Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Giáo án môn Ngữ văn khối 11 - Một số hiểu biết chung về nghị luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.71 KB, 15 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>MỘT SỐ HIỂU BIẾT CHUNG VỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI I. NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LÀ GÌ? Theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt, “nghị luận” là dùng lí luận để phân tích ý nghĩa trái phải, bàn bạc, mở rộng vấn đề. Còn “xã hội” trước hết là một tập thể người cùng sống, gắn bó với nhau trong quan hệ sản xuất và các quan hệ khác. Cũng có thể hiểu “xã hội” là những gì thuộc về quan hệ giữa người và người về các mặt chính trị, kinh tế, triết học, lịch sử, văn học, ngôn ngữ,…. Từ đó có thể hiểu nghị luận xã hội là thể văn hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội. Mục đích cuối cùng của nó là tạo ra những tác động tích cực đến con người và những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. II. YÊU CẦU CỦA MỘT BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 1. Đảm bảo kĩ năng nghị luận nói chung: tập trung hướng tới luận đề để bài viết không tản mạn, có ý thức triển khai thành những luận điểm chặt chẽ, nhất quán, tìm được những dẫn chứng xác đáng, giàu sức thuyết phục. 2. Đảm bảo về kiến thức mang màu sắc chính trị – xã hội: những hiểu biết về chính trị – pháp luật, những kiến thức cơ bản về truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, tâm lí – xã hội, …, những tin tức thời sự cập nhật… 3. Đảm bảo mục đích, tư tưởng đúng đắn: phải xuất phát từ một lập trường tư tưởng tiến bộ, cao đẹp, vì con người, vì sự tiến bộ chung của toàn xã hội… để bàn bạc, phân tích, khen chê và đề xuất ý kiến. III. CÁC DẠNG ĐỀ NLXH CHÍNH VÀ CÁCH LÀM BÀI Đề NLXH trong nhà trường phổ thông có ba dạng chính: - Bàn về một vấn đề tư tưởng, đạo lí thông qua những nhận xét, phán đoán về tinh thần, tình cảm, tư tưởng, đạo lí, lối sống,… - Bàn về một hiện tượng, con người, sự việc có thật trong cuộc sống ở mọi phương diện, mọi khía cạnh của nó. - Bàn về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Mỗi dạng bài lại có những đòi hỏi và phương pháp triển khai riêng. 1. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí 1.1. Đặc điểm dạng đề nghị luận về một tư tưởng, đạo lí Đối với HS trong nhà trường phổ thông, do tâm lí, lứa tuổi, tầm nhận thức nên những vấn đề đặt ra để bàn luận không phải là những vấn đề quá phức tạp, lớn lao mà chỉ là những khía cạnh đạo đức, tư tưởng, tình cảm gắn liền với cuộc sống hằng ngày như tình cảm quê hương, gia đình, bạn bè, ý. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> thức trách nhiệm, tinh thần học tập, phương pháp nhận thức,…. Những vấn đề này có thể đặt ra một cách trực tiếp, nhưng thường là được gợi mở qua một câu danh ngôn (tục ngữ, ca dao, câu nói của các bậc hiền triết, các lãnh tụ, các nhà văn hóa, khoa học, nhà văn nổi tiếng,…). Hãy đọc các đề văn sau đây: Đề 1: Nói về chuyện học, tục ngữ có câu: “Học thầy không tày học bạn”, lại có câu: “Không thầy đố mày làm nên”. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào trước những lời khuyên này? Đề 2: Ý nghĩa và bài học rút ra từ câu nói của nhà văn Lép Tôn-xtôi: “Điều quan trọng không phải là biết quả đất tròn mà là bằng cách nào để biết quả đất tròn”. Đề 3: Học ở trường và học từ cuộc sống, cách học nào quan trọng hơn? Đề 4: Những con đường để làm giàu trí tuệ cho chính bản thân mình. Đề 5: Nghĩ về đạo lí: “Thương người như thể thương thân” (tục ngữ) và phẩm chất tinh thần cao đẹp của Hồ Chí Minh: “Nâng niu tất cả chỉ quên mình” (Tố Hữu) Đề 6: Một bà mẹ khuyên con: “Con ơi, con phải luôn ghi nhớ: tay trái của người là tay phải của mình”. Anh (chị) hiểu lời khuyên trên như thế nào? Bài học đạo lí rút ra từ lời khuyên ấy? Đề 7: Phải chăng “Cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống”? (Theo Noóc-man Ku-sin, Những vòng tay âu yếm, NXB Trẻ, 2003) Đề 8: Có phải “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi thiếu tình thương”? Đề 9: Nghĩ về sức mạnh tinh thần. Đề 10: Phải chăng “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh là kẻ biết nâng kẻ khác trên đôi vai của chính mình” như một nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao đã từng tâm sự? Đề 11: Nghĩ về câu ca dao: Yêu nhau yêu dấu chân đi Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng. Đề 12: Thế nào là một người bạn chân chính? Đề 13: Chọn cho mình một quan niệm về bạn trong các quan niệm sau và lí giải vì sao mình chọn quan niệm đó. - Bạn thân là người cùng chung hoạt động, hứng thú, sở thích,… - Bạn thân là người gần gũi, dễ hiểu, dễ tâm sự. - Bạn thân là người luôn bênh vực, bao che cho mình. - Bạn thân là người luôn quan tâm, giúp đỡ mình. - Bạn thân là người dễ thông cảm, biết chia sẻ buồn vui.. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Bạn thân là người có cá tính trái ngược, bổ sung cho mình. - Bạn thân là người sống trước sau như một với mình. - Bạn thân là người biết giữ lời hứa và kín đáo. Đề 14: Suy nghĩ và bình luận quan niệm về bạn thân sau đây của một blogger: “Thực sự, khi ở bên cạnh bạn thân, tôi có thể là chính mình, được sống thật với lòng mình, và là những giây phút vui vẻ nhất, cùng tranh luận, cùng cười, và cũng có thể cùng khóc. Tôi và nó dường như chưa giận nhau bao giờ, người ta bảo, có giận nhau mới hiểu nhau thêm. Có thể, câu nói đó đúng, nhưng, với tôi, và nó, có giận nhau cũng không quá được nửa ngày, có gì, lại gọi điện cho nhau luôn. Thật sự, tôi tìm được mình, tìm được niềm vui khi ở bên đứa bạn thân. Tôi có thể chia sẻ mọi điều, mà không sợ sẽ bị cười, không lo sẽ bị chế giễu. Tôi có thể khóc mà không ngại, có thể nói mà không sợ phê phán, không sợ chỉ trích. Tôi được là mình, là tôi. Và nó cũng vậy. Dù bây giờ, có thể, ta chưa tìm được một người bạn thân, theo đúng nghĩa, thì sau này, hay một lúc nào đó, ta cũng sẽ có được một người bạn bên ta những lúc ta buồn, ta cô đơn nhất, những lúc mà dường như cả thế giới rời xa ta, nhưng ta vẫn biết rằng, ta có bạn bên cạnh. Chỉ thế thôi, đã là hạnh phúc lắm rồi. Mà để có được niềm hạnh phúc ấy, ta phải mở lòng mình, phải chia sẻ, nếu ta cứ khép kín, thì ta sẽ chẳng bao giờ có được một người bạn thực sự”. (Theo Xitrum.net) Đề 15: Các đoạn văn sau đều nói lên quan niệm về bạn. Anh (chị) thích hoặc không thích quan niệm nào? Hãy phát biểu suy nghĩ của mình về quan niệm đó. a. Một người bạn là người mà bạn yêu quý. Bạn quan tâm đến người đó và nghĩ tới họ ngay cả khi họ không ở bên cạnh bạn. Bạn nhớ ngay đến họ khi nhìn thấy một thứ mà họ có thể thích, và bạn biết rõ thứ gì mà họ thích, vì bạn rất hiểu họ. Đó là người mà bạn giữ ảnh trong ví, hoặc trong ngăn bàn, nhưng cho dù không có ảnh thì khuôn mặt người đó vẫn luôn ở trong tâm trí bạn. b. Một người bạn là người mà khi ở cạnh họ, bạn thấy an toàn, vì bạn biết họ luôn luôn quan tâm đến bạn. Họ gọi điện cho bạn vào lúc nửa đêm chỉ để hỏi xem bạn có khỏe không và … đã đi ngủ chưa vì một người bạn không cần lời thanh minh nào cả. Họ nói thật và bạn cũng làm như vậy đối với họ. Bạn biết rằng nếu bạn gặp vấn đề gì, họ sẽ luôn luôn có mặt để lắng nghe. c. Một người bạn không cười vào những sai lầm của bạn và không làm bạn bị tổn thương. Và nếu họ có chẳng may làm bạn bị tổn thương thì họ sẽ cố gắng để bù đắp. Họ là người mà bạn thực sự yêu quý, dù bạn có thường. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> xuyên nhận ra điều đó hay không, dù bạn có thường xuyên nói điều đó với họ hay không. d. Một người bạn là người mà bạn sẽ ôm và khóc khi bạn bị trượt đại học, hay khi tốt nghiệp với số điểm cao, hay khi chia tay với bạn trai hoặc bạn gái. Họ là người mà khi bạn ôm họ hoặc nắm tay họ, bạn sẽ không nghĩ đến việc ôm hoặc nắm tay trong bao lâu thì đúng phép lịch sự, hoặc ai nên là người buông ta ra trước. e. Một người bạn là người ngăn bạn đừng phạm sai lầm và giúp bạn nếu bạn chẳng may sai sót. Họ là người mà bạn có thể nói bất kì điều gì, có thể ôm hôn mà không cảm thấy kì cục, vì họ hiểu những điều bạn làm và yêu quý bạn vì những điều đó. g. Một người bạn luôn ở bên cạnh bạn. Họ nắm tay bạn. Họ dõi theo cuộc sống của bạn ngay cả khi bạn ở rất xa, và bạn học từ họ. Cuộc sống của bạn sẽ không bao giờ như cũ nếu một ngày bạn mất đi một người bạn. (Theo Songda.com.vn) 1.2. Cách làm dạng đề nghị luận về một tư tưởng, đạo lí Đối với dạng đề nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, để giải quyết vấn đề, ta cần lưu ý cách xem xét nó từ nhiều góc độ. Cách đơn giản nhất là thử đặt ra và trả lời những câu hỏi. Sau đây là một số dạng câu hỏi chính: - Nó là gì? - Nó như thế nào? - Vì sao lại như thế? - Được thể hiện trong cuộc sống và văn học ra sao? - Như thế thì có ý nghĩa gì với cuộc sống, với con người, với bản thân? Từ việc đặt ra và trả lời các câu hỏi, có thể hình dung một bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí thường được triển khai theo ba bước cơ bản: - Giải thích khái niệm (từ ngữ, hình ảnh,…) - Phân tích, lí giải - Bình luận, đánh giá Cụ thể là: Bước 1: Giải thích khái niệm Tùy theo từng yêu cầu cụ thể mà mức độ và cách giải thích có thể sẽ khác nhau. Chẳng hạn, với câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu “Hỏi thời ta phải nói ra/ Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”, điều cần giải thích trước hết là khái niệm ghét và thương rồi trên cơ sở đó giải thích, cắt nghĩa nội dung ý thơ Nguyễn Đình Chiểu. Với lời dạy của Phật “Giọt nước chỉ hòa vào giữa biển cả mới không cạn mà thôi”, trước hết cần xác định nghĩa đen của những từ giọt nước, biển cả, không cạn rồi suy luận ra nghĩa bóng. Với quan niệm của Trịnh Công Sơn: “Sông vẫn chảy đời sông, suối vẫn trôi đời suối, sống trên đời cần có một tấm lòng, dù chỉ là để gió cuốn đi”, cần lần lượt giải. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> thích các mệnh đề, các hình ảnh sông vẫn chảy đời sông, suối vẫn trôi đời suối, tấm lòng, cần có tấm lòng, tấm lòng để gió cuốn đi để trên cơ sở đó xác định chính xác nội dung thông điệp được gửi gắm trong câu nói. Có những đề bài, khâu giải thích có thể làm rất gọn gàng, đơn giản, nhất là khi trong yêu cầu, nhận định không có những khái niệm phức tạp, khó hiểu hay những hình ảnh có khả năng khơi gợi những tư tưởng sâu xa. Thế nhưng lại có những đề bài, khâu giải thích cần làm rất công phu. Chẳng hạn với quan niệm của Viên Mai: “Làm người không thể không phân biệt giữa nhu mì và nhu nhược, giữa cứng cỏi và cường bạo, giữa tiết kiệm và keo kiệt, giữa trung hậu và khờ khạo, giữa sáng suốt và cay nghiệt, giữa tự trọng và tự đại, giữa khiêm tốn và hèn hạ. Mấy cái đó hình như giống nhau mà thực khác nhau”, có rất nhiều mệnh đề cần giải thích như làm người, phân biệt cường bạo và cứng cỏi, nhu mì và nhu nhược, keo kiệt và tiết kiệm, tự trọng và tự đại, trung hậu và khờ khạo, khiêm tốn và hèn hạ, sáng suốt và cay nghiệt,…. Bởi vì nếu không giải thích tường tận những mệnh đề ấy sẽ không xác định nổi ý nghĩa, phạm vi nghĩa trong quan điểm của Viên Mai. Bước 2: Phân tích, lí giải Bản chất của thao tác này là giảng giải nghĩa lí của vấn đề được đặt ra để làm sáng tỏ bản chất vấn đề cùng với các khía cạnh, các mối quan hệ của nó. Phần này thực chất là trả lời câu hỏi: Tại sao? Vì sao? Để làm được việc này, chúng ta cần tách vấn đề thành các khía cạnh nhỏ để xem xét, nghiên cứu. Cách đơn giản nhất là đặt ra các câu hỏi để khảo sát, tìm hiểu. Muốn đặt ra được những câu hỏi thực sự cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu của đề, cần làm thật tốt khâu giải thích để xác định chính xác vấn đề mà đề bài đặt ra cùng với các khía cạnh, phương diện của nó. Chỉ khi ấy mới có thể xác định được những gì cần lí giải cho vấn đề trở nên sáng tỏ, rõ ràng. Chẳng hạn với vấn đề nhận thức đặt ra trong quan niệm của J. Houston “Chúng ta sẽ nắm được 10% những gì đọc được, 15% những gì nghe thấy và 80% những gì tự trải nghiệm” thì sau khi giải thích để xác định rằng chúng ta chỉ nắm được phần nhỏ những gì mình đọc được, nghe thấy và sẽ nắm được phần lớn những gì tự trải nghiệm, chúng ta có thể đặt ra những câu hỏi sau: - Vì sao chúng ta chỉ tiếp thu được một phần nhỏ những gì đọc được, nghe thấy? - Vì sao chúng ta sẽ nắm được phần lớn những gì tự trải nghiệm? Việc suy nghĩ tìm câu trả lời sẽ giúp ta tháo gỡ dần để tiếp cận và nắm vững bản chất vấn đề. Với câu hỏi thứ nhất, chúng ta cần thấy rõ những khía cạnh sau:. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> - Vì mỗi chúng ta chỉ có một giới hạn về năng lực, một giới hạn về chuyên môn và một giới hạn về phạm vi hiểu biết nên không phải những gì ta đọc được, nghe thấy đều có khả năng hiểu và nắm bắt hết được. - Vì trong trường hợp đó, sự tiếp thu của chúng ta chỉ là tiếp thu một cách gián tiếp qua hiểu biết, nhận thức, cách nhìn và cách lí giải của người khác. - Vì khi những gì đọc được, nghe thấy mà chưa có sự kiểm nghiệm trong thực tế thì ý nghĩa giá trị của nó chưa thể bộc lộ rõ ràng, trọn vẹn. Với câu hỏi thứ hai, chúng ta cần thấy rõ những khía cạnh sau: - Vì khi tự trải nghiệm, chúng ta sẽ nắm bắt trực tiếp vấn đề trong ý nghĩa thực tế của nó. - Khi tự trải nghiệm, dù thành công hay thất bại, ta cũng có được những kinh nghiệm thực tế để giải quyết vấn đề. - Khi tự trải nghiệm, ta sẽ phải vận dụng toàn bộ năng lực, hiểu biết trong quá trình tích lũy trước đó để ứng phó, xử lí với tình huống cụ thể. Đó chính là điều kiện để ta nắm bắt nó một cách trọn vẹn hơn. Bước 3: Bình luận, đánh giá Đây là phần việc để HS bộc lộ nhận thức về vấn đề ở mức độ cao nhất, cũng là phần việc khó khăn nhất đối với nhiều HS. Vì vậy, trước hết chúng ta cần đánh giá vấn đề ở các bình diện, khía cạnh khác nhau: ý nghĩa tư tưởng, ý nghĩa thực tế, mức độ đúng – sai, đóng góp – hạn chế, … Từ sự đánh giá trên các bình diện, ta cần nhìn nhận giá trị của vấn đề như một bài học kinh nghiệm trong cuộc sống cũng như trong học tập, trong nhận thức cũng như trong tình cảm, tư tưởng để tự mình bồi đắp, nâng cao kinh nghiệm sống, kinh nghiệm ứng xử trong đời sống. Ngoài ra, tùy theo yêu cầu và tính chất cụ thể của từng đề bài mà HS có thể bổ sung, thêm bớt các phần khác nhau như: liên hệ, mở rộng; rút ra bài học. Phần này nên có trong những đề bài đề cập đến những vấn đề gắn liền hoặc gần gũi với đời sống của lứa tuổi HS. Ví dụ: phương pháp học tập, tích lũy kiến thức, quan hệ bạn bè, cách sống và cách ứng xử,…. Ở những đề bài như thế, việc liên hệ, mở rộng cũng chứng tỏ mức độ hiểu và khả năng cảm nhận vấn đề của HS. Hoặc có thể không có phần giải thích khái niệm (từ ngữ) nếu thấy không cần giải thích gì…. Tóm lại, mô hình ý và bố cục bài viết trên đây chỉ là một cách, trong khi triển khai có thể linh hoạt đề xuất ra nhiều ý và bố cục khác, miễn là làm sáng tỏ được vấn đề và có sức thuyết phục cao. 2. Nghị luận về một hiện tượng đời sống 2.1. Đặc điểm dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống.. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Khác với dạng đề bàn về một tư tưởng, đạo lí, dạng đề này thường nêu lên một hiện tượng có thật trong đời sống. Đó có thể là một hiện tượng tích cực, nhưng cũng có thể là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội, hoặc một hiện tượng có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực,…. Như thế đòi hỏi người viết, bằng nhận thức của bản thân, phải thể hiện được chủ kiến của mình, bằng phân tích và lập luận để ca ngợi và biểu dương cái đẹp, cái tốt, cái thiện (chân, thiện, mĩ) và lên án, vạch trần cái xấu, cái ác, cái phi nhân, …. Tất nhiên những hiện tượng đời sống nêu trong các đề văn dạng này vừa phải gần gũi với tuổi trẻ học đường vừa phải có ý nghĩa lớn lao đối với cả cộng đồng dân tộc và thế giới. Hãy đọc một số đề văn sau đây: Đề 1: Sành điệu đâu phải là hư hỏng! Bạn nghĩ sao? Đề 2: Việt Nam đang loạn thi hoa hậu! Đề 3: Ô nhiễm môi trường: không phải chỉ có ở thành phố. Đề 4: Phố cổ – nên bảo tồn, xây lại mới hay một phương án nào khác tốt hơn? Đề 5: Người Việt trẻ hiện nay đang ngày càng không thích đọc sách. Đề 6: Bạn có thích học Lịch sử? Đề 7: An toàn thực phẩm hay tặc lưỡi cho qua? Đề 8: Mặc áo dài truyền thống đến trường hay mang đồng phục mới? Đề 9: Tai nạn giao thông – hậu quả, nguyên nhân và hướng khắc phục. Đề 10: Đội mũ bảo hiểm đi trong thành phố! Đề 11: Có nên dẹp bỏ hàng quán vỉa hè? Đề 12: Game online: tốn thời gian và vô bổ, bạn nghĩ sao? Đề 13: Chợ quê và siêu thị. Đề 14: Dụ lịch: nên đi theo tour hay “đi bụi”? Đề 15: Thanh niên có nên ra thành phố lập nghiệp? Đề 16: “Vật chất” có làm nên con người bạn? Đề 17: Bạn nghĩ gì về du học và học trong nước? Đề 18: Ăn mặc có nói lên cá tính của bạn? Đề 19: Phim Việt và phim ngoại. Đề 20: Học đại học hay học nghề? 2.2. Cách làm dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống Nhìn chung, đề tìm ý cho dạng đề này vẫn là người viết biết đặt ra và trả lời các câu hỏi có ý nghĩa xung quanh vấn đề trọng tâm mà đề yêu cầu. Các câu hỏi và nội dung trả lời cũng có thể sắp xếp theo ba bước: - Giới thiệu thực trạng - Phân tích và bình luận nguyên nhân – kết quả (hậu quả) - Đề xuất ý kiến (giải pháp) Cụ thể là: Bước 1: Giới thiệu thực trạng. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Để luyện tập viết các bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống, trước hết cần biết nhận diện hiện tượng ấy (sự việc, con người): các biểu hiện, các dạng tồn tại, thậm chí cần cả những số liệu cụ thể. Thực hiện thao tác này đòi hỏi HS một sự hiểu biết và quan tâm đến các vấn đề đang tồn tại trong đời sống xã hội hiện nay. Nghĩa là không phải đợi tới lúc nhận đề bài mới tìm hiểu mà HS nên có sự chuẩn bị từ trước bằng việc chú ý nghe thời sự hằng ngày, cập nhật thông tin về các vấn đề trong nước cũng như quốc tế. Tất nhiên không phải hiện tượng nào cũng được đặt ra trong các đề NLXH mà phải là những gì có ý nghĩa sâu sắc, tạo ảnh hưởng rộng và thường là ảnh hưởng xấu đến đời sống cộng đồng và cuộc sống của chính lứa tuổi HS: ô nhiễm môi trường, an toàn giao thông, các căn bênh xã hội như HIV/AISD, các tệ nạn như nghiện ma túy, mại dâm, các thói quen xấu như ham mê Internet, hút thuốc lá, quay cóp bài trong giờ kiểm tra,…. Tất nhiên, cũng có khi người ra đề đưa ra những hiện tượng có ảnh hưởng tích cực làm đề tài bàn luận như việc triển khai quỹ “Vì người nghèo”, sự trở lại với trào lưu sống giản dị, phong trào thanh niên tình nguyện hay những tấm gương hiếu thảo, vượt khó của thanh thiếu niên,…. Khi phản ánh thực trạng, ta cần đưa ra những con số, những thông tin cụ thể, tránh lối nói chung chung, mơ hồ vì chính sự cụ thể của thông tin sẽ tạo ra tính thuyết phục cho những ý kiến đánh giá sau đó. Chẳng hạn, muốn bàn về tình trạng ô nhiễm nguồn nước, cần tìm thông tin về những con sông đang bị ô nhiễm nặng nhất, mức độ ô nhiễm cụ thể, các loại chất gây ô nhiễm hiện có mặt có trong nguồn nước sông,…. Muốn bàn về nạn bạo hành với phụ nữ, cần tìm hiểu xem trong xã hội hiện tại, người phụ nữ phải đối mặt với những kiểu (dạng) bạo hành như thế nào, tỉ lệ phụ nữ phải sống chung với nạn bạo hành, … Bước 2: Phân tích và bình luận nguyên nhân – kết quả (hậu quả) Sau khi xác định rõ thực trạng, cần phân tích hiện tượng ở các mặt nguyên nhân, hậu quả và cố gắng tìm ra các giải pháp để giải quyết thực trạng đó. Việc này không quá khó. Chỉ cần chú ý một chút đến cách nói của các phóng viên, bình luận viên trên các báo, đài, chú ý quan tâm đến dự luận xã hội và chịu khó tìm hiểu cuộc sống xung quanh mình là HS sẽ làm được. Tuy nhiên, khi nghe và tiếp nhận thông tin, dư luận, cần có sự tỉnh táo để xem xét, chọn lọc và xử lí đích đáng trên cơ sở hiểu biết và cố gắng xây dựng một lập trường tư tưởng vững vàng, tránh chạy theo dư luận không chính thống mà dẫn tới chủ quan, hồ đồ khi phân tích, đánh giá hiện tượng. Lưu ý là khi phân tích nguyên nhân, nên chú ý tới các mặt khách quan – chủ quan. Chẳng hạn, với hiện tượng tai nạn giao thông thì nguyên nhân khách quan là do hệ thống giao thông còn nhiều bất cập (cách phân luồng, phân tuyến, hệ thống biển báo chỉ dẫn, chất lượng của phương tiện tham gia giao thông,…), nguyên nhân chủ quan là người tham gia giao thông chưa ý thức. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> đầy đủ về trách nhiệm, chưa nắm vững pháp luật, chưa chú ý đúng mức tới vấn đề an toàn,…. Khi đánh giá hậu quả, cần xem xét ở các phạm vi cá nhân – cộng đồng, hiện tại – tương lai,…. Ví dụ: nạn bạo hành phụ nữ gây hậu quả nghiêm trọng không chỉ với chính người phụ nữ về sức khỏe cũng như tâm lí mà còn ảnh hưởng đến toàn xã hội trong cả quá trình phát triển lâu dài; hiện tượng nghiện Internet không chỉ làm hao tổn về sức lực, tiền của, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách cá nhân mà còn tạo mầm mống cho những bất ổn trong xã hội. Bước 3: Đề xuất ý kiến (giải pháp) Sau khi phân tích và bình luận nguyên nhân – kết quả, thường là phần nêu, đề xuất giải pháp khắc phục. Trước hết cần phải xem lại phần nguyên nhân vì nó chính là gợi ý tốt nhất để tìm ra các giải pháp khắc phục. Chẳng hạn một trong những nguyên nhân của nạn bạo hành phụ nữ là nhận thức về bình đẳng giới thì một trong những giải pháp khắc phục tình trạng này là tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức và ý thức về bình đẳng giới cho cộng đồng; nguyên nhân của tai nạn giao thông là do người tham gia giao thông chưa có ý thức trách nhiệm, chưa nắm vững luật pháp và chưa chú ý đầy đủ đến sự an toàn thì một trong những giải pháp có thể thực hiện là tuyên truyền, giáo dục về an toàn giao thông, xây dựng chế tài xử phạt đối với những trường hợp vi phạm an toàn giao thông… Về cơ bản, bài nghị luận về hiện tượng đời sống cần là sự bộc lộ vốn hiểu biết và lập trường, thái độ của người viết về hiện tượng được nêu. Vì vậy, bên cạnh việc nắm vững các bước trong quá trình làm bài, người viết còn cần thể hiện tiếng nói cá nhân và quan điểm đánh giá thật rõ ràng, sắc sảo thì bài viết mới có tính thuyết phục. 3. Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học 3.1. Đặc điểm dạng đề NL về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học Đây là dạng đề tổng hợp, đòi hỏi HS kiến thức về cả hai mảng văn học và đời sống, cũng đòi hỏi cả kĩ năng phân tích văn học và kĩ năng phân tích, đánh giá các vấn đề xã hội. Nghĩa là có thể kiểm tra được người viết về cả kiến thức văn học và kiến thức đời sống. Đề thường xuất phát từ một vấn đề xã hội giàu ý nghĩa có trong một tác phẩm văn học nào đó để yêu cầu HS bàn bạc rộng ra vấn đề xã hội đó. Vấn đề xã hội được bàn bạc có thể rút ra từ một tác phẩm văn học đã học trong chương trình nhưng cũng có thể từ một câu chuyện chưa được học (thường là một câu chuyện ngắn gọn, giàu ý nghĩa). Hãy đọc các đề văn sau đây: Đề 1: Từ tình yêu Kinh Bắc của Hoàng Cầm trong bài thơ Bên kia sông Đuống, bàn về tình yêu quê hương, đất nước.. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Đề 2: Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu và bài học: Sống cần có nghĩa, có tình thủy chung trọn vẹn. Đề 3: Bài học về cuộc sống được rút ra từ hai câu thơ của Chế Lan Viên trong bài Tiếng hát con tàu: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn” Đề 4: Từ quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích Đất nước đến quan niệm của anh (chị). Đề 5: Từ quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh trong bài thơ Sóng hãy phát biểu những suy nghĩ của anh (chị) về đề tài này. Đề 6: Từ bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy, nhớ và nghĩ về những kỉ niệm tuổi thơ. Đề 7: Từ nghịch cảnh của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ), bàn về nỗi khổ của những con người không được sống đúng là mình. Đề 8: Hình tượng cây Xà nu trong tác phẩm Rừng Xà nu của Nguyễn Trung Thành gợi cho anh (chị) những suy nghĩ gì về lí tưởng và nhân cách của tuổi trẻ trong cuộc sống? Đề 9: Ông lão trong Ông già và biển cả của Hê-minh-uê gợi cho anh (chị) những suy nghĩ gì về niềm tin và nghị lực trong cuộc sống? Đề 10: Từ cuộc đời của nhân vật Xô-cô-lốp trong Số phận con người của M. Sô-lô-khốp, nghĩ về những mất mát và nỗi đau do chiến tranh để lại. Đề 11: Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa và những suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề bạo lực trong gia đình. Đề 12: Những suy nghĩ của anh (chị) về bài học được rút ra từ câu chuyện sau: TRƯỚC KIA VÀ BÂY GIỜ Một lần đi thăm một thầy giáo lớn tuổi, trong lúc tranh luận về quan điểm sống, một sinh viên đã nói: - Sở dĩ có sự khác biệt là vì thế hệ các thầy sống trong những điều cũ kĩ của một thế giới lạc hậu, ngày nay chúng em được tiếp xúc với những thành tựu khoa học tiên tiến hơn nhiều, thế hệ các thầy đâu có máy tính, không có Internet, vệ tinh viễn thông và các thiết bị thông tin hiện đại như bây giờ… Người thầy giáo trả lời: - Những phương tiện hiện đại giúp chúng ta nhưng không làm thay đổi chúng ta. Còn điều em nói là đúng. Thời trẻ, những người như chúng tôi không có những thứ em vừa kể nhưng chúng tôi đã phát minh ra chúng và đào tạo nên những con người kế thừa và áp dụng chúng. Cậu sinh viên chợt cúi đầu, im lặng. (Theo Hạt giống tâm hồn, tập 5, NXB Tổng hợp TP. HCM). Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Đề 13: Suy nghĩ của anh (chị) về ý nghĩa của câu chuyện sau: “Ở Palestine có hai biển. Một biển nước ngọt có nhiều đàn cá tung tăng. Ven bờ là một màu xanh tươi tắn. Cây cối trải cành nhánh bên trên và đâm sâu rễ và lòng biển để hút lấy nguồn nước trong lành. Con sông Jordan tạo thành biển này với dòng nước lấp lánh chảy xuống từ những ngọn đồi. Chim chóc tụ về. Biển reo cười trong ánh nắng. Con người đến đây và xây tổ ấm trong những ngôi nhà ven biển. Đó là biển Galilee. Rồi sông Jordan chảy về hướng Nam đổ vào một biển khác. Ở đây không có cá, không có cây xanh, không có tiếng chim, không có du khách. Không ai dám uống dòng nước ở đó. Điều gì tạo ra sự khác biệt? Không phải vì con sông Jordan, bởi nó đều rút vào cả hai cùng một dòng nước ngọt ngào. Không phải do địa thế, cũng không vì điều kiện xung quanh. Sự khác biệt là ở chỗ biển Galilee đón nhận nhưng không giữ lại cho riêng mình dòng nước trong lành của sông Jordan, biển Galilee cho và sống. Biển kia ích kỉ hơn. Nó không chia sẻ bất kì giọt nước nào mà nó được nhận cho ai cả. Biển kia không cho đi. Nó được gọi tên là Biển Chết” (Theo Hạt giống tâm hồn, tập 6, NXB Tổng hợp TP.HCM) Đề 14: Đọc truyện cười sau, từ đó phát biểu những suy nghĩ của anh (chị) về việc cho và nhận trong cuộc sống hằng ngày. CỨU NGƯỜI CHẾT ĐUỐI Một anh chàng nọ, tính tình keo kiệt. Một hôm đi đò chẳng may anh ta lộn cổ xuống sông. Trong lúc nguy nan, một người ngồi bên cạnh hét lên: - Đưa tay cho tôi! Anh chàng dưới sông vẫn ngụp lặn không chịu đưa tay ra. Một người khác, có vẻ quen biết người bị nạn, chạy lại và nói: - Cầm lấy tay tôi! Tức thì anh chàng dưới sông vội đưa ngay cả hai tay ra và được kéo lên. Thoát chết, mọi người ngạc nhiên. Người vừa kéo anh ta lên giải thích: “Sở dĩ tôi nói thế là biết tính anh ta luôn muốn “cầm lấy” của người khác chứ không bao giờ chịu “đưa” cái gì cho mọi người”. (Theo Truyện vui chữ nghĩa, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1996) Đề 15: Đọc truyện Ba câu hỏi sau đây và viết bài theo yêu cầu nêu ở dưới. “Ngày nọ, có một người đến gặp nhà triết học Sô-cơ-rát (Hi Lạp) và nói: Ông có muốn biết những gì tôi mới nghe được về người bạn của ông không? – Chờ một chút – Sô-cơ-rát trả lời – trước khi kể về người bạn tôi, anh nên suy nghĩ một chút và vì thế tôi muốn hỏi anh ba điều. Thứ nhất: Anh có hoàn toàn chắc chắn rằng những điều anh sắp kể là đúng sự thật không?. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> - Ồ, không – Người kia nói – Thật ra tôi chỉ nghe nói về điều đó thôi và … - Được rồi – Sô-cơ-rát nói – Bây giờ điều thứ hai: Có phải anh sắp nói những điều tốt đẹp về bạn tôi không? - Không, mà ngược lại là … - Thế à – Sô-cơ-rát tiếp tục, câu hỏi cuối cùng: Tất cả những điều anh sắp nói về bạn tôi sẽ thật sự cần thiết cho tôi chứ? - Không, cũng không hoàn toàn như vậy. - Vậy đấy – Sô-cơ-rát quay sang người khách và nói: “…” (theo Phép mầu nhiệm của đời, NXB Trẻ, TP. HCM, 2004) Theo anh (chị), Sô-cơ-rát sẽ nói tiếp với người khách như thế nào? Hãy bình luận về bài học rút ra từ câu chuyện trên. 3.2. Cách làm dạng đề nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học Vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học có thể là một vấn đề tư tưởng, đạo lí, nhưng cũng có thể là một hiện tượng cuộc sống đáng ca ngợi hay phê phán. Như thế để làm loại đề này, người viết nên tiến hành hai bước: - Giới thiệu và phân tích vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học (gọi tắt là bước Giới thiệu và phân tích) - Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Trong hai bước trên, trọng tâm bài viết thuộc về bước 2, vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học chỉ là cái cớ, như là đề tài để người viết bàn bạc, trao đổi, mở rộng, nâng cao,… ở phần 2. Cụ thể là: Bước 1: Giới thiệu và phân tích Để làm dạng bài này, người viết trước hết phải nêu và phân tích làm rõ vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cùng với các khía cạnh, các phương diện biểu hiện của nó. Chẳng hạn, trong SGK Ngữ văn 11 Nâng cao có đề bài sau: Từ bài thơ “Tiến sĩ giấy” của nhà thơ Nguyễn Khuyến, anh (chị) hãy viết bài văn bàn về danh và thực trong cuộc sống hiện nay. Với đề bài này, trước hết cần phân tích sơ lược bài thơ Tiến sĩ giấy để xác định vấn đề mà Nguyễn Khuyến đặt ra là sự mâu thuẫn giữa cái danh tiến sĩ với cái thực tầm thường, thấp kém về cả năng lực và vai trò của ông tiến sĩ trong xã hội đương thời khiến cho cái danh tiến sĩ cao quý là thế lại hóa thành giả dối, đáng khinh và những nỗ lực học hành để cầu chút công danh lại hóa thành đáng thương, thảm hại. Sau khi đã xác định chính xác vấn đề xã hội, cần xem xét ý nghĩa của nó ở thời điểm tác phẩm ra đời. Bài thơ Tiến sĩ giấy ra đời vào thời kì đất nước đã rơi vào họa xâm lăng, bút nghiên, chữ nghĩa của ông tiến sĩ không đủ để cứu nước, cứu đời, tài cán của ông tiến sĩ không. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> đủ để đuổi giặc. Đó là chưa kể đến chuyện xã hội giao thời lố lăng, chuyên mua quan bán tước chả khác chi mua bán những món hàng thông thường thì cái danh tiến sĩ lại càng không đáng giá. Từ đó mới dẫn dắt để chuyển sang phần 2: Nghị luận về ý nghĩa của vấn đề đó với cuộc sống hôm nay. Bước 2: Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm Khi bàn về vấn đề trong mối liên hệ với cuộc sống hiện tại, ta sẽ tùy theo tính chất của vấn đề mà có cách xử lí cụ thể. Nếu vấn đề đặt ra mang màu sắc tư tưởng, đạo lí, cần vận dụng mô hình Giải thích khái niệm – Phân tích, lí giải – bình luận, đánh giá. Nếu vấn đề đặt ra là một hiện tượng đời sống, cần vận dụng mô hình Giới thiệu thực trạng – Phân tích và bình luận nguyên nhân – kết quá (hậu quả) – Đề xuất ý kiến (giải pháp). Chẳng hạn với đề bài: Đọc truyện “Tấm Cám”, anh (chị) có suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa người tốt và kẻ xấu, cái thiện và cái ác trong xã hội xưa và nay, sau khi nói về truyện Tấm Cám và cuộc đấu tranh giữa người tốt và kẻ xấu, cái thiện và cái ác trong xã hội thời xưa, cần thấy rằng đây là một hiện tượng đời sống tồn tại ở mọi thời. Xác định được điều này khi chuyển sang bàn về cuộc đấu tranh trong xã hội ngày nay, cần nhìn nhận rõ thực trạng về sự tồn tại của cái xấu, cái ác trong xã hội hiện tại, nguyên nhân, hậu quả của hiện tượng này và đề xuất giải pháp khắc phục. Cũng có những vấn đề vừa mang màu sắc tư tưởng, đạo lí lại vừa mang dáng dấp của một hiện tượng đời sống. Để xử lí loại vấn đề như thế, cần có sự linh hoạt trong cách thức. Chẳng hạn vấn đề danh và thực là một vấn đề thuộc về nhận thức, tư tưởng song cách ứng xử với cái danh và cái thực lại là một hiện tượng đời sống khá phức tạp thì để bàn về danh và thực trong cuộc sống hôm nay, ta cần hiểu khái niệm danh, thực, mối quan hệ cần có giữa hai vấn đề này, tác dụng, ý nghĩa của sự tương xứng giữa danh và thực cũng như tác hại của mối quan hệ khập khiễng giữa chúng. Bước tiếp theo, cần phân tích thực tế quan hệ giữa danh và thực trong đời sống xã hội hiện nay ở các mặt thực trạng, nguyên nhân, kết quả (hậu quả) của mối quan hệ này. Cuối cùng, người viết nên có phần nêu kinh nghiệm, bài học nhân sinh mà mình nhận thức được, đúc rút ra từ toàn bộ quá trình tìm hiểu vấn đề. Với vấn đề danh và thực thì bài học rút ra là không nên chạy theo những thứ danh tiếng hão song cũng không nên thờ ơ, coi thường cái danh, cần tu bổ cho cái thực để cái danh đáng được tôn trọng. Cần lưu ý là dạng bài này rất dễ lẫn với bài nghị luận văn học vì buộc phải có khâu phân tích tác phẩm để xác định vấn đề cần nghị luận. Để tránh nhầm lẫn, cần xác định và phân biệt rõ sự khác biệt về mục đích và cách thức tiến hành. Mục đích của nghị luận văn học là bàn bạc, phân tích để đánh giá chất lượng về nội dung, nghệ thuật của văn bản tác phẩm, còn mục. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> đích của loại đề NLXH này là chỉ nhằm rút ra và làm sáng tỏ vấn đề xã hội được đặt ra ở văn bản tác phẩm đó trước khi tiến hành nghị luận ở phần chính. Vì thế khi làm bài nghị luận văn học, cần cắt nghĩa, bình giá cái hay, vẻ đẹp của các yếu tố của văn bản như ngôn ngữ, hình tượng về cả hai phương diện nội dung ý nghĩa và đặc sắc nghệ thuật, còn khi làm bài NLXH lại chỉ cần chú ý đến mặt nội dung (tư tưởng, đạo lí, hiện tượng tích cực, tiêu cực của đời sống). Chú ý: - Các mô hình cho các dạng đề được nêu ra ở trên chỉ là tương đối, người viết nên có sự linh hoạt khi vận dụng chứ không nên áp dụng máy móc vì mọi sự áp dụng máy móc đều có thể dẫn tới những cấu trúc bất hợp lí. - Trong một bài văn nghị luận, bên cạnh việc cắt nghĩa, lí giải và đánh giá vấn đề đặt ra, khâu chứng minh cũng rất quan trọng. Nó chứng tỏ mức độ hiểu và chủ động trong khâu xử lí vấn đề của người viết. Tuy nhiên, để viết bài gọn, tránh trùng lặp, không nhất thiết phải tổ chức thành một phần riêng cho việc chứng minh. HS nên linh hoạt gắn việc chứng minh với các khâu khác trong quá trình viết bài. Mỗi ý kiến lí giải, đánh giá đều có thể gắn với thực tiễn đời sống để chứng minh tính thực tế, chân xác của nó. Chẳng hạn, khi lí giải vì sao chúng ta chỉ tiếp thu được phần nhỏ những gì đọc được, nghe thấy, ý đầu tiên là “vì mỗi chúng ta chỉ có một giới hạn về năng lực chuyên môn và một giới hạn về phạm vi hiểu biết nên không phải những gì đọc được, nghe thấy đều có khả năng hiểu và nắm bắt hết được”, người viết có thể đưa luôn dẫn chứng chứng minh: với trình độ của HS phổ thông, việc tiếp thu các sách nghiên cứu chuyên sâu là điều khó khăn vì ngay hệ thống thuật ngữ chuyên môn đã là một rào cản đáng kể. Hay khi nói về sự khác nhau giữa khái niệm cứng cỏi và cường bạo, HS có thể lấy dẫn chứng chứng minh cho cách hiểu của mình: người chiến sĩ cộng sản bất cấp sự tra tấn để giữ bí mật cách mạng, sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy để hoàn thành nhiệm vụ là cứng cỏi; kẻ côn đồ lưu manh dùng vũ lực để khống chế, ép buộc hoặc làm tổn hại tới người khác vì mục đích cá nhân xấu xa là cường bạo…. Việc kết hợp các thao tác như vậy sẽ khiến bài viết uyển chuyển, linh hoạt hơn. - Để một bài NLXH có được sự sinh động, hấp dẫn, rất cần có hệ thống dẫn chứng thích hợp. Đó phải là những dẫn chứng từ thực tế đời sống, càng xác thực, cụ thể càng có sức thuyết phục cao. Nên hạn chế việc lấy dẫn chứng trong tác phẩm văn học vì dù tác phẩm văn học có phản ánh thực tế đời sống thì nó vẫn là sản phẩm của sự hư cấu, tưởng tượng. Hơn nữa việc lấy dẫn chứng trong tác phẩm còn có thể làm nhòe ranh giới giữa nghị luận. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> văn học và NLXH. Muốn có được nhiều dẫn chứng sinh động cho bài NLXH, cần chú ý quan sát đời sống hằng ngày; theo dõi báo đài, truyền hình, các phương tiện thông tin đại chúng…. Có dẫn chứng rồi thì việc đưa lúc nào và đưa như thế nào cũng là vấn đề cần xem xét, cân nhắc. Không nên kể lể dài dòng mà nên thuật lại một cách ngắn gọn, nhấn đậm vào khía cạnh ứng dụng của dẫn chứng đối với ý cần trình bày. Đưa dẫn chứng cần đúng lúc, đúng chỗ và có tính mục đích chứ không nên tùy tiện. Chẳng hạn, dẫn chứng cho thực trạng bạo hành phụ nữ là câu chuyện về em Nguyễn Thị Bình hơn 10 năm bị chủ đánh đập, những vụ buôn bán phụ nữ ra nước ngoài, sự kiện người chồng đánh đập rồi nhốt vợ vào lồng chó – những sự kiện gây xôn xao dư luận thời gian gần đây. Dẫn chứng cho hậu quả của tình trạng nghiện Internet là việc một thanh niên Hàn Quốc gục chết sau 48 giờ ngồi chơi điện tử, vụ giết người man rợ của một HS THCS vì cần tiền chơi game…. Đưa dẫn chứng nên kèm theo thái độ, quan điểm đánh giá rõ ràng trên cơ sở lập trường nhân văn và tinh thần vì sự tiến bộ chung để làm nổi bật tính tư tưởng của bài viết. - Khi liên hệ, người viết cần có thái độ chân thành và nghiêm túc, tránh cách nói sáo mòn, gượng ép, giả tạo. - Ngoài ra, việc viết mở bài sao cho hấp dẫn cũng rất quan trọng để tạo ấn tượng tốt cho người chấm. Một mở bài hay phải vừa giới thiệu chính xác vừa dẫn dắt hợp lí, sinh động vấn đề đặt ra. Để viết được một mở bài hay cần làm tốt khâu tìm hiểu đề để xác định chính xác vấn đề được đặt ra; sau đó tìm một chi tiết, sự việc, câu chuyện… có ý nghĩa gần gũi hoặc tương đương để dẫn dắt, không nên đột ngột vào đề, càng không nên giới thiệu cộc lốc, cụt ngủn vì sẽ tạo cảm giác về sự vụng về, thô thiển. (Dẫn theo sách Dạy và học Nghị luận xã hội – Đỗ Ngọc Thống, Nguyễn Thanh Huyền, NXB Giáo dục Việt Nam). Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(16)</span>

×