giáo viên có chất lượng cao vừa
nghiên cứu khoa học giáo dục đạt trình độ tiên tiên.
Không thu học phí và thực hiện chế độ học bổng ưu đãi đối với học sinh, sinh
viên ngành sư phạm. Có chính sách thu hút học sinh tốt, khá, giỏi vào ngành sư
phạm. Tăng chỉ tiêu đào tạo của các ngành sư phạm, đồng thời giao nhiệm vụ đào
tạo giáo viên một số môn học phù hợp cho các trường đại học và cao đẳng khác.
Đào tạo giáo viên gắn với địa chỉ và chính sách sử dụng hợp lý để khắc phục
nhanh chóng tình trạng thiếu giáo viên hiện nay.
Thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng chuẩn hoá, nâng
cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ giáo viên để đến năm 2005 có ít nhất 50%
giáo viên phổ thông và 30% giáo viên đại học đạt tiêu chuẩn quy định. Ở đại học
10
cần có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng trong và ngoài nước các cán bộ phụ trách các bộ
môn khoa học và giảng viên trẻ kế cận, để khắc phục tình trạng hẫng hụt cán bộ.
Không bố trí người kém phẩm chất, đạo đức làm giáo viên, kể cả giáo viên hợp
đồng.
Lượng giáo viên được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lượng hành
chính sự nghiệp và có thêm chế độ phụ cấp tuỳ theo tính chất công việc, theo vùng
do chính phủ quy định. Có chế độ ưu đãi và quy định hợp lý tuổi nghỉ hưu đối với
giáo viên cũng như các trí thức khác có trình độ cao.
Có chính sách sử dụng và đãi ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực được đào tạo,
trọng dụng người tài. Khuyến khích mọi người, nhất là thanh niên say mê học tập
và tự tu dưỡng vì tiền đồ bản thân và tương lai đất nước.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo tăng cường cơ sở
vật chất các trường học.
Rà soát lại đổi mới sách giáo khoa, loại bỏ những nội dung không thiết thực,
bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản, cập nhật
với tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ, tăng cường nội dung khoa học, công
nghệ ứng dụng tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và năng lực thực hành ở bậc
phổ thông, kỹ năng hành nghề ở khối đào tạo. Trên cơ sở một bước đổi mới và cải
tiến ấy, bảo đảm sự ổn định tương đối về nội dung, chương trình sách giáo khoa ở
các cấp học cho đến năm 2000.
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ
một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng
các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy- học, bảo đảm
thời gian tự học, tự nghiên cứu phát triển mạnh phong trào tự học từ đào tạo thường
xuyên và rộng khắp trong toàn dân nhất là thanh niên.
11
Chấm dứt tình trạng 3 ca. Bảo đảm diện tích đất đai và sân chơi bãi tập cho
các trường theo đúng quy định của nhà nước. Tất cả các trường phải có công trình
vệ sinh hợp quy cách. Trong quy hoạch khu dân cư mới, khu công nghiệp tập trung
phải có địa điểm trường học. Tất cả các trường phổ thông đều phải có tủ sách, thư
viện và các trang bị tối thiểu để thực hiện các thí nghiệm trong chương trình.
Thay thế bổ sung cơ sở vật chất thiết bị cho các trường dạy nghề, trung học
chuyên nghiệp và đại học. Xây dựng thêm và quản lý tốt các ký túc xá của học sinh
sinh viên. Xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm và trạm sản xuất thử ở
trình độ hiện đại phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ, tham gia sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Bổ sung thường xuyên sách và
tạp chí chuyên ngành để các trường đại học có điều kiện tiếp cận với những thành
tựu mới của khoa học và công nghệ.
12
III. GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM PHÁT HUY
NGUỒN NHÂN LỰC GIAI
ĐOẠN Ở VIỆT NAM
Do dân số nước ta tăng nhanh nên tổng nguồn lao động khá dồi dào. Hiện nay
lực lượng nước ta là 38.643 triệu người trong tổng số lao động số người làm việc
trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 62,56% trong công nghiệp, xây dựng
chiếm 13,15% và khu vực dịch vụ là 24,29%. Nhờ có những giải pháp tích cực của
nhà nước, của cộng đồng và sự nỗ lực của cá nhân, trong 5 năm qua, bình quân
hàng năm chúng ta giải quyết được cho trên 1,1 triệu lao động có việc làm. Riêng
các năm 1995, 1996 mỗi năm giải quyết được việc làm cho trên 1,2 triệu lao động.
Chỉ tính riêng thông qua việc cho vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm,
hàng năm đã cho vay và thu hút được khá nhiều lao động. Năm 1996 đã cho vay
gần 16 ngàn dự án, thu hút trên 300 ngàn lao động. Song song với tạo việc làm
trong nước. Đã củng cố thị trường lao động truyền thống (Séc, Nga…) và mở mang
thêm các thị trường lao động ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung đông v.v.. để đưa lao
động đi làm việc có thời hạn ở các nước này. Bằng các giải pháp tích cực này
chúng ta đã từng bước hạ được tỷ lệ thất nghiệp ở các vùng thành thị và tăng được
tỷ lệ thời gian làm việc ở các vùng nông thôn. Theo số liệu thống kê mới đay cho
thấy tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 6,34% (tỷ lệ thất nghiệp đối với lao động trong
độ tuổi là 6,42%) tuy nhiên theo đánh giá của Liên hợp quốc thì tỷ lệ thất nghiệp
của Việt Nam phải vào khoảng 9%. Có một thực tế là ở nhiều doanh nghiệp (nhất là
doanh nghiệp quốc doanh), hiệu quả sản xuất không cao nhưng để duy trì sự tồn tại
nên vẫn phải chia việc cho mọi người làm. Do vậy mà có những công việc đáng ra
chỉ ít người làm thì phải chia cho nhiều người làm. Thực chất đây là hiện tượng thất
nghiệp "trá hình". Tuy nhiên, trong thời gian qua những người được giải quyết việc
làm lại chủ yếu là lao động phổ thông, đơn giản. Trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, những lao động phổ thông này sẽ rất khó cạnh tranh trên thị
13
trường sức lao động và họ sẽ là "nguồn" tiềm năng của thất nghiệp cơ cấu. Mặt
khác, chất lượng lao động của ta còn quá thấp nên việc thu hút lao động vào các
ngành nghề, vào các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ cao còn rất hạn chế. Chất lượng
lao động chưa cao, dẫn đến nghịch lý là nguồn lao động tuy dồi dào, nhưng lại
thiếu nhân lực có kỹ thuật, có tay nghề.
IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT
NAM.
1. Những thành tựu đạt được trong quá trình phát triển nguồn nhân lực
a) Tốc độ tăng dân số giảm
Kết quả lớn nhất, có ý nghĩa nhất, có tác động mạnh mẽ nhất đến sự phát triển
của đất nước mà công tác dân số kế hoạch hoá gia đình đã đạt được là: nhận thức
của nhân dân về DS-KHHGĐ đã chuyển hướng rõ rệt theo hướng chấp nhận gia
đình có quy mô nhỏ và thực hiện KHHGĐ, tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi
sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai tăng nhanh, tỷ lệ sinh và tỷ lệ phát triển
dân số giảm rõ rệt. Theo các số liệu của Tổng cục thống kê, so sánh giữa 2 thời
điểm năm 1996 và năm 2000 thì tỉ lệ phụ nữ hiểu biết về các biện pháp tránh thai
hiện đại (ngoài vòng tránh thai) đã tăng từ 82,4% lên 95,2%. Tỷ lệ các cặp vợ
chồng trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng các biện pháp tránh thai tăng từ 68,3% lên
81,4%, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm xuống còn 1,88%. Nhờ vậy, số dân tăng
thêm hàng năm đã giảm xuống rõ rệt.
Những kết quả trong công tác DS-KHHGĐ đạt được trong thời gian qua,
không những góp phần đáng kể vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội chung của
đất nước mà còn tạo ra triển vọng đẩy nhanh công tác này và có khả năng đạt mức
sinh thay thế (bình quân mỗi gia đình có 2 con) vào năm 2005. Quy mô dân số Việt
Nam sẽ ổn định ở mức 120-125 triệu người, đồng thời cho phép từng bước mở rộng
sang các hoạt động giải quyết vấn đề phân bổ dân cư, cấu trúc dân số và chất lượng
14
dân số cũng như phát triển nguồn nhân lực của các chiến lược phát triển nguồn
nhân lực đề ra.
Những thành tựu đạt được trong công tác DS-KHHGĐ thời gian vừa qua là
kết quả của quá trình tìm tòi đổi mới và thực hiện tốt các nhiệm vụ mục tiêu mà kế
hoạch đã đề ra, ở từng giai đoạn, từng thời kỳ. Đó là huy động sự tham gia rộng rãi,
tích cực của các ngành, đoàn thể và cộng đồng, tạo phong trào thực hiện KHHGĐ
sâu rộng, xây dựng các tổ chức bộ máy từ trung ương đến địa phương chuyên trách
làm công tác DS-KHHGĐ. Đã huy động, phát huy có hiệu quả sự tham gia của các
ngành, các đoàn thể và của cả cộng đồng vào các chương trình DS-KHHGĐ.
b) Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật tiếp tục được nâng cao
Chất lượng của nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao, biểu hiện đó là:
trình độ văn hoá của nguồn nhân lực Việt Nam.
Lực lượng lao động chia theo trình độ học vấn (%)
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động đã được nâng cao, số người
được đào tạo, bồi dưỡng ngày càng nhiều qua các năm. Năm 2000 tỉ lệ lao động đã
qua đào tạo tăng 1,71% so với năm 1999.
Nhiều nhà đầu tư nước ngoài cho rằng lao động Việt Nam cần cù, chịu khó,
khéo léo, thông minh, tiếp thu nhanh khoa học - kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
Việc phân bố lực lượng lao động vào các thành phần kinh tế trong thời gian
qua đã có sự điều chỉnh rõ rệt. Khu vực nhà nước lao động đã giảm liên tục từ 15%
năm 89 xuống 10% năm 1999. Lao động ở khu vực tập thể cũng giảm mạnh từ
30% năm 89 xuống còn 27% năm 99. Lao động ở khu vực kinh tế cá thể năm 99
chiếm 63% và lao động ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 2%.
Chỉ số phát triển nhân lực đã từ vị trí 120/174 năm 95 lên vị trí thứ 110/174
nước trên thế giới năm 1999. Trong thời gian qua đã mở rộng được các hình thức
15
đào tạo, đa dạng hoá, xây dựng mới và mở rộng quy mô các trường đào tạo nghề
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, công nhân kỹ thuật.
Những thành tựu đạt được trên đây của việc thực hiện thành công kế hoạch
phát triển nguồn nhân lực là điều kiện thuận lợi để xây dựng các kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới cũng như để thực hiện nhiệm vụ của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội.
2. Những hạn chế trong quá trình phát triển nguồn nhân lực
a) Cơ cấu nguồn nhân lực theo ngành nghề nhiều năm qua chuyển dịch
chậm
Gần 70% lực lượng có việc làm trong cả nước vẫn tập trung trong các ngành
nông lâm, ngư nghiệp, chủ yếu là trồng trọt. Các ngành công nghiệp - xây dựng tỉ
trọng lao động đã được nâng lên song còn rất chậm, đến nay mới đạt được trên
10%, ngành dịch vụ có tăng nhưng cũng chỉ chiếm trên 20%. Riêng ở nông thôn, tỉ
lệ lao động thuần nông năm 98 vẫn chiếm trên 80%, lao động làm dịch vụ chiếm
trên 10%, còn lại là lao động công nghiệp chỉ chiếm dưới 10%.
Với cơ cấu trên cho thấy quá nhiều lao động tập trung trong nông nghiệpngành có năng suất lao động thấp nhất trong xã hội. Điều đó sẽ ảnh hưởng tới quy
mô tốc độ tăng trưởng GDP, và việc nâng cao thu nhập, đời sống của nhân dân ta,
trước hết là của nông dân ở nông thôn. Từ đó cũng ảnh hưởng đến sức mua của dân
cư, ảnh hưởng đến chủ trương của Đảng và Nhà nước về "kích cầu" nhằm phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Cùng với việc chuyển dịch lao động theo ngành kinh tế chậm, việc phân bổ
nguồn nhân lực giữa các vùng, tiểu vùng vẫn còn nhiều điều phải quan tâm. Mặc dù
việc di chuyển dân cư và lao động có khá hơn trong mấy năm gần đây. Song nhìn
chung vẫn còn tự phát và thiếu hiệu quả. Điều này thể hiện ở hiện tượng di dân tự
16
do, người đi xây dựng vùng kinh tế mới quay vê quê cũ.
b) Tỷ lệ lao động được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật còn thấp trong tổng
số lực lượng lao động
Năm 1997 tỉ lệ lao động qua đào tạo chiếm 12,2% trong lực lượng lao động.
Năm 1998, tỉ lệ lao động qua đào tạo đã nâng lên 13,3% trong số lực lượng lao
động đã qua đào tạo theo điều tra năm 97 tỉ lệ công nhân kĩ thuật và người có trình
độ sơ cấp chỉ chiếm 5,9%, người có trình độ sau đại học chiếm 0,04%. Theo kết
quả tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/1999, trong tổng số lao động có bằng
cấp, công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ chiếm 30,3%; lao động có trình độ
trung học chuyên nghiệp chiếm 36,8%; lao động có trình độ cao đẳng và đại học
chiếm 31,6%; người có trình độ trên đại học chiếm 1,3%.
Tỉ lệ trên cho thấy cơ cấu lao động kỹ thuật ở nước ta năm 1999 cứ 1 lao động
có trình độ cao đẳng và đại học có 0,95 công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ,
có 1,16 lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp, rõ ràng đây là hiện tượng
"thầy nhiều hơn thợ" trong lực lượng lao động, tỉ lệ lao động kỹ thuật đã thấp lại
phân bổ không đều giữa các vùng, các ngành và các thành phần kinh tế. Rất nhiều
lao động kỹ thuật tập trung ở đô thị, các thành phố, các cơ quan của trung ương.
Các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, các vùng nông thôn, hải đảo, vùng sâu, vùng xa,
các thành phần kinh tế tập thể, tư nhân, cá thể còn thiếu nhiều lao động kỹ thuật.
Các trường đại học tăng nhanh, trong khi các trường đào tạo công nhân kỹ thuật lại
tăng ít hơn. Các chương trình giảng dạy chưa phù hợp chỉ chú trọng vào phần lý
thuyết mà không có thực tế. Cơ sở vật chất kỹ thuật, dụng cụ máy móc thiết bị thực
hành không những thiếu thốn mà còn lạc hậu.
Quy mô đào tạo nhỏ bé, tốc độ phát triển chậm, mất cân đối giữa các bậc học.
Quan niệm của xã hội vẫn còn coi trọng bằng cấp học vị mà chưa quan tâm đúng
mức đến vai trò, vị trí và giá trị nghề nghiệp. Đây là yếu tố tâm lý mà chúng ta phải
17
phấn đấu vượt qua.
Việc phân luồng học sinh sau bậc trung học cơ sở dành cho sự nghiệp dạy
nghề còn quá thấp.
Những mặt hạn chế này đã làm cho quá trình phát triển nguồn nhân lực gặp
nhiều khó khăn và làm ảnh hưởng tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nó đã
dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cần phải khắc phục trong kế hoạch phát triển
nguồn nhân lực cũng như kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vào giai đoạn tiếp
theo.
3. Những nguyên nhân dẫn đến mặt hạn chế
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã xuất hiện nhiều vấn đề làm cho việc
thực hiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực gặp nhiều hạn chế đó là:
Công tác quản lý giáo dục - đào tạo có những yếu kém bất cập. Mấy năm gần
đây, có nhiều chủ trương đổi mới về giáo dục, nhưng một số chủ trương chưa được
nghiên cứu, chuẩn bị chu đáo trước khi áp dụng tổ chức thực hiện lại có nhiều thiếu
sót. Mở rộng quy mô giáo dục, đào tạo và phát triển nhiều loại hình giáo dục đào
tạo nhưng có nhiều thiếu sót trong quản lý chương trình, nội dung và chất lượng.
Công tác thanh tra giáo dục còn quá yếu, thiếu những biện pháp hữu hiệu để kiểm
tra, đánh giá chất lượng đào tạo, đặc biệt là đối với các hình thức trường mở, bán
công, dân lập, tư thục và không tập trung. Chậm phát hiện và thiều nghiêm túc
trong việc xử lý và khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong ngành giáo dục- đào tạo.
Cơ chế quản lý của ngành giáo dục - đào tạo chưa hợp lý, chưa thực hiện tốt sự
quản lý thống nhất, giữ vững kỷ cương trong công tác giáo dục, đồng thời chưa
phát huy quyền chủ động và trách nhiệm của địa phương và nhà trường. Nội dung
giáo dục - đào tạo vừa thừa, vừa thiếu, nhiều phần chưa gắn với cuộc sống. Công
tác giáo dục hướng nghiệp ở bậc phổ thông chưa được chú ý đúng mức. Phương
18
pháp giáo dục đào tạo chậm đổi mới, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo
của người học. Giáo dục đào tạo chưa kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất, nhà
trường chưa gắn với gia đình và xã hội. Chính phủ và các cơ quan nhà nước chưa
có những quyết định đủ mạnh về chính sách, cơ chế và biện pháp tổ chức thực hiện,
để thể hiện đầy đủ quan điểm coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Tỉ lệ
ngân sách đầu tư cho giáo dục còn thấp, cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học của
các trường nhìn chung chậm được cải thiện. Các ban ngành quản lý lãnh đạo chưa
thường xuyên chỉ đạo và kiểm tra sâu sát việc thực hiện những mục tiêu, phương
hướng, chủ trương về giáo dục đào tạo. Chưa có chiến lược phát triển giáo dục đào tạo phù hợp với yêu cầu của hình thức mới.
Những hạn chế của kế hoạch phát triển nguồn nhân lực một phần còn do việc
sử dụng lao động không đúng với trình độ chuyên môn lao động được đào tạo do
chi phí sử dụng lao động quá rẻ. Người sử dụng lao động ngoài việc trả một lượng
tiền công rẻ mạt cho lao động có trình độ đại học, họ không phải trả bất kỳ một chi
phí đào tạo hay sử dụng lao động nào, chính điều đó đã xuất hiện nhu cầu giả tạo về
lao động có trình độ cao đẳng, đại học. Công tác hướng nghiệp chưa thực sự có tác
động mạnh mẽ và phát huy tác dụng một cách có hiệu quả, giúp cho người đi học
có định hướng nghề nghiệp một cách đúng đắn. Công tác thông tin và dự báo nhu
cầu thị trường lao động chưa trở thành một mạng lưới hoàn chỉnh, rộng rãi, có hiệu
quả.
Sự hỗ trợ của chính phủ và các ngành giáo dục đào tạo cho trung học nghề và
đào tạo công nhân kỹ thuật còn hạn chế.
Ngoài những nguyên nhân chủ quan còn có những nguyên nhân khách quan
như tác động của khủng hoảng kinh tế xã hội những năm trước, tác động tiêu cực từ
mặt trái của cơ chế thị trường là những nguyên nhân không nhỏ ảnh hưởng tới kế
hoạch phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam.
19
Khắc phục được những nguyên nhân trên là điều kiện tiên quyết để thực hiện
thành công kế hoạch phát triển nguồn nhân lực cũng như các kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội trong giai đoạn hien nay và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
thời kỳ tới.
4. Các giải pháp về tổ chức quản lý và phát huy nguồn nhân lực ở Việt
Nam
Hiện nay ở nước ta cầu nhân lực thấp hơn cung rất nhiều nên theo quy luật của
giá trị thì giá nhân công thấp, sự cạnh tranh trên thị trường lao động diễn ra gay gắt,
quyết liệt tạo nên sự biến động về tiền lương. Trong nền kinh tế thị trường quy mô
cầu quyết định quy mô cung. Cầu nhân lực chính là việc làm trong mọi thành phần
kinh tế, việc làm ở nước ngoài thông qua xuất khẩu lao động. Hiệu quả sử dụng
nhân lực là thước đo hiệu quả đào tạo nhân lực. Lao động đã được đào tạo phải
được thị trường chấp nhận. Hiệu quả lao động, việc làm tiêu chuẩn căn bản đánh
giá chất lượng và uy tín của sản phẩm đào tạo. Quản lý sử dụng nhân lực ở nước ta
không chỉ tính đến hiệu quả kinh tế mà còn hiệu quả chính trị - xã hội. Chính sách
kinh tế phải kết hợp hài hoà với chính sách xã hội. Vì vậy cần hướng vào một số
giải pháp cụ thể sau:
Phát triển sản xuất để tăng cầu lao động việc làm. Việc làm và hiệu quả việc
làm chỉ có thể được giải quyết nhờ vào tăng trưởng, phát triển bền vững của nền
kinh tế.
Cầu lao động nhỏ hơn cung, người lao động ở thế bất lợi so với người sử dụng
lao động, đó là quy luật của nền kinh tế thị trường. Nhà nước bảo vệ lợi ích, quyền
lợi của người lao động và sử dụng lao động bằng cách thiết lập quan hệ lao động
lành mạnh, bình đẳng giữa người lao động và người sử dụng lao động. Khả năng
giải quyết việc làm phụ thuộc sự phát triển kinh tế. Vậy Nhà nước cần tạo môi
trường, điều kiện kinh tế và pháp lý để mở rộng phát triển ngành nghề, tạo nhiều
20
chỗ làm mới cho người lao động. Cụ thể. Nhà nước tăng cường chống buôn lậu để
bảo vệ sản xuất trong nước. Chủ trương quản lý bằng dán tem đối với một số mặt
hàng tiêu dùng nhập khẩu là hợp lý.
Bằng chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý để khuyến khích sản xuất trong nước,
như: chính sách tín dụng, chính sách thuế, tăng cường vốn đầu tư tạo thêm việc
làm, chương trình phủ xanh đắt trống đồi núi trọc, tận dụng mặt nước nuôi trồng
thuỷ sản, chương trình xây dựng vùng kinh tế mới, khu vực kinh tế thanh niên…
Tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế
trong nước.
Cần có cơ chế quản lý lao động thống nhất trên toàn nền kinh tế quốc dân.
Người lao động trong mọi thành phần kinh tế đều được pháp luật nhà nước bảo vệ.
Mọi quan hệ lao động được xác lập, thực hiện trên cơ sở luật lao động. Do việc làm
gắn với sự tồn tại của mỗi cá nhân, gia đình khiến người lao động trong nhiều
trường hợp phải chấp nhận những đòi hỏi gắt gao của bên cầu lao động, không có
đủ khả năng để tự bảo vệ mình khỏi những quan hệ lao động không lành mạnh giữa
chủ - thợ. Do đó nhà nước thực hiện giám sát, kiểm tra việc chấp hành các văn bản
pháp luật lao động, tiền lương… của chủ sử dụng lao động để bảo vệ lợi ích chính
đáng, theo quy định của pháp luật của người lao động mọi thành phần kinh tế. Trên
thực tế sự giám sát kiểm tra này phải thật cụ thể đến các quy định về giờ làm việc
trong ngày định mức đơn giá tiền lương… chứ không chỉ dừng lại ở việc quản lý
mức lương tối thiểu như hiện nay.
Tăng cường công tác thông tin lao động, phát triển thị trường sức lao động.
Các trung tâm dịch vụ việc làm không chỉ có chức năng môi giới tạo việc làm, cung
cấp nhân lực cho cơ sở sử dụng lao động, mà phải trở thành trung tâm nghiên cứu,
điều tra tình hình cầu lao động, làm cầu nối giữa đào tạo với sử dụng lao động, giữa
cung - cầu lao động ở các thành phần kinh tế, tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, ăn
21
khớp về cung - cầu lao động.
22
KẾT LUẬN
Phát huy nguồn nhân lực được xây dựng dựa trên những cơ sở khoa học và
thực tiến. Nó hình thành là bởi sự đòi hỏi của xu thế phát triển. Nền kinh tế càng
phát triển con người càng có nhu cầu cao, những đòi hỏi cao hơn và họ đòi hỏi cả ở
chính con người phải có trình độ ngày càng cao, có chuyên môn, kỹ thuật cao, hiểu
biết nhiều nghề và sử dụng thành thạo các công nghệ của thông tin, mà kế hoạch
nguồn nhân lực phải đáp ứng
Kr hoach phat huy nguon nhan luc cũng không thể tách khỏi hệ thống phát
triển kinh tế - xã hội. Nó có quan hệ hai mặt đối với phát triển kinh tế - xã hội. Vừa
là động lực vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội. Bởi suy cho cùng thì mọi
sự phát triển đều do con người và vì chính bản thân con người. Phát huy nguồn
nhân lực bao gồm những nội dung: quy nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực
và cơ cấu nguồn nhân lực để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề không
phải là ở quy mô nguồn nhân lực mà ở chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực. Chính
vì vậy phải có biện pháp giảm tốc độ tăng trưởng nguồn nhân lực, chất lượng phải
được nâng cao đồng thời cơ cấu nguồn nhân lực phải phù hợp và đáp ứng được đòi
hỏi của cơ câú kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội.
Để thực hiện nội dung trên trong vấn đề phát huy nguồn nhân lực cần đưa ra
những mục tiêu cụ thể, phương hướng nhiệm vụ của kế hoạch và đồng thời đưa ra
các giải pháp thực hiện trong kế hoạch tới chúng ta tăng cường đào tạo công nhân
kỹ thuật và trình độ chuyên môn có chất lượng cao, phục vụ cho nhu cầu cấp bách
của nền kinh tế, tăng cường đào tạo công nhân cho các ngành công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ, giảm số lượng lao động trong các ngành nông lâm, ngư nghiệp.
Đồng thời phát triển nguồn nhân lực toàn diện cả về sức khoẻ và giáo dục thông
qua các chính sách và giải pháp có hiệu quả.
23
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................1
I. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CHỦ YẾU CỦA NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM.
...........................................................................................................................2
1. Xuất phát điểm của nguồn nhân lực ......................................................2
2 Quy mô nguồn nhân lực.........................................................................3
3 Chất lượng nguồn nhân lực....................................................................4
4 Cơ cấu nguồn nhân lực...........................................................................6
II.NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT HUY NGUỒN NHÂN
LỰC Ở VIỆT NAM ..........................................................................................7
III. GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC GIAI ĐOẠN
Ở VIỆT NAM .................................................................................................12
IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở
VIỆT NAM......................................................................................................14
1. Những thành tựu đạt được trong quá trình phát triển nguồn nhân lực .....14
2. Những hạn chế trong quá trình phát triển nguồn nhân lực .................16
3. Những nguyên nhân dẫn đến mặt hạn chế..........................................18
4. Các giải pháp về tổ chức quản lý và phát huy nguồn nhân lực ở Việt Nam
.........................................................................................................................20
KẾT LUẬN.....................................................................................................23
24