TỔNG QUAN VỀ TÁI BẢO HIỂM VÀ TÁI BẢO HIỂM
VẬT CHẤT THÂN TÀU
I. TỔNG QUAN VỀ TÁI BẢO HIỂM
1. BẢN CHẤT VÀ TÁC DỤNG CỦA TÁI BẢO HIỂM
1.1. Bản chất của tái bảo hiểm
Bảo hiểm là một phạm trù kinh tế, nó bao gồm các quá trình phân
phối lại nhằm đáp ứng nhu cầu đảm bảo của xã hội. Đặc trưng của nó là việc
thành lập mang tính chất tập thể một quỹ dự trữ tài chính thông qua sự vận động
của các quy luật thống kê và các nguyên tắc cân đối cũng như việc phân phối
mang tính chất riêng rẽ quỹ đó để có thể đáp ứng những nhu cầu có thể dự đoán
được trong tương lai phát sinh ra từ những sự cố bất ngờ gây thiệt hại hay xẩy
ra.
Do những đặc thù trên nên bảo hiểm có sự đóng góp nhất định vào
việc đảm bảo tính liên tục,sự ổn định và hiệu quả của quá trình sản xuất,lưu
thông và tiêu dùng của xã hội. Dựa vào các rủi ro được bảo hiểm, các ngành
kinh tế khác nhau và các quá trình tiến hành bảo hiểm được chia thành nhiều
loại và được tổ chức thành một hệ thống độc lập của nền kinh tế quốc dân (ở
nhiều nước còn được gọi là ngành kinh tế bảo hiểm). Một trong loại hình đó là
tái bảo hiểm.
Về khái niệm,tái bảo hiểm là một hình thức bảo hiểm lại những rủi ro
đã được bảo hiểm (công ty bảo hiểm). Hay nói cách khác, tái bảo hiểm là bảo
hiểm cho người bảo hiểm. Nhiệm vụ chủ yếu của tái bảo hiểm là phân chia các
rủi ro đã được bảo hiểm của các công ty bảo hiểm gốc cho một tập thể các công
ty tái bảo hiểm và thông qua đó sẽ tận dụng một cách tối ưu các quy luật thống
kê. Với nhiệm vụ trên tái bảo hiểm ổn định kinh doanh cho các công ty bảo
hiểm gốc và tạo điều kiện cho các công ty này có thể nhận bảo hiểm cho những
rủi ro vượt quá khả năng tài chính của mình.
1.2. Tác dụng cơ bản của tái bảo hiểm
Tái bảo hiểm có tác dụng sau:
• Phân tán rủi ro, góp phần ổn định tài chính cho công ty bảo hiểm gốc, đặc
biệt là trong những trường hợp xảy ra các sự cố thảm họa hay tích lũy rủi
ro;
• Tăng cường khả năng nhận bảo hiểm của công ty bảo hiểm gốc đối với
những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của nó;
• Góp phần ổn định thu chi của ngân sách Nhà nước và tăng thu ngoại tệ
cho Nhà nước;
• Giúp các công ty bảo hiểm nhỏ,mới thành lập ổn định và phát triển nhờ tư
vấn về nghiệp vụ từ các công ty tái bảo hiểm;
• Giúp các công ty bảo hiểm sửa chữa tính bất thường, đột biến của rủi ro -
khả năng sai lệch giữa thực tế và dự đoán mà người bảo hiểm có được
nhờ số liệu thống kê từ quá khứ;
• Góp phần thúc đẩy,phát triển quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước bởi
tái bảo hiểm là hoạt động mang tính chất quốc tế;
• Gián tiếp bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm bằng sự ổn định
tài chính của công ty bảo hiểm gốc;
• Đảm bảo đời sống cho cán bộ nhân viên làm việc trong các công ty bảo
hiểm gốc, góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động xã hội
(tạo chỗ làm tại các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, công ty môi giới tái
bảo hiểm, ...);
• Tạo điều kiện cho công ty bảo hiểm khi muốn rút lui khỏi thị trường nào
đó (khi nhận thấy không còn đủ khả năng để thực hiện một nghiệp vụ bảo
hiểm nào đó hoặc khi muốn tập trung vào các nghiệp vụ khác mà công ty
có thế mạnh..., công ty bảo hiểm này có thể nhượng tái bảo hiểm các đơn
bảo hiểm thuộc loại nghiệp vụ này cho các công ty khác).
2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TÁI BẢO HIỂM
Thực tế cho thấy, cũng như các ngành nghể khác, bảo hiểm và tái bảo
hiểm ra đời luôn gắn liền trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sự ra
đời và phát triển của tái bảo hiểm có thể chia thành 4 giai đoạn sau:
a. Giai đoạn đầu phát triển của tái bảo hiểm
Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu,Italia là nước đầu tiên chứng
kiến sự ra đời và phát triển của tái bảo hiểm. Bản giao ước cổ nhất được biết
đến có tính chất pháp lý như một hợp đồng tái bảo hiểm được kí kết vào năm
1370 tại thành phố Genes. Đó là hợp đồng tái bảo hiểm hàng hải, liên quan tới
chuyến hành trình bằng đường biển từ Cadiz (Tây Ban Nha) đến Sluys (Hà
Lan). Sau này, với sự phát triển rộng rãi của những quan hệ thương mại giữa các
thành phố của Italia cũng như các nước Bắc Âu, đặc biệt là nước Anh, dịch vụ
tái bảo hiểm cũng phát triển theo. Tuy nhiên, sau khi có sự xuất hiện của những
vụ lạm dụng có tính chất con buôn gây ra nhiều phản ứng chống lại bản chất của
tái bảo hiểm đã dẫn đến việc ra đời của đạo luật cấm các hoạt động tái bảo hiểm
hàng hải ở nước Anh. Trong một thời gian dài (1746-1864), đạo luật này vô hình
chung đã tạo điều kiện cho tổ chức LLOYD’S phát huy ảnh hưởng của mình
bằng đồng bảo hiểm. Sau năm 1864,nó trở thành thị trường tái bảo hiểm quan
trọng nhất trên thế giới. Thời gian này cũng đã chứng kiến sự xuất hiện của các
nghiệp vụ tái bảo hiểm khác như tái bảo hiểm cháy, ...với hình thức tái bảo hiểm
duy nhất được áp dụng trong thời kỳ này là tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn cho từng
rủi ro riêng biệt.
b. Giai đoạn từ giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỉ XX
Trong giai đoạn này,những thành tựu khoa học kỹ thuật đã được ứng
dụng vào sản xuất làm nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa đã có những
bước tiến nhảy vọt,quan hệ giao lưu hàng hóa giữa các nước ngày càng được
mở rộng. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho thị trường tái bảo hiểm trưởng
thành và phát triển. Tuy nhiên các công ty bảo hiểm vừa hoạt động bảo hiểm
gốc vừa hoạt động tái bảo hiểm tạo ra những hạn chế nhất định, đặt ra yêu cầu
cần phải có công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp. Năm 1843, công ty tái bảo
hiểm nội bộ đầu tiên ra đời là Weceler Re (Đức). Tuy nhiên, nó chỉ là công ty
con của một công ty bảo hiểm địa phương, chủ yếu nhận các phần dôi của công
ty mẹ.
Năm 1846 công ty tái bảo hiểm độc lập đầu tiên được thành lập tại
Đức mang tên Cologe Re. Sau đó là sự ra đời hàng loạt của các công ty tái bảo
hiểm chuyên nghiệp có tên tuổi như:
- Swiss Re – công ty tái bảo hiểm đầu tiên của Thụy Sỹ, thành lập
năm 1863;
- London Gurantee Reinsurance Co.Ltd (Luân Đôn) năm 1869;
- Munich Re (Đức), thành lập năm 1880.
Ở Anh, công ty tái bảo hiểm đầu tiên là The Reinsurance Company
Ltd, thành lập năm 1867 và vào thời gian đó, trên thế giới mới chỉ tồn tại 10
công ty tái bảo hiểm. Tuy nhiên, công ty này đã đóng cửa vì phá sản vào năm
1871. Một số công ty tái bảo hiểm khác đã được thành lập nhưng không tồn tại
được lâu. Năm 1907, công ty tái bảo hiểm Vương quốc Anh thành lập,mang tên
Mercantile & General Reinsurance. Một năm sau, năm 1908, công ty tái bảo
hiểm Bristish & European ra đời.
Ở Mỹ,công ty tái bảo hiểm đầu tiên được thành lập năm 1912 với tên
The First Reinsurance Company of Hartford khi mà các công ty tái bảo hiểm
nước ngoài đã hoạt động tại Mỹ một số năm trước đó.
Vào những năm 1920,người ta cũng chứng kiến sự ra đời của các tập
đoàn tái bảo hiểm địa phương như Uruguay, Chile, Banco del Estado, ... Ban
đầu, những công ty này không tìm kiếm dịch vụ ngoài những dịch vụ của địa
phương bị bắt buộc nhượng cho họ.
Cùng với sự phát triển của thị trường tái trong giai đoạn này nhiều
hình thức và phương pháp tái bảo hiểm được xây dựng như tái số thành, mức
dôi...
Tuy nhiên, chiến tranh thế giới thứ II đã làm ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và tái bảo hiểm nói riêng. Trên thực tế
hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm bị ngừng trệ, thậm chí một số nước các nhà
cầm quyền còn trưng dụng cả quỹ bảo hiểm để phục vụ chiến tranh gây ra tổn
thất lớn cho các nhà bảo hiểm đặc biệt là các công ty ở những nước Châu Âu.
c. Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến năm 1990
Sau chiến tranh thế giới thứ II năm 1945 cục diện thế giới thay đổi, hệ
thống xã hội chủ nghĩa ra đời và phát triển, phong trào giải phóng dân tộc của
các nước thuộc địa thắng lợi, các nước tư bản rơi vào khủng hoảng làm cho nền
kinh tế nói chung và ngành bảo hiểm – tái bảo hiểm nói riêng có nhiều thay đổi:
- Các nước TBCN đang trong quá trình phục hồi, đồng thời với
nhiều công ty tái bảo hiểm mới được thành lập tạo nên thị trường
tái bảo hiểm cạnh tranh dưới nhiều hình thức;
- Hệ thống các nước XHCN ra đời thực hiện độc quyền trong lĩnh
vực bảo hiểm và tái bảo hiểm, hạn chế với các nước TBCN. Tuy
nhiên các nghiệp vụ nhận tái chỉ mang tính chất đối ngoại là bảo
hiểm hàng hóa nhập khẩu và bảo hiểm thân tàu thủy;
- Năm 1970-1980 các tập đoàn tái bảo hiểm vùng ra đời như: Tập
đoàn tái bảo hiểm Châu Phi, tập đoàn tái bảo hiểm Châu Á, tập
đoàn tái bảo hiểm Asean. Các tập đoàn này vận hành dựa trên cơ
sở nhượng bắt buộc hay tự nguyện với nhau giữa các thành viên.
d. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Năm 1990 sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN tạo tiền để cho thị
trường tái bảo hiểm quốc tế được mở rộng và phát triển. Mối quan hệ giữa các
nước ngày càng được củng cố đánh dấu giai đoạn phát triển cao của thị trường
bảo hiểm và tái bảo hiểm. Tuy nhiên những năm đầu của thế kỷ XX thị trường
tái bảo hiểm quốc tế phải đối mặt lớn với thảm họa và rủi ro do thiên nhiên và
con người gây ra.
Năm 2001, với thảm họa khủng bố giáng xuống nước Mỹ ngày 11-9,
các công ty bảo hiểm,tái bảo hiểm phải gánh chịu những khoản tổn thất nặng nề
chưa từng có với tổng tổn thất được bảo hiểm lên tới 40,2 tỷ USD, dẫn tới sự
phá sản tụt hạng của một số công ty tái bảo hiểm hàng đầu thế giới, và đến nay
với hàng loạt tổn thất do thiên tai gây ra đặc biệt là tổn thất nặng nề do sóng
thần vào thời điểm cuối năm 2004 tại các nước Nam Á làm cho tình hình thị
trường tái bảo hiểm quốc tế trở nên phức tạp.
3. CÁC HÌNH THỨC TÁI BẢO HIỂM
3.1. Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn
Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất. Theo hình thức
này, công ty nhượng toàn quyền lựa chọn toàn bộ hay một số rủi ro cần phải tái
đi và công ty nhận (nhà tái bảo hiểm) có quyền nhận hay từ chối toàn bộ hay
một số rủi ro đó.
Quy trình để thực hiện tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn gồm có các
bước:
- Công ty nhượng thông báo cho nhà tái bảo hiểm một dịch vụ nào đó
mà họ cần tái đi dưới hình thức một bản đề nghị (hay bản chào tái), trong đó ghi
rõ các đặc điểm chính của rủi ro được tái bảo hiểm,chẳng hạn như:
+ Tên và địa chỉ của người được bảo hiểm;
+ Tính chất của rủi ro được bảo hiểm;
+ Ngày bắt đầu và ngày chấm dứt;
+ Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, phần giữ lại của công ty
nhượng;
+ Thủ tục phí tái bảo hiểm;
+ Phương thức tái, thủ tục thanh toán, bồi thường; .....
- Sau khi nhận được đề nghị,nhà tái bảo hiểm có quyền lựa chọn nhận
toàn bộ hay một phần tỷ lệ nào đó hay một số tiền cố định trên cơ sở rủi ro được
đề nghị. Nhà tái bảo hiểm xác nhận phần tham gia của mình vào một phiếu đề
nghị và gửi lại cho công ty nhượng, đồng thời, nhà tái bảo hiểm có thể yêu cầu
cung cấp thêm thông tin cần thiết. Chỉ khi được thông báo chấp nhận,dịch vụ tái
bảo hiểm tùy ý lựa chọn mới có hiệu lực và cũng tự động chấm dứt vào ngày
đến hạn nếu không có bổ sung thêm.
Ưu điểm của hình thức này:
+ Giúp các công ty nhượng đặc biệt là các công ty mới thành lập
còn ít kinh nghiệm có thể hoàn thành việc nhận bảo hiểm cho những đơn vị rủi
ro có giá trị lớn, vượt quá khả năng tài chính của họ bằng việc sử dụng chuyên
môn và khả năng của thị trường tái bảo hiểm quốc tế;
+ Giúp công ty nhượng có điều kiện loại bỏ được những rủi ro đặc
biệt lớn hoặc nguy hiểm mà một khi tổn thất thuộc đơn vị này xảy ra có thể làm
ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mình trong năm nghiệp vụ bảo hiểm
riêng biệt nào đó;
+ Giúp cho công ty nhượng có thể chủ động trong việc chấp nhận
bảo hiểm phục vụ nhu cầu của người được bảo hiểm về những loại rủi ro mà có
thể không được chấp nhận trong các hợp đồng bảo hiểm bắt buộc truyền thống
của mình, chẳng hạn như: rủi ro động đất, ngập lụt, đình công, bạo loạn, chiến
tranh hoặc những rủi ro tương tự khác;
+ Tạo điều kiện cho công ty nhượng cải thiện sự thăng bằng của
các hình thức tái bảo hiểm bắt buộc, cải thiện vận may rủi trong việc đạt được
những lợi ích tối đa theo các điều kiện quy định trong các hợp đồng tái bảo
hiểm đó của họ (ví dụ: điều kiện về chia lãi, thủ tục phí tái bảo hiểm theo thang
lũy tiến, thủ tục phí tái bảo hiểm theo lãi,...).
Nhược điểm:
+ Công ty nhượng phải thông báo đầy đủ, chi tiết về nghiệp vụ bảo
hiểm gốc dẫn đến có thể bị tiết lộ thông tin có lợi cho đối thủ cạnh tranh trong
thị trường bảo hiểm gốc.
+ Không đảm bảo thời gian và sự chắc chắn trong việc phân tán rủi
ro tái bảo hiểm do đó có thể sẽ mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm hoặc không có
khả năng để nhận bảo hiểm cho rủi ro có giá trị lớn, hay ít nhất cũng làm cho
công ty nhượng mất uy tín vì sự chậm trễ trả lời người được bảo hiểm.;
+ Chi phí hành chính,thủ tục giấy tờ tốn kém do đó ảnh hưởng đến
lợi nhuận của hợp đồng;
+ Thường xuyên phải đàm phán tái lập lại hợp đồng tái bảo hiểm
trước khi quyết định kí kết hợp đồng bảo hiểm gốc với khách hàng mà trong
nhiều trường hợp đáng lẽ không cần thiết phải thay đổi hay hủy bỏ hợp đồng đã
kí;
+ Trong nhiều trường hợp hình thức tái bảo hiểm này chỉ được
thực hiện với mức phí cao hơn mức phí gốc hoặc thủ tục phí ít hơn khi khả năng
nhận của thị trường tái bảo hiểm quốc tế đã đạt gần tới mức tối đa, hoặc khi phí
bảo hiểm gốc quá thấp so với phí trung bình của thị trường.
3.2. Tái bảo hiểm bắt buộc
Tái bảo hiểm bắt buộc là sự thỏa thuận giữa công ty nhượng và nhà tái
bảo hiểm trong đó công ty nhượng bắt buộc phải nhượng cho nhà tái bảo hiểm
tất cả các đơn vị rủi ro gốc mà hai bên đã thỏa thuận từ trước. Ngược lại, nhà tái
bảo hiểm cũng buộc phải chấp nhận toàn bộ các đơn vị rủi ro đó.
Ở đây, công ty nhượng toàn quyền trong việc chấp nhận bảo hiểm
gốc, định phí,... mà không phải thông qua ý kiến của nhà tái bảo hiểm. Công ty
nhượng đơn phương thanh toán các vụ tổn thất có liên quan đến những rủi ro
được bảo hiểm với mục đích bảo vệ quyền lợi chung của công ty nhượng và nhà
tái bảo hiểm. Ngược lại, nhà tái bảo hiểm chia sẻ rủi ro với công ty nhượng và
sẽ chấp nhận thanh toán tổn thất thuộc phạm vi hợp đồng tái bảo hiểm đã thỏa
thuận mà công ty nhượng thay mặt họ giải quyết.
Như vậy,hình thức tái bảo hiểm bắt buộc là thỏa thuận ràng buộc các
bên với nhau một cách chặt chẽ hơn là hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn.
Ưu điểm:
+ Công ty nhượng sẽ được toàn quyền quyết định phí bảo hiểm
cho nên hợp đồng sẽ được kí kết rất nhanh;
+ Các nhà tái bảo hiểm hoàn toàn chia sẻ vận may rủi với công ty
nhượng đồng thời rất thoải mái chấp nhận rủi ro một cách tự nguyện bởi vì đến
lượt mình họ cũng có quyền làm như vậy;
+ Đây là hình thức rất chặt chẽ bởi vì mọi thỏa thuận đã được thảo
luận từ trước khi kí kết hợp đồng, vì vậy phí bảo hiểm mà các bên thu được
cũng cao nhất.
Nhược điểm:
+ Đối với những nghiệp vụ bảo hiểm mới triển khai,các nhà tái bảo
hiểm không lường hết được mức độ rủi ro cũng như xác xuất rủi ro vì vậy việc
kí kết hợp đồng ít nhiều còn mang tính mạo hiểm;
+ Vì mọi rủi ro đều phải tái đi cho nên, đứng về phía công ty
nhượng, những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ vẫn phải đem đi tái trong
khi khả năng tài chính của họ vẫn có thể đảm đương được.
3.3. Tái bảo hiểm kết hợp tùy ý lựa chọn - bắt buộc
Đây là hình thức tái bảo hiểm mà công ty nhượng không bắt buộc
phải nhượng tất cả các dịch vụ mà mình nhận bảo hiểm nhưng công ty nhận bắt
buộc phải nhận các dịch vụ mà công ty nhượng đưa vào thỏa thuận này với điều
kiện là những dịch vụ đó phải phù hợp với nội dung điều khoản đã quy ước của
hợp đồng tái bảo hiểm thỏa thuận.
- Đối với nhà nhận tái: So với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn,
nhà nhận tái bảo hiểm bất lợi hơn vì không có quyền từ chối những rủi ro mà họ
không muốn nhận. Công ty nhận tái bảo hiểm có điều kiện thu nhập nguồn phí
tái bảo hiểm lớn hơn và có phần thăng bằng hơn so với hình thức tái bảo hiểm
tùy ý lựa chọn. Ở đây, công ty nhượng không được lợi dụng hình thức này để
lựa chọn tái đi những rủi ro có khả năng xảy ra tổn thất lớn với mục đích đẩy
phần bất lợi cho nhà tái bảo hiểm. Để đề phòng trường hợp này xảy ra, công ty
nhận phải nắm vững ý đồ của công ty nhượng, xem xét kỹ các rủi ro mà công ty
nhượng đem tái bảo hiểm và thường xuyên phải canh chừng diễn biến của thỏa
ước mà mình đã kí kết. Sử dụng hình thức tái bảo hiểm này, công ty nhượng có
điều kiện để đem chào tái bảo hiểm từng phần trách nhiệm thặng dư của khả
năng tự giữ lại của mình cho một hay một số ít các nhà tái bảo hiểm mà họ lựa
chọn, thay cho việc phải đem tất chia tất cả các phần thặng dư cho các nhà tái
bảo hiểm nếu đem tái theo hình thức bắt buộc. Tuy nhiên, cách tái bảo hiểm như
thế thường chỉ có các công ty nhận có tiềm lực thật lớn vì họ là những người có
khả năng nhận các rủi ro có giá trị bảo hiểm cao và như vậy sẽ không đòi hỏi
phân tán cho quá nhiều nhà tái bảo hiểm, đỡ tốn kém chi phí.
- Đối với công ty nhượng: Với hình thức này, công ty nhượng có
điều kiện đem chào tái bảo hiểm từng phần trách nhiệm thặng dư của khả năng
giữ lại cho một hay một số nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn thay vì phải phân
chia tất cả các phần thặng dư của khả năng tự giữ lại của mình cho các nhà tái
bảo hiểm theo hình thức bắt buộc.
Hình thức tái bảo hiểm này thường chỉ có thể thực hiện được bằng
cách chào tái cho các nhà tái bảo hiểm có tiềm lực lớn, có khả năng nhận được
các đơn vị rủi ro có giá trị cao như vậy sẽ giảm bớt chi phí do phải phân tán rủi
ro cho nhiều nhà tái bảo hiểm.
Trong trường hợp công ty nhượng có quá nhiều đơn vị rủi ro cần phải
đem đi tái thì chi phí hành chính cho việc áp dụng hình thức tái bảo hiểm này sẽ
rất tốn kém vì những rủi ro cần tái bảo hiểm đó thường đòi hỏi các điều kiện tái
bảo hiểm khác nhau, công tác tính toán phí và sổ sách kế toán sẽ phức tạp và
khó khăn hơn.
4. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁI BẢO HIỂM
Các hình thức tái bảo hiểm như đã trình bày ở trên được áp dụng theo
hai phương pháp chính là:
+ Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (tái bảo hiểm theo tỷ lệ);
+ Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường (tái bảo hiểm phi tỷ lệ).
4.1. Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm
Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm là một phương pháp tái bảo hiểm
mà trong đó trách nhiệm của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm đối với mỗi
đơn vị rủi ro được bảo hiểm được phân bổ theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên trên
cơ sở số tiền bảo hiểm. Vì lẽ đó các dịch vụ tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm
còn được gọi là tái bảo hiểm theo tỷ lệ.
Phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ được chia làm hai dạng chính:
+ Tái bảo hiểm số thành;
+ Tái bảo hiểm mức dôi.
4.1.1. Tái bảo hiểm số thành
Theo phương thức này, công ty nhượng giữ lại cho mình một tỷ lệ
nhất định so với số tiền bảo hiểm, phần còn lại tái đi. Vì vậy phí bảo hiểm và số
tiền bồi thường cũng được phân bổ giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm
theo tỷ lệ tương ứng.
Ưu điểm:
+ Tính toán đơn giản, dễ xử lý, chi phí hành chính và cách quản lý
đơn giản, ít tốn kém;
+ Đối với nhà tái bảo hiểm, dạng tái bảo hiểm này có tính cân đối
và dễ chấp nhận hơn so với dạng tái bảo hiểm mức dôi, có khả năng phân tán rủi
ro tốt hơn so với các loại tái bảo hiểm khác. Nhà tái bảo hiểm có điều kiện tham
gia vào mọi rủi ro mà công ty nhượng nhận bảo hiểm, đồng thời công ty nhượng
có thể yên tâm nhận mọi rủi ro có giá trị nằm trong phạm vi hạn mức khống chế
tối đa đã quy ước vì mọi rủi ro này đều được chia sẻ cho nhà tái bảo hiểm cùng
hưởng và cùng chịu với công ty nhượng. Điều này đảm bảo cân đối thu chi cho
cả hai bên: công ty nhượng và nhà nhận tái bảo hiểm.
+ Thủ tục phí tái bảo hiểm của dạng này cao nhất,ngoài ra các điều
kiện về phí tạm giữ cũng có tỷ lệ cao, nhờ đó công ty nhượng có điều kiện sử
dụng vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các việc khác.
Nhược điểm:
+ Công ty nhượng phải tái đi mọi đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc theo
một tỷ lệ định trước nên không khai thác hết khả năng của công ty;
+ Đồng thời công ty nhượng không khống chế được tỷ lệ bồi
thường đối với mức giữ, không có khả năng làm giảm hệ số biến thiên của phần
tổn thất thuộc mức giữ lại làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của
công ty;
Tái bảo hiểm số thành thường được ứng dụng trong những trường
hợp sau:
+ Khi công ty nhượng có ý định thu xếp tái bảo hiểm dưới hình
thức trao đổi dịch vụ lẫn nhau giữa các công ty bảo hiểm này với các công ty
bảo hiểm khác;
+ Đối với các công ty bảo hiểm “ non trẻ ” việc áp dụng tái bảo
hiểm số thành là rất phù hợp. Khi công ty nhượng mới bắt đầu triển khai bảo
hiểm một nghiệp vụ mới mà họ còn chưa có kinh nghiệm và thiếu số liệu thống
kê phân tích khả năng tiến triển của loại nghiệp vụ đó. Với phương pháp này,
công ty nhượng có điều kiện đảm bảo ổn định kinh doanh của mình,nhất là
trong những năm đầu tiên vì lúc này “ quy luật số lớn “ chưa có tác động nhiều
trong nghiệp vụ. Thêm vào đó, nhà nhận tái hầu hết được coi như công ty bảo
hiểm gốc cùng chia sẻ rủi ro, vận may với công ty nhượng, có điều kiện gần gũi
và giúp đỡ công ty nhượng nhiều hơn về mặt kỹ thuật, chuyên môn, cố vấn cho
công ty nhượng tích cực hơn;
+ Đối với các loại nghiệp vụ bảo hiểm mà công ty nhượng có khó
khăn trong việc phân định thế nào là một rủi ro đơn (đặc biệt trong các loại bảo
hiểm về nông nghiệp);
+ Nhằm giảm nhẹ khả năng nguy hiểm của công ty nhượng đối
với các hợp đồng bảo hiểm về rủi ro thiên tai;
+ Đối với các loại nghiệp vụ mà phạm vi tác động và quy mô của
tổn thất không chắc chắn, mặc dù các hợp đồng bảo hiểm loại này có thể có giới
hạn trách nhiệm.
Tái bảo hiểm số thành thường được sử dụng trong bảo hiểm trách
nhiệm dân sự, xe ô tô, mưa đá, giông bão, bảo hiểm vận chuyển hàng hóa và
thường kết hợp với tái bảo hiểm mức dôi.
4.1.2. Tái bảo hiểm mức dôi
Tái bảo hiểm mức dôi là dạng tái bảo hiểm tỷ lệ cổ xưa và phổ biến
nhất. Trong tái bảo hiểm mức dôi, công ty nhượng ấn định mức giữ lại là một số
tuyệt đối,số vượt quá tái đi. Với phương pháp này,trách nhiệm của người nhận
được xác định theo lớp là bội số của mức giữ lại. Phí bảo hiểm và số tiền bồi
thường được phân bổ theo tỷ lệ tương ứng với trách nhiệm giữa công ty nhượng
và nhà nhận tái.
Ưu điểm:
Phương pháp tái bảo hiểm này giúp khai thác hết khả năng của công
ty nhượng do chỉ tái đi những rủi ro vượt quá mức giữ lại, đảm bảo lợi ích kinh
tế cao hơn tái bảo hiểm số thành. Đồng thời phương pháp này còn giúp công ty
nhượng có điều kiện giữ lại một khối lượng kim ngạch bảo hiểm lớn và do đó
có mức phí thu nhập lớn không cần phải tái bảo hiểm.
Nhược điểm:
Việc tính toán lại phức tạp hơn, chi phí tốn kém hơn,sử dụng nhiều
nhân lực (nhất là đối với những nước không có điều kiện áp dụng máy tính điện
tử) và có ảnh hưởng lớn đến kinh doanh trong trường hợp tổn thất rơi nhiều vào
những rủi ro dưới mức giữ lại của công ty nhượng.
Tái bảo hiểm mức dôi thông thường được áp dụng khi khối lượng
dịch vụ gồm nhiều rủi ro có những số tiền rất chênh lệch được bảo hiểm: tái bảo
hiểm cháy, tai nạn thân thể và nhân thọ...
4.1.3. Tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi
Đây không phải là dạng thứ ba của hình thức tái bảo hiểm theo tỷ lệ
mà thực chất là sự kết hợp giữa hai dạng số thành và mức dôi. Dạng kết hợp này
tỏ ra rất phù hợp và thường được áp dụng với các công ty bảo hiểm mới thành
lập. Với các công ty này, khối lượng dịch vụ mà họ nhận bảo hiểm chưa đủ ổn
định để tránh khỏi trường hợp không may có rủi ro tổn thất lớn xảy ra. Để đảm
bảo có thể đứng vững trên thị trường và đáp ứng những nhu cầu khác nhau của
khách hàng mua bảo hiểm,công ty nhượng cần thiết phải có tái bảo hiểm theo
hình thức mức dôi. Đồng thời vì mới thành lập nên công ty nhượng thường chưa
đủ số tiền dự trữ đảm bảo để đương đầu với những chu kì biến thiên của tổn
thất,vì vậy cần phải bảo vệ phần giữ lại gộp của mình bằng một hợp đồng tái
bảo hiểm số thành.
Thông thường khi áp dụng dạng tái bảo hiểm kết hợp này, công ty
nhượng đem tái bảo hiểm cho cùng một số nhà tái bảo hiểm và trong đó dạng tái
bảo hiểm số thành là hợp đồng cơ sở và dạng tái bảo hiểm mức dôi làm hợp
đồng bổ sung tự động.
Tái bảo hiểm theo phương pháp kết hợp này phát huy được những ưu
điểm và hạn chế được những nhược điểm của từng phương pháp số thành hoặc
mức dôi.
Ưu điểm:
Giúp công ty nhượng đảm bảo khả năng gia tăng về phần trách nhiệm
bảo hiểm một cách tự động mà không ảnh hưởng đến mức giữ lại của bản thân
công ty (không phải tăng mức giữ lại), đồng thời việc phân tán rủi ro sẽ dễ dàng
hơn, hợp đồng tái bảo hiểm số thành ổn định hơn.
Nhược điểm:
Thủ tục và chi phí điều hành phức tạp hơn hợp đồng số thành thuần
túy, thủ tục phí tái bảo hiểm thu được từ hợp đồng mức dôi thấp hơn so với thủ
tục phí đưa vào hợp đồng số thành (vì tỷ trọng giữa phí và trách nhiệm thấp).
4.2. Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường
Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường là một hình thức tái bảo hiểm
trong đó công ty nhượng ấn định một giới hạn bồi thường bằng một số tiền mà
họ có thể tự gánh chịu cho mỗi tổn thất thuộc trách nhiệm của mình (điểm tự
bồi thường hoặc mức tự bồi thường), phần tổn thất vượt quá hạn mức đó được
chuyển giao cho nhà tái bảo hiểm gánh chịu (giới hạn trách nhiệm bồi thường
của nhà tái bảo hiểm).
Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường có những đặc điểm sau:
+ Trách nhiệm của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm đối với tổn
thất không chia sẻ theo tỷ lệ về phí, trách nhiệm cũng như về bồi thường. Vì thế
hình thức tái bảo hiểm này còn được gọi là là tái bảo hiểm phi tỷ lệ;
+ Số tiền bồi thường tổn thất là tiêu chuẩn cơ bản để phân định
trách nhiệm giữa các bên;
+ Công ty nhượng phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những tổn
thất bằng hoặc dưới điểm tự bồi thường;
+ Nhà tái bảo hiểm chỉ bồi thường cho phần tổn thất chênh lệch
của những tổn thất vượt quá điểm tự bồi thường của công ty nhượng cho tới một
hạn mức tối đa đã có sự thỏa thuận trước trong hợp đồng tái bảo hiểm,hạn mức
này được gọi là “ hạn mức trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm”.
Ưu điểm
+ Là hình thức tái bảo hiểm chỉ bảo vệ cho những trường hợp có tổn
thất quá lớn và được bảo vệ 100% mức tổn thất vượt quá “điểm tự bồi thường”
nên công ty nhượng có thể khống chế mức bồi thường tối đa của mình bằng một
mức tiền nhất định;
+ Công ty nhượng sẽ có thu nhập phí bảo hiểm lớn hơn vì nhà tái bảo
hiểm không có trách nhiệm bồi thường cho những vụ tổn thất có số tiền thấp
hơn “điểm tự bồi thường” của công ty nhượng;
+ Chi phí hành chính ít tốn kém do công ty nhượng không phải phân
loại từng đơn vị rủi ro bảo hiểm, tính toán mức giữ lại, phí tái bảo hiểm, mức tái
bảo hiểm...