CHƯƠNG VIII: LY LÂU HẠ
離婁下
Ly Lâu, phần sau
1.
孟子曰:舜生於諸馮,遷於負夏,卒於鳴條,東夷
之人也。文王生於岐周,卒於畢郢,西夷之人也。
地之相去也,千有餘里;世之相後也,千有餘歲。
得志行乎中國,若合符節。先聖後聖,其揆一也。
Mạnh Tử viết: “Thuấn sinh ư Chư Phùng, thiên ư Phụ Hạ, tốt ư Minh
Điều, Đông di chi nhân dã. Văn Vương sinh ư Kỳ Châu, tốt ư Tất Dĩnh,
Tây di chi nhân dã. Địa chi tương khứ dã, thiên hữu dư lý; thế chi tương
hậu dã, thiên hữu dư tuế. Đắc chí hành hồ trung quốc, nhược hợp phù
tiết. Tiên thánh, hậu thánh, kỳ quỹ nhất dã.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Vua Thuấn sinh ở Chư Phùng, dời đến Phụ Hạ, mất ở
Minh Điều, là người thuộc miền rợ Đông. Vua Văn Vương sinh ở Kỳ
Châu, mất ở Tất Dĩnh, là người thuộc miền rợ Tây. Từ đất này đến đất
kia, có trên nghìn dặm; đời nọ sang đời kia, có trên nghìn năm. Đạt được
chí hướng mà hành động tại Trung quốc, dường như mảnh thẻ tre làm
tin kết với nhau. Thánh trước, thánh sau, đường lối của hai ngài là một.”
BÌNH GIẢI:
Vua Thuấn là người miền rợ Đông; Văn Vương là người miền rợ Tây; cả
hai đều không phải là những người gốc ở Trung quốc. Ngày xưa, người Trung
quốc vẫn có thành kiến cho những người ở miền cực bắc, cực nam, cực đông,
cực tây đều là những giống dân man di, mọi rợ, kém văn hoá, thiếu lễ nghĩa
(Bắc địch, Nam man, Đông di, Tây nhung).
Tuy nhiên, vua Thuấn và Văn Vương mặc dầu sinh ở hai miền đất xa cách
nhau trên một nghìn dặm, sống ở hai thời đại cách nhau trên một nghìn năm
(khoảng năm 2206 và năm 1072 trước Công nguyên), đều là những người
mang tiếng mọi rợ, nhưng lại là hai vị thánh vương của Trung quốc vào thời
cổ.
758
MẠNH TỬ
Đường lối cai trị của hai ngài giống nhau như hai mảnh tre dùng làm tin
của cùng một phù tiết vậy. Phù tiết là một phiến tre để làm tin. Người xưa
muốn kết ước với nhau thì viết chữ trên phiến tre ấy rồi chẻ đôi ra thành hai
mảnh, mỗi bên giữ một mảnh. Một thời gian sau, hai bên xa cách. Khi hai
người hay hậu duệ của hai người gặp lại nhau, cùng đem hai mảnh tre ghép
lại, thấy dấu vết in khít; cả hai sẽ cùng nhận ra nhau đã từng kết ước, rồi
cùng thực hiện điều kết ước.
Đường lối cai trị của vua Thuấn và Văn Vương ăn khớp với nhau như hai
mảnh tre của một phù tiết. Đó là đường lối đức trị, lấy nhân nghĩa mà trị
dân. Đường lối này cịn có tên là vương đạo, luôn luôn lấy ý dân làm trọng,
lấy hạnh phúc của dân làm mục tiêu. Cũng nhờ cách cai trị ấy, đời sau đã tôn
hai ngài là thánh vương.
2.
子產聽鄭國之政,以其乘輿濟人於溱,洧。
孟子曰:惠而不知為政,歲十一月徒杠成,十二月
輿梁成,民未病涉也。君子平其政,行辟人可也;
焉得人人而濟之?故為政者,每人而悅之,日亦不
足矣。
Tử Sản thính Trịnh quốc chi chính, dĩ kỳ thặng dư tế nhân ư Trăn, Vĩ.
Mạnh Tử viết: “Huệ, nhi bất tri vi chính. Tuế, thập nhất nguyệt, đồ
giang thành; thập nhị nguyệt, dư lương thành. Dân vị bệnh thiệp dã.
Quân tử bình kỳ chính, hành tịch nhân, khả dã. n đắc nhân nhân nhi
tế chi? Cố vi chính giả, mỗi nhân nhi duyệt chi, nhật diệc bất túc hỹ.”
Dịch nghĩa:
Tử Sản coi sóc nền chính trị của nước Trịnh, đã lấy xe cộ của mình giúp
người ở sơng Trăn, sơng Vĩ.
Mạnh Tử nói: “Đó là làm ơn, nhưng khơng biết làm chính trị. Mỗi năm,
vào khoảng tháng 11, hãy hồn thành những cây cầu nhỏ; vào khoảng
tháng 12, hãy hoàn thành những cây cầu lớn. Dân chúng sẽ không bị
nỗi khổ phải lội sông. Người quân tử cân bằng việc cai trị của mình,
cần phải khiến người ta biết nhường tránh. Sao lại phải đi giúp đỡ từng
người này người kia? Vì thế, nếu làm chính trị cứ làm cho mỗi người
được vui lịng thì hằng ngày làm cũng chẳng đủ.”
759
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
BÌNH GIẢI:
Tử Sản là quan đại phu và cũng là một hiền nhân nước Trịnh, tên gọi
Công Tơn Kiều. Ơng điều khiển nền hành chính nước Trịnh vào thời Xuân
Thu, được nhiều người ái mộ. Khổng Tử từng khen ngợi Tử Sản là người giữ
đạo quân tử được bốn điều: giữ mình khiêm cung, phụng sự bậc trên một cách
kính cẩn, thường làm ơn cho dân, sai khiến dân hợp lẽ.
Ơng làm chính trị vào thời đại trước Mạnh Tử gần 200 năm. Dân nước
Trịnh quý mến ông vì ông đã lấy xe cộ của mình chở người qua sông Trăn,
sông Vĩ.
Ở đây, Mạnh Tử khen Tử Sản có đức huệ, đó là hay làm ơn cho dân, nhưng
chê Tử Sản chưa thông tỏ phép cai trị.
Nếu giỏi cai trị, mỗi năm, vào khoảng tháng 11, là mùa gặt, dân chúng
phải bận rộn việc thu gom thóc lúa, thường xuyên qua lại trên sông, nhà cầm
quyền hãy làm mới hay tu sửa những cây cầu nhỏ, khiến cho dân chúng có
thể đi bộ qua lại dễ dàng. Vào khoảng tháng 12, là thời gian cận Tết, dân
chúng phải chun chở hàng hố bn bán rộn rịp trên những xe cộ năng nề,
nhà cầm quyền hãy làm mới hay tu sửa những cây cầu lớn, khiến cho dân có
thể đem xe ngựa qua lại trên cầu. Làm được như vậy trong khắp nước, dân
chúng sẽ tránh được nỗi khổ lội sông vất vả.
Người quân tử trị nước cần phải có biện pháp sao cho tồn dân được hưởng
chung những tiện nghi, lợi ích cân bằng như nhau và cũng phải biết tạo một
khoảng cách xa tránh với dân để cho dân khỏi đến quấy rầy phiền rộn mình
(bình kỳ chính, hành tịch nhân). Nếu lúc nào cũng gần gũi thân mật với dân,
đem xe nhà đi chở từng người dân qua sông, khiến cho mỗi người dân đều
được vui lịng thì chở sao cho xuể! Có chở cả ngày như vậy suốt năm cũng
khơng đủ thời gian hồn tất việc giúp đỡ. Nếu cứ tiếp tục làm như thế, người
cầm quyền lấy thời giờ đâu mà lo nghĩ đến những kế sách lớn cho đất nước?!
3.
孟子告齊宣王曰:君之視臣如手足,則臣視君如腹
心;君之視臣如犬馬,則臣視君如國人;君之視臣
如土芥,則臣視君如寇讎。
王曰:禮,為舊君有服。何如斯可為服矣?
曰:諫行言聽,膏澤下於民;有故而去,則使人導
760
MẠNH TỬ
之出疆,又先於其所往;去三年不反,然後收其田
里。此之謂三有禮焉。如此則為之服矣。
今也為臣,諫則不行,言則不聽,膏澤不下於民;
有故而去,則君搏執之,又極之於其所往;去之
日,遂收其田里。此之謂寇讎。寇讎何服之有?
Mạnh Tử cáo Tề Tuyên Vương viết: “Quân chi thị thần như thủ túc, tắc
thần thị quân như phúc tâm. Quân chi thị thần như khuyển mã, tắc
thần thị quân như quốc nhân. Quân chi thị thần như thổ giới, tắc thần
thị quân như khấu thù.”
Vương viết: “Lễ, vị cựu quân hữu phục. Hà như, tư khả vị phục hỹ?”
Viết: “Gián hành, ngơn thính; cao trạch hạ ư dân. Hữu cố nhi khứ, tắc
quân sử nhân đạo chi xuất cương; hựu tiên ư kỳ sở vãng; khứ tam niên
bất phản, nhiên hậu thâu kỳ điền lý. Thử chi vị tam hữu lễ yên. Như
thử, tắc vị chi phục hỹ.
Kim dã, vi thần gián, tắc bất hành; ngôn tắc bất thính; cao trạch bất hạ
ư dân. Hữu cố nhi khứ, tắc quân bác chấp chi; hựu cực chi ư kỳ sở vãng;
khứ chi nhật, toại thâu kỳ điền lý. Thử chi vị khấu thù. Khấu thù, hà
phục chi hữu?”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói với Tề Tuyên Vương rằng: “Vua mà coi bề tôi như tay chân,
bề tôi sẽ coi vua như lịng dạ. Vua mà coi bề tơi như chó ngựa, bề tôi sẽ
coi vua như người dưng. Vua mà coi bề tôi như bùn rác, bề tôi sẽ coi vua
như cừu địch.”
Vua nói: “Theo lễ, đối với vua cũ phải để tang. Như thế nào thì đáng phải
để tang?”
Đáp: “Can ngăn thì thi hành, nói thì nghe; ân lộc thấm nhuần xuống tới
dân. Có duyên cớ mà ra đi, vua sai người dẫn đưa ra tới bờ cõi; lại giới
thiệu trước với nơi đến; ra đi ba năm không trở lại, rồi mới thu lấy ruộng
đất. Thế gọi là ba điều có lễ. Như vậy thì đáng phải để tang.
“Nay, bề tơi can ngăn thì khơng thi hành, nói thì khơng nghe, ân lộc
thấm nhuần khơng xuống tới dân. Có duyên cớ mà ra đi, vua bắt giữ lại;
761
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
cịn khiến cho cùng cực ở nơi đến; vào ngày ra đi, đã thu hết ruộng đất.
Thế gọi là cừu địch. Đã là cừu địch, sao còn phải để tang?”
BÌNH GIẢI:
Giữa vua và bề tơi có một tương quan hai chiều cân xứng với nhau. Nếu
vua quý mến bề tôi, bề tôi sẽ tôn trọng đáp lại. Nếu vua khinh rẻ bề tôi, bề
tôi sẽ coi vua như người dưng, nước lã. Nếu vua miệt thị bề tôi, bề tôi sẽ coi
vua như kẻ thù.
Xưa kia, Kinh Lễ có cho biết: nếu vua cũ của mình từ trần, bề tôi dù đang
phục vụ ở nước khác cũng phải để tang ba tháng.
Để tang là tạ lại mối ân tình cũ giữa vua và bề tơi. Ân tình của vua đối với
bề tơi tức là vua có lễ với bề tơi. Ba điều lễ đó là:
- Bề tơi can ngăn vua, vua sửa đổi; bề tơi nói phải, vua nghe theo. Vì vậy,
ân huệ của vua mới thấm nhuần xuống tới dân chúng.
- Bất đắc dĩ bề tôi có duyên cớ phải đến nước khác, vua sai người dẫn đưa
đến biên giới; trước đó lại cịn tìm cách tiến cử với nước người để cho bề
tôi được trợ giúp nơi đất khách.
- Sau ba năm mà bề tôi không trở về, vua mới cho thu lấy ruộng đất cũ đã
từng cấp cho ngày trước.
Nếu vua có ba điều lễ đó, khi ngài mất đi, dĩ nhiên bề tơi dù ở bao xa cũng
phải nhớ mà chịu tang.
Trái lại, vua chẳng giữ lễ với bề tôi:
- Bề tôi can ngăn, vua khơng chịu sửa lỗi; bề tơi nói phải, vua khơng thèm
nghe. Do đó, chẳng có ân huệ nào của vua thấm nhuần xuống tới dân
chúng.
- Có việc cần phải ra đi, vua sai người bắt giữ lại; nếu đi thốt được, sẽ bị
vua tìm cách gièm pha với nước người để cho bề tôi lâm cảnh khốn cùng.
- Vừa ra khỏi nhà, vua đã tịch thu hết ruộng đất gia sản.
Nếu vua thất lễ với bề tôi như vậy, bề tôi sẽ coi vua như kẻ thù. Ai lại chịu
tang kẻ thù bao giờ? Người ta còn ăn mừng nữa đấy chứ!
4.
孟子曰:無罪而殺士,則大夫可以去;無罪而戮
民,則士可以徙。
762
MẠNH TỬ
Mạnh Tử viết: “Vô tội nhi sát sĩ, tắc đại phu khả dĩ khứ; vô tội nhi lục
dân, tắc sĩ khả dĩ tỉ.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Khơng có tội mà giết người trí thức, thì quan đại phu có
thể ra đi; khơng có tội mà phanh xác dân chúng, thì người trí thức có
thể rời bỏ.”
BÌNH GIẢI:
Những người trí thức trong nước được coi như bộ não của toàn dân. Đất
nước càng có nhiều trí thức càng có điều kiện để tiến bộ. Nếu người trí thức
khơng có tội gì rõ rệt, khơng vi phạm an ninh quốc gia, có chăng chỉ là vài lời
nhận xét phê phán, biểu lộ sự ưu tư trước thời cuộc; thế mà nhà cầm quyền
nỡ đem ra giết; đó là chính sách tàn bạo, chuyên chế. Trước tình hình ấy, các
quan đại phu trong triều nên bỏ nước mà ra đi, không nên cộng tác với vua
và chính quyền ấy nữa.
Dân chúng là những người ít học, thiếu hiểu biết, nhưng lại là một đại
bộ phận xây dựng hạ tầng cơ sở kinh tế cho một nước. Nếu dân khơng có tội,
khơng phạm hình luật nặng nề, đơi khi bị vu oan mà không được xét xử công
minh, lại bị nhà cầm quyền giết chóc một cách tàn nhẫn; đó là chính sách đàn
áp, coi dân như kẻ thù. Trước tình hình ấy, những người trí thức khơng nên
lưu lại, mà nên bỏ nước ra đi để tỏ bày sự chống đối của mình. Một khi các
quan đại phu, các nhà trí thức ùn ùn kéo nhau bỏ đi; đó là những phần tử ưu
tú nhất đã biểu lộ thái độ bằng đôi chân vậy.
Đất nước mà mất những phần tử ưu tú, sớm muộn cũng suy tàn; chính
quyền cai trị khơng bị ai đánh cũng tự sụp đổ!
5.
孟子曰:君仁莫不仁,君義莫不義。
Mạnh Tử viết: “Quân nhân, mạc bất nhân. Quân nghĩa, mạc bất nghĩa.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Vua có nhân, chẳng có ai bất nhân. Vua có nghĩa, chẳng
có ai bất nghĩa.”
BÌNH GIẢI:
Trong chương Ly Lâu thượng, tiết 20, đã có câu này. Vua mà có lịng nhân,
chẳng có vị quan nào bất nhân. Vua mà cư xử có tình nghĩa, chẳng có vị quan
763
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
nào cư xử bất nghĩa. Có ai bất nhân, bất nghĩa trong triều, tức khắc người ấy
tự sửa; nếu không sửa được, chắc chắn người ấy sẽ bị đào thải nhanh chóng.
Dĩ nhiên, với một triều đình bao gồm vua và các quan đều sống nhân nghĩa,
thì đức nhân nghĩa sẽ tràn lan khắp nước, cảm hoá được tất cả mọi người.
6.
孟子曰:非禮之禮,非義之義,大人弗為。
Mạnh Tử viết: “Phi lễ chi lễ, phi nghĩa chi nghĩa, đại nhân phất vi.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Điều lễ mà chẳng phải lễ, điều nghĩa mà chẳng phải
nghĩa, bậc đại nhân khơng làm.”
BÌNH GIẢI:
Khổng Tử viết trong Kinh Dịch: “Gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hồ
nghĩa: gom góp mọi điều tốt đẹp đủ để cho hợp với lễ, làm lợi ích cho mọi vật
đủ để điều hoà điều nghĩa.” (Quẻ Càn, Văn ngôn).
Lễ là khuôn phép, mẫu mực, nghi thức cần thiết tạo thành các thuần
phong mỹ tục để tiết chế, điều hồ tình cảm, cử chỉ, hành vi con người. Tinh
thần của lễ là sự tốt đẹp hoà ái; nếu thi hành điều lễ mà chỉ chú trọng hình
thức, khơng tiềm tàng tinh thần lễ thì chẳng phải lễ đích thực.
Nghĩa là cách cư xử đem lợi ích cho người. Nếu thi hành điều nghĩa mà
làm cho người phiền lòng, thì chẳng phải nghĩa đích thực. Lễ nghĩa khơng
phát huy được sự tốt đẹp, không khiến cho người được thỏa lịng, thì đó chỉ là
lễ nghĩa giả dối. Bậc đại nhân là những người tiến bước trong đạo quân tử,
hiền thánh, không bao giờ làm những điều lễ nghĩa giả dối như vậy.
7.
孟子曰:中也養不中,才也養不才,故人樂有賢父
兄也。如中也棄不中,才也棄不才,則賢不肖之相
去,其間不能以寸。
Mạnh Tử viết: “Trung dã dưỡng bất trung, tài dã dưỡng bất tài; cố nhân
lạc hữu hiền phụ huynh dã. Như trung dã khí bất trung, tài dã khí bất
tài, tắc hiền bất tiếu chi tương khứ, kỳ gian bất năng dĩ thốn!”
764
MẠNH TỬ
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Người trung dạy dỗ kẻ bất trung, người tài dạy dỗ kẻ bất
tài; cho nên người ta vui vẻ mà có cha anh hiền. Nếu như người trung
bỏ kẻ bất trung, người tài bỏ kẻ bất tài, thì sự xa cách nhau giữa người
hiền kẻ ngu chỉ là khoảng cách khơng bằng một tấc!”
BÌNH GIẢI:
Trung là không thiên lệch khỏi đạo Trời. Người trung sống trong chính
đạo, cho nên có nhiều đức hạnh tốt. Tài là khả năng thực hiện được những
cơng việc khó. Người tài có thể điều khiển guồng máy cai trị và có thể đảm
đương các ngành chun mơn.
Người ta chẳng có ai không được dạy dỗ, huấn luyện mà trở thành người
trung, người tài. Vì vậy, người trung có bổn phận dạy dỗ kẻ bất trung, người
tài có bổn phận dạy dỗ kẻ bất tài. Người vừa có đức trung vừa có tài năng
được gọi là người hiền. Trong gia đình, cha anh là bậc hiền thì có bổn phận
dạy dỗ con em trở nên có đức, có tài như mình. Cha anh có thi hành bổn phận
dạy dỗ, con em mới vui mừng tự hào có cha anh hiền và tỏ lịng tơn kính, q
mến.
Nếu như người trung, người tài từ bỏ kể bất trung, bất tài, không thi hành
bổn phận dạy dỗ họ, sao có thể xứng danh bậc hiền? Bậc hiền mà không biết
thương người, không dạy dỗ nâng đỡ kẻ kém hơn mình thì có khác gì kẻ dốt
nát, hư hỏng đâu; nếu có xa cách nhau thì khoảng cách đó khơng bằng một
tấc. Bậc hiền mà khơng được con em tơn kính, q mến thì cũng đồng hàng
với con em dốt nát mà thôi!
8.
孟子曰:人有不為也,而後可以有為。
Mạnh Tử viết: “Nhân hữu bất vi dã, nhi hậu khả dĩ hữu vi.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Người ta phải biết có những điều khơng được làm, rồi sau
mới biết có những điều được làm.”
BÌNH GIẢI:
Những điều khơng được làm là những điều xấu (ác), có hại cho bản thân
mình và cho người. Dĩ nhiên người ta phải học cho biết những điều xấu gây
765
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
ra hậu quả gần và hậu quả xa như thế nào; hoặc phải biết những điều xấu
nào có hại cho thể chất, những điều nào có hại cho tinh thần. Có những điều
tưởng chừng vơ hại nhất thời nhưng lại tiềm tàng điều hại mai sau. Ví dụ:
việc uống nhiều rượu có thể gây hại (hậu quả gần) cho gan (thể chất), lại có
thể làm rối loạn thần kinh (tinh thần) và còn di hại cho con cháu mai sau
(hậu quả xa)...
Biết những điều không được làm, rồi sau người ta cần phải biết những
điều được làm. Những điều được làm là những điều tốt (thiện), có ích cho
mình và cho người. Người ta cũng cần học cho biết những điều gì có lợi cho
thể chất, điều gì có lợi cho tinh thần, điều nào có lợi cho cả ta lẫn người, điều
nào đáng làm trước, điều nào đáng làm sau...
Để trở nên bậc quân tử, người ta cần học cả đời, bởi vì có rất nhiều điều
đáng học; học cho mình biết sống tốt và sau đó dạy lại cho người.
9.
孟子曰:言人之不善,當如後患何?
Mạnh Tử viết: “Ngơn nhân chi bất thiện, đương như hậu hoạn hà?”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Nói về những điều khơng tốt của người, sẽ nhận lấy tai
vạ về sau biết dường nào?”
BÌNH GIẢI:
Khi ta nói về những điều không tốt của người, ta sẽ trở thành đối thủ của
người; dĩ nhiên người sẽ nói xấu lại ta hoặc tìm cách hại ta. Vì thế, vạ miệng
là điều cần phải đề cao cảnh giác.
10.
孟子曰:仲尼不為已甚者。
Mạnh Tử viết: “Trọng Ni bất vi dĩ thậm giả.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Thầy Trọng Ni khơng làm gì thái q.”
BÌNH GIẢI:
Thái q là tình trạng vượt qua lẽ thường. Vượt qua lẽ thường thì khơng
hợp với qui luật tự nhiên, khơng hợp đạo Trời, và trái với tâm lý con người,
766
MẠNH TỬ
khiến cho người đời khó lịng hiểu được, theo được. Vả lại, thái quá sẽ có hại.
Nắng thái quá, mưa thái quá có hại cho mùa màng. Chạy thái quá khiến
người ta kiệt sức, nằm thái quá khiến người ta yếu đuối, ăn thái quá khiến
người ta bội thực, bệnh hoạn...
Đức Khổng Tử là bậc quân tử. Ngài luôn làm gương mẫu cho các đệ tử, nên
luôn sinh hoạt chừng mực, khơng làm điều gì thái q.
11.
孟子曰:大人者,言不必信,行不必果,惟義所
在。
Mạnh Tử viết: “Đại nhân giả, ngơn bất tất tín, hạnh bất tất quả; duy
nghĩa sở tại.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Bậc đại nhân, lời nói khơng nhất thiết phải giữ niềm
tin, hành động không nhất thiết phải quả quyết; chỉ chú trọng vào điều
nghĩa thơi.”
BÌNH GIẢI:
Đại nhân là người đã tiến xa trên đạo quân tử. Đối với kẻ tiểu nhân mới
bắt đầu học đạo, thì được dạy phải giữ niềm tin trong giao thiệp, phải có tính
quả quyết trong hành động; thấy điều gì đáng làm phải làm ngay.
Khi đã tiến xa trên đạo quân tử, người ta cần phải biết linh động quyền
biến tùy cảnh, tùy thời cho hợp điều nghĩa. Điều nghĩa là điều tốt đẹp cho tha
nhân. Điều nghĩa lại luôn luôn đi với thời, tạo nên thời nghĩa. Thời mà qua
đi thì nghĩa cũng mất theo. Do đó để đáp ứng với thời nghĩa, đôi khi người
ta cần phải bỏ qua điều tín và sự quả quyết. Lúc nào cũng khăng khăng giữ
cho được điều tín và quả quyết làm cho được điều đã dự định mà bỏ qua thời
nghĩa; đó là người cố chấp. Cố chấp có thể hại nghĩa. Bỏ qua điều tín nhỏ để
đạt điều nghĩa lớn; không quả quyết hành động theo dự định để duy trì điều
nghĩa lớn; như thế mới xứng đáng là bậc đại nhân thức thời.
12.
孟子曰:大人者,不失其赤子之心者也。
Mạnh Tử viết: “Đại nhân giả, bất thất kỳ xích tử chi tâm giả dã.”
767
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Bậc đại nhân là người khơng đánh mất cái tâm trẻ thơ
của mình.”
BÌNH GIẢI:
“Tâm trẻ thơ” theo quan niệm của Mạnh Tử chính là thiên mệnh trong
sách Trung dung, là minh đức trong sách Đại học. Đó là “tính bản nhiên”
được Trời phú bẩm cho con người khi mới thành thai. Công giáo gọi là “linh
hồn”. Ấn giáo gọi là “tự ngã” (atman). Là người, ai cũng có thực thể đó. Tuy
nhiên, kẻ tiểu nhân thì đánh mất, bậc đại nhân thì giữ được hay tìm lại được.
Cơng phu tu tập của con người là tìm lại được cái “tâm trẻ thơ” đã bị đánh
mất vì dục vọng, danh lợi.
13.
孟子曰:養生者,不足以當大事,惟送死可以當大
事。
Mạnh Tử viết: “Dưỡng sinh giả, bất túc dĩ đương đại sự; duy tống tử, khả
dĩ đương đại sự.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Ni sống chưa đủ thành được việc lớn; phải tiễn đưa khi
chết nữa, mới thành được việc lớn.”
BÌNH GIẢI:
Ở đây, việc lớn (đại sự) là đạo hiếu đối với cha mẹ. Ngày xưa, khi Chu Công
chưa quy định lễ an táng trọng hậu cho cha mẹ, người ta chỉ cho cha mẹ ăn
uống khi cịn sống, cịn lúc chết rồi thì chơn cất sơ sài cho xong việc. Làm như
vậy, con cháu khơng bày tỏ được sự thương nhớ kính mến đối với cha mẹ, ơng
bà. Sự thương nhớ kính mến đối với những người đã khuất khơng được vun
đắp, thì tình cảm giữa những người còn sống với nhau cũng lạt lẽo. Muốn cho
tình người được đằm thắm vượt thời gian, đạo hiếu phải bao gồm cả việc nuôi
nấng chu đáo cha mẹ khi còn sống và việc an táng tử tế cha mẹ khi đã chết.
Thực hiện được cả hai việc đó mới gọi được là đảm đương đại sự (đạo hiếu)
trong đời.
Vì người ta đã khơng hiểu hết ý câu nói của Mạnh Tử; cho nên mới có
chuyện chẳng buồn ni nấng cha mẹ khi cịn sống, nhưng lại tổ chức lễ an
táng thật to để được tiếng là có hiếu!
768
MẠNH TỬ
14.
孟子曰:君子深造之以道,欲其自得之也。自得之
則居之安,居之安則資之深,資之深則取之左右逢
其原。故君子欲其自得之也。
Mạnh Tử viết: “Quân tử thâm tháo chi dĩ đạo, dục kỳ tự đắc chi dã. Tự
đắc chi, tắc cư chi an. Cư chi an, tắc tư chi thâm. Tư chi thâm, tắc thủ
chi tả hữu phùng kỳ nguyên. Cố quân tử dục kỳ tự đắc chi dã.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Người quân tử đi sâu vào cõi đạo, muốn tự mình đạt được
đạo. Tự mình đạt được đạo sẽ sống an vui. Sống an vui, sẽ có vốn liếng
sâu sắc. Có vốn liếng sâu sắc sẽ lấy được ở bên trái bên phải của mình
mà gặp được cội nguồn. Cho nên người quân tử muốn tự mình đạt được
đạo.”
BÌNH GIẢI:
Quân tử là người đang tiến bước trên con đường chân chính, khởi đầu từ
tiểu nhân lên bậc hiền nhân và thánh nhân. Tiến lên bậc hiền, bậc thánh tức
là người quân tử đang đi sâu vào cõi đạo. Bao giờ nên thánh ấy là đạt được
đạo, tức là nắm được chân lý diệu huyền, hay là chân lý diệu huyền bừng
sáng nơi mình, hiện hữu nơi mình. Như vậy, tự mình đạt được đạo, thấy chân
lý diệu huyền hiện hữu nơi mình, con người sẽ sống an vui. Sống an vui, con
người sẽ khơng cịn vong thân, nhưng tự nhận ra nơi mình có một vốn liếng
sâu sắc dồi dào.
Người nào đã có vốn liếng sâu sắc dồi dào ấy là có nền tảng chân lý ở mình;
người ấy thốt khỏi tình trạng phóng ngoại, tha hố (táng vu vật: chôn vùi
trong vật); trái lại, người ấy sẽ biết gặt hái quanh mình (bên trái, bên phải)
những phương tiện thuộc về thế giới hiện tượng để dùng làm hành trang
cho mình, giúp mình đi hết đường đời, hồn thành sứ mệnh mà gặp được cội
nguồn chân lý (phùng kỳ nguyên) ở chung cuộc. Vì thế, người quân tử muốn
tự mình đạt được đạo, đích thân tiếp cận Chân lý tối cao.
15.
孟子曰:博學而詳說之,將以反說約也。
Mạnh Tử viết: “Bác học nhi tường thuyết chi; tương dĩ phản thuyết ước
dã.”
769
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Học rộng mà giải bày rõ ràng; rồi mới trở lại giải bày
những điều trọng yếu.”
BÌNH GIẢI:
Câu trên nói về phương pháp học và phương pháp giảng dạy những điều
đã học. Trước hết, người ta phải học cho rộng để thu gom các kiến thức; sau
đó các kiến thức ấy phải được giải thích và hệ thống hố cho rõ ràng. Thế rồi,
trong việc giảng dạy cho người khác, người dạy phải biết rút ra những điều
trọng yếu để truyền đạt, người nghe mới có thể hiểu và nhớ được.
16.
孟子曰:以善服人者,未有能服人者也。以善養人,
然後能服天下。天下不心服而王者,未之有也。
Mạnh Tử viết: “Dĩ thiện phục nhân giả, vị hữu năng phục nhân giả dã.
Dĩ thiện dưỡng nhân, nhiên hậu năng phục thiên hạ. Thiên hạ bất tâm
phục nhi vượng giả, vị chi hữu dã!”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Đem điều thiện chinh phục người thì chưa thể chinh
phục người được. Đem điều thiện dưỡng dục người, rồi sau mới có thể
chinh phục thiên hạ. Thiên hạ không tâm phục mà nên thịnh vượng,
chưa hề có vậy.”
BÌNH GIẢI:
Nhà cầm quyền nếu chỉ nêu điều thiện của mình ra mà mong rằng dân
chúng phải tùng phục mình; điều đó chưa được. Cần phải đem điều thiện
giáo dưỡng dân chúng, khiến cho người ta quen sống trong điều thiện, bấy
giờ thiên hạ mới tùng phục mình. Khi cả thiên hạ đều khâm phục nhà cầm
quyền tận đáy lịng, nhà cầm quyền xướng xuất điều gì, dân chúng nghe
ngay, thì đất nước mới hưng vượng được.
17.
孟子曰:言無實,不詳。不詳之實,蔽賢者當之。
Mạnh Tử viết: “Ngôn vô thật, bất tường. Bất tường chi thật, tế hiền giả
đương chi.”
770
MẠNH TỬ
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Lời nói khơng thật là điều chẳng lành. Cái thật của điều
chẳng lành là che lấp lời nói ngay thẳng của bậc tài đức.”
BÌNH GIẢI:
Lời nói khơng thật là lời nói dối, lời nói xấu. Nói dối, nói xấu hẳn là điều
chẳng lành, ắt sẽ gây hậu quả tai hại. Tuy nhiên, điều tai hại nhất (cái
thật của điều chẳng lành) là che lấp mất lời nói ngay thẳng của bậc tài đức.
“Đương” nghĩa là nhận; bậc tài đức (hiền giả) chỉ nhận lời nói ngay thẳng,
chứ khơng bao giờ nói khơng thật. Chỉ có lời nói ngay thẳng mới xây dựng
được quốc gia. Nay lời nói khơng thật của bọn gian nịnh đã che lấp lời nói
ngay thẳng của người tài đức, thì quốc gia không thể phát triển tốt đẹp được.
18.
徐子曰:仲尼亟稱於水曰:“水哉!水哉!”何取
於水也?
孟子曰:源泉混混,不舍晝夜,盈科而後進,放乎
四海;有本者如是,是之取爾。茍為無本,七,八
月之間雨集,溝澮皆盈;其涸也,可立而待也。故
聲聞過情,君子恥之。
Từ Tử viết: “Trọng Ni khí xưng ư thủy viết: ‘Thủy tai! Thủy tai!’ Hà thủ
ư thủy dã?”
Mạnh Tử viết: “Nguyên tuyền hỗn hỗn, bất xả trú dạ, doanh khoa nhi
hậu tiến, phóng hồ tứ hải. Hữu bản giả như thị. Thị chi thủ nhĩ. Cẩu vi
vô bản, thất bát nguyệt chi gian, vũ tập, câu khối giai doanh. Kỳ hạc dã,
khả lập nhi đãi dã. Cố thanh văn quá tình, quân tử sỉ chi.”
Dịch nghĩa:
Từ Tử1 nói: “Thầy Trọng Ni ln ln đề cao nước rằng: ‘Nước thay!
Nước thay!’ Lấy gì ở nước vậy?”
Mạnh Tử nói: “Suối nguồn cuồn cuộn, khơng nghỉ ngày đêm, đầy các
hầm hố rồi sau tiến lên, phóng ra bốn biển. Có cội nguồn mới như vậy.
Đó là lấy cái ý ấy. Ví bằng chẳng có cội nguồn, vào khoảng tháng bảy,
1 Từ Tử, tức Từ Tịch, là một môn đệ hầu cận Mạnh Tử
771
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
tháng tám, mưa xong, ngịi rãnh đầy cả. Chỉ cần đứng đợi rồi nước cạn
hết. Cho nên danh tiếng vượt quá sự thực, người quân tử lấy làm xấu
hổ.”
BÌNH GIẢI:
Sở dĩ Khổng Tử ca ngợi nước vì nước có cội nguồn, chảy liên miên bất tận.
Vì có cội nguồn cung cấp thường xuyên, nước sông, nước suối chảy cuồn cuộn
khơng ngừng nghỉ đêm ngày, phóng ra bốn biển mà chẳng cạn. Còn như nước
mưa vào dịp tháng bảy, tháng tám mỗi năm, tuy gây ra ngập lụt lênh láng
nhưng chẳng bao lâu cũng rút hết. Lý do là nước mưa khơng có cội nguồn như
nước sơng, nước suối.
Con người cũng vậy. Nếu chịu khó học hành tu tập lâu ngày trau giồi tài
đức, người ta mới có một nguồn tài đức dồi dào để giúp dân, giúp nước khơng
cạn. Nếu khơng có nguồn tài đức, mà được danh tiếng một thời, cái danh
tiếng ấy chỉ là hư danh mà khơng có tình thực; chẳng bao lâu, hư danh tan
đi, sự bất tài vô đức mới lộ ra. Trước tình cảnh ấy, người quân tử lấy làm xấu
hổ. Vì vậy, người qn tử ln ln tu tập để có tài đức đích thực.
19.
孟子曰:人之所以異於禽獸者,幾希,庶民去之,
君子存之。舜明於庶物,察於人倫;由仁義行,非
行仁義也。
Mạnh Tử viết: “Nhân chi sở dĩ dị ư cầm thú giả, cơ hy. Thứ dân khử chi;
quân tử tồn chi. Thuấn minh ư thứ vật, sát ư nhân luân, do nhân nghĩa
hành; phi hành nhân nghĩa dã.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Con người sở dĩ khác với cầm thú, hầu như là ít. Người
thường bỏ mất, người quân tử giữ gìn. Vua Thuấn làm sáng tỏ mọi sự
vật, xét rõ về luân lý làm người, thi hành nhân nghĩa một cách an vui,
chẳng phải miễn cưỡng thi hành nhân nghĩa.”
BÌNH GIẢI:
Mạnh Tử cho rằng con người khác với cầm thú chỉ ít thơi. Cái điều khác
nhau đó là nhân nghĩa. Một cách vắn gọn, nhân nghĩa là coi trọng phẩm giá
người khác, cư xử với người khác tốt đẹp như cư xử với chính mình. Người
772
MẠNH TỬ
thường thì bỏ mất nhân nghĩa, người quân tử thì giữ gìn nhân nghĩa. Người
bỏ mất nhân nghĩa khơng khác gì cầm thú.
Ơng nêu ra một tấm gương: vua Thuấn làm sáng tỏ mọi việc, mọi vật, xét
rõ về luân lý làm người, cư xử với mọi người theo đức nhân, đức nghĩa. Ông
thi hành nhân nghĩa một cách an nhiên, bởi vì ơng biết nhân nghĩa gắn liền
với tính phận con người; ơng khơng phải gắng gượng, miễn cưỡng làm việc
nhân nghĩa. Miễn cưỡng làm việc nhân nghĩa tức là coi nhân nghĩa ở ngồi
tính phận con người.
20.
孟子曰:禹惡旨酒而好善言。湯執中,立賢無方。
文王視民如傷,望道而未之見。武王不泄邇,不忘
遠。
周公思兼三王,以施四事。其有不合者,仰而思
之,夜以繼日;幸而得之,坐以待旦。
Mạnh Tử viết: “Vũ ố chỉ tửu, nhi hiếu thiện ngôn. Thang chấp trung,
lập hiền vô phương. Văn Vương thị dân như thương, vọng đạo nhi vị chi
kiến. Vũ Vương bất tiết nhĩ, bất vong viễn.
“Chu Công tư kiêm tam vương, dĩ thi tứ sự. Kỳ hữu bất hợp giả, ngưỡng
nhi tư chi, dạ dĩ kế nhật. Hạnh nhi đắc chi, tọa dĩ đãi đán.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Vua Vũ (Hạ) ghét rượu ngon mà ưa thích lời nói phải. Vua
Thang nắm giữ mực trung, đặt người tài đức không kể địa phương. Vua
Văn Vương xem dân như người bị thương, hướng về đạo lý coi như chưa
được thấy. Vua Vũ Vương khơng khinh dễ người gần, khơng bỏ qn kẻ
xa.
“Ơng Chu Công nghĩ ngợi gồm thu cả ba đời vua, thi hành cả bốn cơng
việc của các vua ấy. Có điều gì khơng phù hợp, thì ngửa mặt lên mà
suy nghĩ, đêm kế tiếp ngày. May mắn mà đạt được thì ngồi chờ cho đến
sáng.”
BÌNH GIẢI:
Tương truyền rằng vua Vũ nhà Hạ nếm rượu ngon của Nghi Địch mà sợ
có ngày vì rượu mất nước; nên xa lánh, ghét bỏ rượu ngon. Ơng chỉ thích
nghe lời nói phải. Vua Thành Thang nhà Thương thì ln tránh hai đầu mối
773
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
cực đoan thái quá và bất cập, chỉ nắm giữ mực trung trong chính sách cai
trị. Ơng cắt đặt người tài đức trong chức vụ lãnh đạo mà khơng xét tới địa
phương, gia thế, gốc tích. Chu Văn Vương hết lòng thương dân, xem dân như
kẻ bị thương cần được săn sóc, cho nên hằng lo lắng cho dân được ấm no, n
ổn. Ơng ln ln hướng về đạo lý, quý trọng đạo lý như chưa được thấy bao
giờ. Chu Vũ Vương thì chu đáo chiếu cố tới cả người gần lẫn kẻ xa, khơng bỏ
sót, khinh dễ ai.
Ơng Chu Cơng, em ruột của Vũ Vương mới là một nhà chính trị gương
mẫu lỗi lạc. Ơng nghĩ ngợi để tổng hợp tất cả những cái hay trong phép cai trị
của ba triều đại: Hạ Vũ, Thành Thang, Văn Vương, Vũ Vương và đem ra thực
hành những công việc trong chính sách của bốn vị vua ấy. Tuy nhiên ơng lại
cân nhắc, thấy điều gì khơng cịn hợp thời thì ra cơng suy nghĩ, rút ưu khuyết
điểm, chỉnh sửa các đường lối cai trị cũ, chẳng quản ngại nhọc mệt đêm ngày.
Khi may mắn đạt được phương thức hành động thích hợp, ơng qn cả ngủ,
ngồi chờ cho tới sáng để đem ra thi hành.
21.
孟子曰:王者之跡熄而詩亡,詩亡然後春秋作。
晉之乘,楚之梼杌,魯之春秋,一也。其事則齊
桓,晉文,其文則史。孔子曰:“其義則丘竊取之
矣。”
Mạnh Tử viết: “Vương giả chi tích tức, nhi Thi vong. Thi vong, nhiên
hậu Xuân Thu tác. Tấn chi Thặng, Sở chi Đào Ngột, Lỗ chi Xuân Thu,
nhất dã. Kỳ sự, tắc Tề Hoàn, Tấn Văn. Kỳ văn, tắc sử. Khổng Tử viết:
‘Kỳ nghĩa, tắc Khâu thiết thủ chi hỹ.’”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Dấu vết của các bậc vương đã bặt, mà những bài ca dao
cổ đã mất. Những bài ca dao cổ mất đi, sau đó sách Xuân Thu được viết
ra. Sách Thặng của nước Tấn, sách Đào Ngột của nước Sở, sách Xuân
Thu của nước Lỗ là một loại. Những việc trong đó (Xn Thu) nói về Tề
Hồn Cơng, Tấn Văn Cơng. Lời văn của sách ấy là lối văn sử. Khổng Tử
nói: ‘Ý nghĩa của sách ấy, thì Khâu này lấy theo ý riêng.’”
BÌNH GIẢI:
Vào khoảng năm 770 trước Cơng Ngun, vua Chu Bình Vương, vì tránh
người Tây Khương quấy phá, phải dời đơ sang Lạc Ấp ở miền Đơng, thì nhà
774
MẠNH TỬ
Chu suy. Những cách cai trị nhân chính của Văn Vương, Vũ Vương khơng cịn
được áp dụng; do đó, dấu vết của các bậc vương đã dứt bặt. Trong dân gian,
những bài ca dao cổ (Thi) nói về đạo lý cũng bị lãng quên (vong).
Những bài ca dao cổ ấy trước kia có tới 3000 bài. Sau này, Khổng Tử sao
chép, tuyển chọn được trên 300 bài, tạo thành Kinh Thi, đem giảng dạy cho
các đệ tử. Bởi vì những bài ca dao cổ bị mất, mất luôn những lời răn dạy
đạo lý, cho nên Khổng Tử mới viết Kinh Xuân Thu để lập lại giềng mối đạo
lý trong xã hội. Xuân Thu (mùa xuân và mùa thu) là mùa gieo và mùa gặt,
chỉ sinh hoạt của con người trong đời. Tương tự như thế, nước Tấn có sách
Thặng. Sách Thặng như một cỗ xe chuyên chở những chuyện tích từ đời nọ
sang đời kia. Nước Sở có sách Đào Ngột. Sách Đào Ngột kể về sự bạo tàn, tai
ngược (như giống ác thú) của các vua đời trước. Cả hai sách ấy cùng với Kinh
Xuân Thu của nước Lỗ đều là một loại như nhau, nói về những sự việc trong
các triều đại xưa.
Kinh Xuân Thu nói về những việc cai trị của các vua trong một giai đoạn
lịch sử Trung Hoa cổ dài gần 300 năm (từ đời Lỗ Ẩn Cơng đến đời Lỗ Ai
Cơng); trong đó có chép những việc cai trị của hai vị bá chủ đáng lưu ý là: Tề
Hồn Cơng và Tấn Văn Công. Văn của Kinh Xuân Thu là lối văn viết sử biên
niên, diễn tiến theo thứ tự thời gian từng năm. Còn về ý nghĩa, Khổng Tử đã
đem quan điểm đạo lý của riêng mình để chọn lựa và phê phán các sự kiện
diễn ra trong thời đại ấy (thiết thủ). Sự phê phán, khen chê, được đặt kín đáo
trong từng chữ đặc biệt. Ví dụ: Thiên tử chết được dùng chữ “băng”; vua chư
hầu chết được dùng chữ “hoăng”; vua cướp ngơi, tiếm vị chết thì chép là “tồ”;
quan liêm chính chết được chép là “tốt”; quan gian nịnh chết thì chép là “tử”.
Do đó, Khổng Tử đã từng nói: “Tri ngã giả, kỳ duy Xuân Thu hồ? Tội ngã
giả, kỳ duy Xuân Thu hồ? (Biết ta, chỉ riêng bởi kinh Xuân Thu chăng? Kết
tội ta, chỉ riêng bởi kinh Xuân Thu chăng?)
22.
孟子曰:君子之澤,五世而斬;小人之澤,五世而
斬。
予未得為孔子徒也,予私淑諸人也。
Mạnh Tử viết: “Quân tử chi trạch, ngũ thế nhi trảm; tiểu nhân chi trạch,
ngũ thế nhi trảm.
“Dư vị đắc vi Khổng Tử đồ dã; dư tư thục chư nhân dã.”
775
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Ân đức của bậc quân tử, năm đời mới dứt; ân đức của
người thường, năm đời mới dứt.
“Ta chưa được làm môn đồ của Khổng Tử; riêng ta được tốt lành nhờ vào
các vị khác.”
BÌNH GIẢI:
Ở đây, “quân tử” chỉ nhà cầm quyền có tài đức; “tiểu nhân” chỉ người có tài
đức nhưng không ở địa vị cầm quyền. Mạnh Tử cho rằng ân đức của hai loại
người trên đều gây ảnh hưởng tới năm đời, tức năm thế hệ.
Trong vòng ảnh hưởng của ân đức năm đời, Mạnh Tử xác nhận rằng riêng
ông cũng được hưởng sự tốt lành do các vị tiền bối truyền lại, mặc dù ông
chưa được làm môn đồ của Khổng Tử. Ân đức của Khổng Tử đã thấm nhuần
tới ông qua các vị tiền bối là: Tăng Tử, Tử Tư (Khổng Cấp) và môn đồ của Tử
Tư. Như thế, đạo lý của Khổng Tử truyền tới Mạnh Tử mới là bốn đời.
23.
孟子曰:可以取,可以無取,取傷廉。可以與,可
以無與,與傷惠。可以死,可以無死,死傷勇。
Mạnh Tử viết: “Khả dĩ thủ, khả dĩ vô thủ, thủ thương liêm. Khả dĩ dữ,
khả dĩ vô dữ, dữ thương huệ. Khả dĩ tử, khả dĩ vơ tử, tử thương dũng.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Có thể lấy, có thể khơng lấy, lấy thì hại đến đức liêm
chính. Có thể cho, có thể khơng cho, cho thì hại đến đức ban ơn. Có thể
chết, có thể khơng chết, chết thì hại đến đức mạnh mẽ.”
BÌNH GIẢI:
Mạnh Tử nêu ra ba trường hợp có thể xảy đến cho người học đạo quân tử.
Trường hợp thứ nhất: Giả như có ai cho ta cái gì. Ban đầu ta định lấy, sau
đó suy nghĩ lại, ta thấy khơng nên lấy. Nếu vì tham lam ta lấy cái đó; như thế
việc lấy này làm hại đến đức liêm chính. Liêm chính là tính trong sạch, ngay
thẳng. Đức liêm chính cần thiết cho người làm quan.
Trường hợp thứ hai: Giả như ta định cho ai cái gì. Ban đầu ta định cho;
sau đó, suy nghĩ lại, người ấy khơng đáng cho. Đem cho sẽ khiến người ấy
thêm biếng lười, ỷ lại, không chịu phấn đấu. Nghĩ vậy, nhưng rồi ta lại đem
776
MẠNH TỬ
cho. Như vậy, việc cho này làm hại đến đức ban ơn. Ban ơn là một đức tính
tốt, nhưng chỉ nên ban ơn cho những người nghèo khó, thiếu thốn, cho những
người lập được công trạng với quốc gia. Lạm dụng sự ban ơn thì hao tốn và
làm hư hỏng người được ban.
Trường hợp thứ ba: Giả như ta gặp một cơn nguy biến. Ban đầu ta định
liều thân chết vì ai đó hay vì điều gì đó; nhưng rồi, kịp nghĩ lại, ai đó khơng
đáng cho ta hy sinh, điều gì đó khơng phải lý tưởng cần được bảo vệ; vì thế
khơng nên chết. Tuy thế, sau đó ta lại liều thân chịu chết. Như thế, sự chết
này làm hại đến đức mạnh mẽ. Đức mạnh mẽ đích thực chỉ chấp nhận chết
để bảo vệ lý tưởng cao cả. Cịn liều thân bỏ phí sự sống là cái dũng mãnh bồng
bột vơ ích của kẻ thất phu.
24.
逢蒙學射於羿,盡羿之道,思天下惟羿為愈己,於
是殺羿。
孟子曰:是亦羿有罪焉。
公明儀曰:宜若無罪焉?
曰:薄乎云爾,惡得無罪?
鄭人使子濯孺子侵衛,衛使庾公之斯追之。子濯孺
子曰:“今日我疾作,不可以執弓,吾死矣夫!”
問其仆曰:“追我者誰也?”其仆曰:“庾公之斯
也。”曰:“吾生矣。”其仆曰:“庾公之斯,衛
之善射者也,夫子曰吾生,何謂也?”曰:“庾公
之斯學射於尹公之他,尹公之他學射於我。夫尹公
之他,端人也,其取友必端矣。”
庾公之斯至,曰:“夫子何為不執弓?”
曰:“今日我疾作,不可以執弓。”
曰:“小人學射於尹公之他,尹公之他學射於夫
子。我不忍以夫子之道,反害夫子。雖然,今日之
事,君事也,我不敢廢。”
抽矢叩輪,去其金,發乘矢而後反。
777
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
Bàng Mơng học xạ ư Nghệ, tận Nghệ chi đạo. Tư thiên hạ, duy Nghệ vi
dũ kỷ, ư thị sát Nghệ.
Mạnh Tử viết: “Thị diệc Nghệ hữu tội yên.”
Công Minh Nghi viết: “Nghi nhược vô tội yên.”
Viết: “Bạc hồ vân nhĩ. Ơ đắc vơ tội!
“Trịnh nhân sử Tử Trạc Nhụ tử xâm Vệ. Vệ sử Dữu Công Chi Tư truy
chi. Tử Trạc Nhụ tử viết: ‘Kim nhật ngã tật tác, bất khả dĩ chấp cung;
ngô tử hỹ phù.’ Vấn kỳ bộc viết: ‘Truy ngã giả, thùy dã?’ Kỳ bộc viết:
‘Dữu Công Chi Tư dã.’ Viết: ‘Ngô sinh hỹ.’ Kỳ bộc viết: ‘Dữu Công Chi
Tư, Vệ chi thiện xạ giả dã. Phu tử viết: Ngô sinh. Hà vị dã?’ Viết: ‘Dữu
Cơng Chi Tư học xạ ư Dỗn Cơng Chi Tha. Dỗn Cơng Chi Tha học xạ ư
ngã. Phù, Dỗn Cơng Chi Tha, đoan nhân dã. Kỳ thủ hữu tất đoan hỹ.’
“Dữu Cơng Chi Tư chí, viết: ‘Phu tử hà vi bất chấp cung?’
“Viết: ‘Kim nhật ngã tật tác, bất khả dĩ chấp cung.’
“Viết: ‘Tiểu nhân học xạ ư Dỗn Cơng Chi Tha. Dỗn Cơng Chi Tha học
xạ ư phu tử. Ngã bất nhẫn dĩ phu tử chi đạo phản hại phu tử. Tuy nhiên,
kim nhật chi sự, quân sự dã. Ngã bất cảm phế.’
“Trừu thỉ khấu luân, khử kỳ kim, phát thặng thỉ nhi hậu phản.”
Dịch nghĩa:
Bàng Mông học bắn cung với Nghệ, học hết kỹ thuật của Nghệ. Nghĩ
rằng trong thiên hạ chỉ có Nghệ hơn mình; thế là giết Nghệ.
Mạnh Tử nói: “Đó là Nghệ cũng có tội.”
Cơng Minh Nghi nói: “Xem ra vơ tội.”
Mạnh Tử nói: “Nhẹ hơn mà thơi. Vơ tội sao được!
778
“Người nước Trịnh khiến Tử Trạc Nhụ Tử xâm lấn nước Vệ. Nước Vệ
khiến Dữu Công Chi Tư ra đuổi. Tử Trạc Nhụ Tử nói: ‘Hơm nay, ta mắc
bệnh, khơng thể cầm cung được; ta chết mất thôi.’ Bèn hỏi kẻ cầm cương
rằng: ‘Đuổi ta là ai vậy?’ Kẻ cầm cương nói: ‘Dữu Cơng Chi Tư đó.’ Tử
Trạc nói: ‘Ta sống rồi.’ Kẻ cầm cương nói: ‘Dữu Cơng Chi Tư là tay bắn
giỏi của nước Vệ. Ngài nói: Ta sống rồi là nghĩa làm sao?’ Đáp: ‘Dữu
Công Chi Tư học bắn cung với Dỗn Cơng Chi Tha. Dỗn Cơng Chi Tha
học bắn cung với ta. Này, Dỗn Cơng Chi Tha là người ngay thẳng. Ông
ấy kén bạn ắt ngay thẳng vậy.’
MẠNH TỬ
“Dữu Cơng Chi Tư tới, nói: ‘Ngài sao chẳng cầm cung?’
“Đáp: ‘Hôm nay ta mắc bệnh, không thể cầm cung được.’
“Dữu Cơng nói: ‘Kẻ hèn này học bắn cung với Dỗn Cơng Chi Tha. Dỗn
Cơng Chi Tha học bắn cung với ngài. Tôi không nỡ lấy kỹ thuật của ngài
mà hại trở lại ngài. Tuy nhiên, việc hôm nay là việc của vua. Tôi không
dám bỏ.’
“Bèn rút tên ra, gõ vào bánh xe, bỏ mũi kim khí, bắn bốn mũi tên, rồi
quay ra sau.”
BÌNH GIẢI:
Nghệ tức là Hậu Nghệ, vua nước Hữu Cùng, một chư hầu của nhà Hạ, vào
khoảng thế kỷ thứ 23 trước Công nguyên. Tương truyền, Hậu Nghệ là nhân
vật thiện xạ đệ nhất thời Thượng Cổ ở Trung Hoa, đã truyền kỹ thuật bắn
cung cho Bàng Mông. Bàng Mông muốn trở nên vô địch thiên hạ, cho nên đã
giết Hậu Nghệ.
Bàn về chuyện này, Mạnh Tử cho rằng Hậu Nghệ cũng có tội; tuy tội Hậu
Nghệ nhẹ hơn tội của Bàng Mông. Tội của Bàng Mơng là tội bất nhân bất
nghĩa, phản thầy. Cịn tội của Hậu Nghệ là tội khơng đoan chính. Vì sống
khơng đoan chính cho nên Hậu Nghệ đã khơng tìm người đoan chính để
truyền dạy thuật bắn cung. Tục ngữ gọi là: “Nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong
nhà.”
Để minh chứng cho Cơng Minh Nghi về luận điểm của mình, Mạnh Tử
nêu ra trường hợp của Tử Trạc Nhụ Tử trong thời Xuân Thu.
Tử Trạc Nhụ Tử dạy thuật bắn cung cho Dỗn Cơng Chi Tha. Dỗn Cơng
Chi Tha là người đoan chính; do đó biết chọn đệ tử đoan chính là Dữu Công
Chi Tư mà truyền thuật bắn cung.
Trên chiến trường tại nước Vệ, Tử Trạc Nhụ Tử gặp Dữu Cơng Chi Tư là
kẻ đối đầu với mình. Dữu Cơng Chi Tư là người đoan chính, cho nên đã khơng
nỡ bắn chết Tử Trạc Nhụ Tử trong lúc ông này mắc bệnh, không thể sử dụng
cung tên được. Mặc dầu Tử Trạc Nhụ Tử không phải là thầy của Dữu Công
Chi Tư, nhưng ông này vẫn nhớ cái ơn dạy dỗ của Tử Trạc Nhụ Tử gián tiếp
truyền đến mình. Do đó, Dữu Cơng Chi Tư chỉ dùng tên khơng mũi nhọn để
bắn tượng trưng vào xe của Tử Trạc Nhụ Tử mà thơi. Vì mệnh lệnh vua nước
Vệ mà Dữu Cơng Chi Tư phải bắn tên; vì nhớ mình là đồ tôn của Tử Trạc Nhụ
Tử mà Dữu Công Chi Tư tha chết cho Tử Trạc Nhụ Tử. Đó là cách xử lý vừa
trọn tình vẹn nghĩa, vừa thi hành bổn phận của người quân tử đoan chính.
779
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
Kết cuộc, nước Vệ khơng bị xâm lấn, nước Trịnh rút quân về; hai nước gạt
được oán thù và giữ được hồ khí vậy.
25.
孟子曰:西子蒙不潔,則人皆掩鼻而過之。
雖有惡人,齋戒沐浴,則可以祀上帝。
Mạnh Tử viết: “Tây tử mông bất khiết, tắc nhân giai yếm tỵ nhi quá chi.
“Tuy hữu ác nhân, trai giới, mộc dục, tắc khả dĩ tự Thượng Đế.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Nàng Tây tử tối tăm nhơ nhuốc thì người ta đều bịt mũi
mà đi qua.
“Tuy nhiên có kẻ [dung mạo] xấu xí mà giữ giới chay tịnh, tắm gội, thì
vẫn tế cúng Thượng Đế được.”
BÌNH GIẢI:
Tây tử tức là nàng Tây Thi, người đẹp nhất nước Việt ở thôn Trữ La vào
thời Xuân Thu. Bấy giờ, nước Việt bị nước Ngô đánh bại, vua Việt là Câu Tiễn
và Tể tướng Phạm Lãi phải dùng mỹ nhân kế, dâng Tây Thi cho vua Ngô Phù
Sai. Ngô Phù Sai xây Cô Tô đài cho người đẹp ở và say mê nàng, bỏ bê việc
triều chính. Sau khi nước Ngơ bị phá, tương truyền Tây Thi được Phạm Lãi
đón đi ngao du Ngũ hồ. Vì vậy, hậu thế đã chê Tây Thi là người tối tăm nhơ
nhuốc.
Mạnh Tử là nhà đạo đức nên cũng không chấp nhận chuyện đó; và cho
rằng người xấu xí mà giữ tâm hồn thanh khiết, thân thể trong sạch vẫn có
giá trị hơn người đẹp, bởi vì người ấy có thể được Thượng Đế chấp nhận trong
chức năng tế tự.
26.
孟子曰:天下之言性也,則故而已矣。故者,以利
為本。所惡於智者,為其鑿也。如智者,若禹之行
水也,則無惡於智矣。禹之行水也,行其所無事
也。如智者亦行其所無事,則智亦大矣。
780
MẠNH TỬ
天之高也,星辰之遠也,茍求其故,千歲之日至,
可坐而致也。
Mạnh Tử viết: “Thiên hạ chi ngơn tính dã, tắc cố nhi dĩ hỹ. Cố giả dĩ lợi
vi bản. Sở ố ư trí giả, vị kỳ tạc dã. Như trí giả nhược Vũ chi hành thủy
dã, tắc vơ ố ư trí hỹ. Vũ chi hành thủy dã, hành kỳ sở vơ sự dã. Như trí
giả diệc hành kỳ sở vơ sự, tắc trí diệc đại hỹ.
“Thiên chi cao dã, tinh thần chi viễn dã, cẩu cầu kỳ cố, thiên tuế chi
nhật chí, khả toạ nhi trí dã.”
Dịch nghĩa:
Mạnh Tử nói: “Thiên hạ nói về tính, ấy là nói về bản năng vốn có mà
thơi. Cái bản năng vốn có lấy lợi làm gốc. Chỗ đáng ghét của kẻ trí là sự
xuyên tạc của họ. Kẻ trí nếu như giống vua Vũ khai thơng nước chảy,
thì đâu có ai ghét kẻ trí. Vua Vũ khai thơng nước chảy đã tiến hành một
cách tự nhiên (vơ sự). Giả như kẻ trí cũng tiến hành cơng việc một cách
tự nhiên, thì điều trí của họ thật lớn lao.
“Bầu trời cao cả, các vì sao xa xơi, ví bằng đi tìm ngun cớ của trời sao,
thì cái ngày đơng chí của một ngàn năm có thể ngồi mà thấu đáo được.”
BÌNH GIẢI:
Theo sách Trung dung, tính là Thiên mệnh; đó là thực thể tinh tuyền tiên
thiên của Trời trao cho con người trong buổi ban sơ. Tính ấy vốn tốt lành. Tuy
nhiên, cái tính mà thiên hạ hay nói tới, ở đây Mạnh Tử gọi là “cố”, lại là tính
hậu thiên; đó là bản năng động vật vốn có của con người trong trần gian. Cái
bản năng vốn có ấy theo thời gian đã bị mù quáng vì điều lợi, và lấy lợi làm
gốc. Kẻ trí là người khơn ngoan xảo quyệt bị chi phối bởi điều lợi cho nên phát
triển mạnh cái tính hậu thiên hám lợi đó. Vì vậy, họ có thể xun tạc sự thật,
có thể nói những điều khơng hợp nghĩa lý, nói những lời ngụy biện cốt để thủ
lợi. Đó là chỗ đáng ghét của kẻ trí.
Nếu như kẻ trí biết bắt chước ơng Vũ ngày xưa khi khai thơng cho nước
chảy thì hay biết mấy; ai có thể ghét sự trí xảo của họ được? Ơng Vũ khi còn
làm quan dưới triều vua Thuấn, đã được cử đi trị thủy, khai kênh, mở rạch
để cho dân có đất cày cấy, có đường để đi, tránh nạn sình lầy, ngập lụt. Ông
Vũ đã thuận theo qui luật tự nhiên của nước, xoi đất cho nước chảy từ cao
xuống thấp, dẫn nước chỗ sình vào vùng khơ cạn, hay đưa nước ra sông, ra
biển. Công việc của ông Vũ thuận theo qui luật tự nhiên cho nên không phải
tốn công sức nhiều; ngài không vẽ việc (vô sự), do đó khơng phí sức của dân
781
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
chúng. Giả như kẻ trí cũng tiến hành công việc một cách tự nhiên như vậy,
không cưỡng ép, khơng gị bó, khơng dối trá, khơng cản trở để cầu lợi riêng,
thì điều trí của họ sẽ đưa tới thành quả lớn lao biết bao cho xã hội. Chẳng
những vận dụng điều trí theo qui luật tự nhiên có thể xây dựng nước nhà, có
thể tạo nên phúc lợi cho tồn dân, mà cịn có thể vận dụng sự khơn ngoan ấy
để tìm hiểu qui luật huyền vi của vũ trụ.
Kìa bầu trời kia cao rộng biết bao, các vì sao xa xơi biết bao! Tuy nhiên cả
cái vũ trụ bao la ấy đều tuân theo qui luật vận hành tự nhiên của Thượng
Đế. Nếu kẻ trí biết suy tư và sống trong qui luật tự nhiên thì có thể ngồi ngay
tại nhà mình mà thấu đáo được diễn tiến tuần tiết của thời gian, tiêu biểu
bằng ngày đơng chí vào mỗi năm. Đơng chí (ngày ngắn nhất, đêm dài nhất)
là ngày cuối của thời âm khí cực thịnh bước sang ngày của thời dương khí bắt
đầu phát triển. Đã biết được qui luật của một năm, người ta có thể biết được
qui luật chung của cả nghìn năm trong vũ trụ.
27.
公行子有子之喪,右師往吊。入門,有進而與右師
言者,有就右師之位而與右師言者。孟子不與右師
言。
右師不悅曰:諸君子皆與驩言,孟子獨不與驩言,
是簡驩也。
孟子聞之,曰:禮:朝庭不歷位而相與言,不逾階
而相揖也。我欲行禮,子敖以我為簡,不亦異乎?
Công Hàng Tử hữu tử chi tang. Hữu sư vãng điếu. Nhập môn, hữu tiến
nhi dữ Hữu sư ngôn giả. Hữu tựu Hữu sư chi vị, nhi dữ Hữu sư ngôn giả.
Mạnh Tử bất dữ Hữu sư ngôn.
Hữu sư bất duyệt viết: “Chư quân tử giai dữ Hoan ngôn. Mạnh Tử độc
bất dữ Hoan ngôn. Thị giản Hoan dã.”
Mạnh Tử văn chi, viết: “Lễ, triều đình bất lịch vị nhi tương dữ ngôn; bất
du giai nhi tương ấp dã. Ngã dục hành lễ, Tử Ngao dĩ ngã vi giản, bất
diệc dị hồ?”
Dịch nghĩa:
Cơng Hàng Tử có đám tang con. Quan Hữu sư đến viếng tang. Bước vào
cửa, có một số quan tiến tới nói chuyện với quan Hữu sư. Có những vị
782