Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.81 KB, 8 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Cuộc khủng hoảng này, xảy ra trong cuộc đời
của Tolstoi vào cuối những năm 70 thế kỷ
XIX, tái hiện trong tác phẩm “Tự bạch” được
viết ngay sau đó. Sự xác thực hồn tồn của
những gì được kể ở đây, thái độ chân thành
tuyệt đối của người kể, thể hiện ngay ở lối kể,
ở hành văn xa lạ với mọi thứ hoa hịe hoa sói
của thuật viết văn, mọi thủ pháp hướng tới
hiệu quả tức thì của nghệ thuật hùng biện đã
làm cho tác phẩm này trở thành vừa một tài
liệu nhân học đáng tin cậy bậc nhất, vừa một
kỳ đài vơ tiền khống hậu của tư tưởng và
nghệ thuật ngôn từ con người.
Tolstoi kể, và chúng ta tin ông, rằng vào tuổi
năm mươi, thân thể cịn tràn đầy sinh lực, trí
tuệ cịn rất mực minh mẫn, hạnh phúc trong
đời riêng, giàu có và được xã hội trọng vọng
và như một người cầm bút đã đạt được vinh
quang tồn cầu, ơng bỗng nhận thấy cuộc đời
của mình là vơ nghĩa hồn tồn trước viễn
cảnh của cái chết không thể tránh khỏi. Cái
chết sẽ cào bằng tất cả, tước giá trị của tất cả
và hủy tiêu tất cả.
Đáng để ý là Tolstoi không dành ngoại lệ cho những trước tác văn học của mình, đang
được cả thế giới văn minh tán thưởng. Mọi sản phẩm của con người đều bất tồn và sớm
hay muộn đều chìm xuống dịng sơng qn lãng. Triển vọng được hưởng vẻ vang trong
hậu thế của Shakespeare, Goethe, Molière tuyệt không quyến rũ Tolstoi.
Nhưng ông không đặt vấn đề về sự bất tử của con người và loài người, như Dostoievski
từng làm, như Vladimir Soloviev, triết gia Nga trẻ hơn ông và hay tranh luận ngầm với
ông, đương làm. Câu hỏi Tolstoi đặt ra là liệu có tìm được hay khơng trong cuộc sống
phù du, nay còn mai mất của con người một ý nghĩa mà cái chết cũng không tiêu hủy
được? Cách đặt vấn đề như thế, không cao vọng như ở Dostoievski và Soloviev, bám sát
thân phận hữu tử khơng có ngoại lệ của tất cả mọi người trên trái đất, một cách tự nhiên
dẫn dắt tác giả “Tự bạch” đến sự khảo sát đời sống tâm linh, tín ngưỡng của các giới xã
hội đương thời với ơng. Và từ sự khảo sát ấy ông đi đến một nhận định đáng mừng vui
cho mình, nó giúp ơng từng bước chiến thắng nỗi tuyệt vọng và ý muốn tự sát.
Tolstoi nhận ra rằng nếu trong các tầng lớp xã hội thượng lưu, dưới cái vỏ tồn tịng bất
biến của đạo Kitơ chính thống được xem là quốc hồn quốc túy, đức tin tôn giáo thực thụ
đã biến mất, nhường chỗ cho sự thờ ơ phổ biến hay sự trọng lễ vụ lợi đi đôi với thái độ
phủ định mọi ý nghĩa siêu tại của cuộc sống con người, thì trong quần chúng nhân dân
lao động đức tin ấy, cùng với niềm tin son sắt vào ý nghĩa của cuộc sống vẫn được bảo
tồn khơng suy xuyển. Tin yêu nhân dân lao động, Tolstoi tiếp nhận tôn giáo của họ,
nhận thức của họ về ý nghĩa của nhân sinh và cảm thấy mình thốt khỏi khủng hoảng tinh
thần, nhận ra được “đường sống” chính thực. Cần phải tin vào Thượng Đế (Thiên Chúa),
cần phải sống trong Chúa và vì Chúa, như tất cả những tín đồ chân chính của đạo Kitơ
-đó là tín niệm mà Tolstoi đã đi đến.
Tostoi tại điền trang của mình
Hành trình tư tưởng của Tolstoi, như nó được tái tạo trong “Tự bạch”, là khá điển hình
cho giới trí thức q tộc Nga thế kỷ XIX đã cống hiến cho văn hóa thế giới nhiều nhân
trung ương của tồn bộ sáng tác chín muồi của Dostoievski, cả văn học lẫn nghị luận.
Cho đến khi Dostoievski qua đời những tương đồng trong tư tưởng giữa ông với Tolstoi
nhiều hơn là những dị biệt, chính điều đó đã khiến Tolstoi phải xót xa đến thế trước sự ra
đi của Dostoievski (xem thư của ông gửi N.N. Strakhov đề ngày 5 tháng Hai 1881). Điểm
tương đồng chính, quan trọng hơn cả là cái mà sau này Tolstoi sẽ gọi là “nhân sinh quan
thượng đế luận”, nó được thấu triệt như nhau bởi cả Tolstoi lẫn Dostoievski và làm cho
hai thiên tài Nga này khác biệt đến thế các văn hào Tây Âu thế kỷ XIX, với thế giới quan
ít nhiều bị thế tục hóa nơi họ. Đối với tư duy thế tục hóa, cái thực tại xã hội ln ln xấu
xa tồi tệ hiện ra trước mắt người cầm bút dễ có thiên hướng bị xem là thực tại duy nhất
mà ngồi ra nó khơng có và khơng thể có một thực tại nào khác, nhưng đồng thời những
mục tiêu đấu tranh trước mắt, nhất thời và cục bộ, lại dễ thu lượm tầm quan trọng, ý
nghĩa của những mục đích cuối cùng.
Thế giới quan “thượng đế luận”, được hấp thụ triệt để và có ý thức, đã giúp Dostoievski
và Tolstoi tránh khỏi cả hai kiểu nông cạn ấy, đạt tới những chiều sâu vô song trong tư
duy nghệ thuật, đồng thời cũng giúp họ trong hoạt động xã hội với tư cách những nhà tư
tưởng khơng ngừng nâng mình lên tầm cao của những lợi ích chân chính, những giá trị
trường cửu của toàn thể nhân loại và dưới ánh sáng của chúng mà nhìn nhận, đánh giá tất
cả những gì diễn ra trong thời đại của mình, ở đất nước mình, nhờ đó mà khơng chỉ
những kiệt tác văn chương, mà cả những tác phẩm nghị luận của họ không mất đi ý nghĩa
cho đến tận hôm nay.
địa chất học, nào thiên văn học, khơng nói đến những ngành khoa học xã hội mà ơng cho
là chỉ có hại: luật học, kinh tế chính trị học, khoa học quân sự, khoa học tài chính, v.v…;
ơng chế diễu chua cay những thành tựu mới nhất của công nghệ: đường sắt, điện tín, điện
ảnh, hàng khơng, bất chấp sự có lợi đập vào mắt của chúng…
Cũng một lập trường bài bác như thế Tolstoi - bậc vương giả trong sáng tạo nghệ thuật đã
ai chứng minh điều đó.
Những người làm khoa học và nghệ thuật cũng ở trong những điều kiện như thế. Thế thì
tại sao lại xảy ra cái chuyện là có những người bằng mọi sức lực cố gắng chứng minh sự
hữu ích của mình?
Khoa học chân chính và nghệ thuật chân chính mn thuở tồn tại và sẽ tồn tại muôn thuở,
tựa như tất cả các dạng thức khác của hoạt động con người và không thể và sẽ là vô bổ
tranh luận hay chứng minh về sự cần thiết của chúng.
Cái vai trò giả dối hiện nay của khoa học và nghệ thuật trong xã hội của chúng ta phát
sinh từ chỗ những người gọi là có học, đứng đầu là các nhà khoa học và nghệ sĩ, hợp
thành một đẳng cấp đặc quyền đặc lợi, tựa như các vị linh mục. Và đẳng cấp này có tất cả
những khuyết tật vốn là thuộc tính của mọi đẳng cấp. Khuyết tật của đẳng cấp là nó làm
bẩn và hạ thấp cái ngun tắc mà vì nó đẳng cấp ấy được tổ chức. Thay vì tơn giáo chân
chính ta có ngụy tơn giáo. Thay vì khoa học thực thụ - ngụy khoa học. Cũng là như thế
với nghệ thuật. Khuyết tật của đẳng cấp cịn ở chỗ nó gây áp lực đối với quần chúng và
ngoài ra còn cướp đi nơi họ cái mà trước kia được dự định quảng bá giữa họ”.
Tolstoi đã không sống đến ngày khoa học và nghệ thuật bị nhà nước hay các tập đoàn tư
bản lũng đoạn mua, những người làm khoa học và nghệ thuật trở thành những kẻ làm
thuê, ngoan ngoãn thực hiện mọi đơn đặt của những thế lực ấy. Ơng sẽ nói gì trước
những bom ngun tử, bom hóa học, bom vi trùng, trước vơ vàn những tượng, tranh, bài
hát, trường ca và tiểu thuyết tôn vinh Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông và nhiều nhân vật
lịch sử đáng chê trách khác? Và cả trước những thế giới ảo trên mạng Internet, những thử
nghiệm nhân bản vơ tính ngày nay? Hay trước cơng nghiệp điện ảnh Holiwood và nhạc
pop mê hoặc khán giả, thính giả toàn thế giới?
Cương quyết khơng đồng tình với óc sùng bái khoa học, với niềm cả tin rằng khoa học sẽ
khám phá mọi bí ẩn của thế giới, giải quyết mọi vấn đề của xã hội lồi người, cùng với
cơng nghệ đem đến cho nó hạnh phúc mn đời, Tolstoi cũng trong thư này gọi niềm tin
ấy là “một mê tín khổng lồ mà chúng ta đang rơi vào ngay sau khi giải phóng mình khỏi
cái mê tín cũ vào nhà thờ”. Và ông đối lập cái mê tín ấy với sự minh triết mà con người
cần phải hướng tới.
“Minh triết con người khơng nằm trong sự nhận thức các sự vật. Có hằng hà sa số những
học nhân văn so với khoa học tự nhiên và trong khoa học nhân văn - quyền ưu tiên của
đạo đức học. Và trong bối cảnh của thế giới ngày nay, trước những hậu quả tiêu cực
khủng khiếp của tiến bộ khoa học - cơng nghệ, trước sự suy thối ghê gớm của đạo đức
cá nhân và xã hội, sự ưu thắng hiển nhiên của cái ác dưới mọi biểu hiện, từ thô bạo nhất
đến tinh vi nhất, từ lộ liễu nhất đến trá hình nhất và những thắng lợi cịn q đỗi nhỏ nhoi
và khơng bền vững tí nào của cái thiện, lẽ nào có thể vẫn khăng khăng phủ nhận lẽ phải
minh triết của Tolstoi?
Và đối chiếu những yêu cầu của Tolstoi đối với nghệ thuật (hiểu theo nghĩa rộng), trong
đó u cầu chính là hết lịng phụng sự cái hữu thiện hữu đức, cái phù hợp với ý chí của
Thượng Đế và lợi ích của cả lồi người, với con đường mà nghệ thuật thế giới đã đi trong
hơn một thế kỷ qua - con đường của sự hoặc biến mình thành cơng cụ phục vụ các chính
thể chiến thắng, trong đó có chính thể khó đối đầu hơn cả của xã hội đại chúng; hoặc
ngạo nghễ hay đau khổ khép mình trong tháp ngà của những tìm tịi hình thức, những
cách tân vì cách tân dẫn đến vị trí q ư khơng hệ trọng của nghệ thuật trong thế giới
ngày nay - lẽ nào lại cũng không thừa nhận là chính đáng và nhìn xa thấy trước những
khuyến dụ và cảnh báo xưa cũ của Tolstoi và không phải một mình ơng?
<i>(Cịn tiếp) </i>