Ô nhiễm biển:
Khái niệm:
Biển là nơi tiếp nhận phần lớn các chất thải từ lục địa theo các dòng chảy sông suối, các
chất thải từ các hoạt động của con người trên biển như khai thác khoáng sản, giao thông
vận tải biển. Ô nhiễm biển là hiện tượng làm biến đổi, xáo trộn các thành phần hoá học
của nước biển gây ra do các hoạt động trên biển như vận tải (dầu lan vào nước biển khi các
tàu chở dầu bị đắm hoặc các tàu hàng, tàu khách tẩy rửa các thùng nhiên liệu mới...), khai
thác dầu lửa (sự rò rỉ dầu từ các dàn khoan, các ống dẫn dầu, các nhà máy lọc dầu...), hoặc
do các nguồn ô nhiễm phát sinh từ đất liền (các chất thải phóng xạ độc hại do các nước
công nghiệp dùng tàu đổ xuống biển...) ảnh hưởng tới đời sống của các loài sinh vật dưới
biển và tác động xấu đến sự tăng trưởng, phát triển của chúng.
Các dạng biểu hiện của sự ô nhiễm biển khá đa dạng, có thể chia ra thành một số dạng như
sau:
• Gia tăng nồng độ của các chất ô nhiễm trong nước biển như dầu, kim loại nặng, các
hoá chất độc hại.
• Gia tăng nồng độ các chất ô nhiễm tích tụ trong trầm tích biển vùng ven bờ.
• Suy thoái các hệ sinh thái biển như hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái rừng ngập mặn,
cỏ biển…
• Suy giảm trữ lượng các loài sinh vật biển và giảm tính đa dạng sinh học biển.
• Xuất hiện các hiện tượng như thuỷ triều đỏ, tích tụ các chất ô nhiễm trong các thực
phẩm lấy từ biển.
Chức năng của biển:
1. Nguồn lợi thủy sản, giá trị kinh tế:
Việt Nam có vùng biển rộng lớn, bờ biển dài trên 3260 km và hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ trải
dài trên 13 vĩ độ với nhiều hệ thống sông lớn đổ ra biển, tạo ra vùng tiếp xúc sông – biển
rộng lớn. Điều đó thuận lợi cho việc phát triển kinh tế biển và vùng bờ.
Khu vực biển và bờ biển Việt Nam rất giàu động vật và thực vật, bao gồm hơn 2.000 loài
cá biển, 300 loài san hô cứng, và hàng ngàn loài thực vật. Biển Việt Nam có nguồn tài
nguyên về đa dạng sinh học rất giàu có. Về thực vật, ước tính có hơn 12000 loài, trong đó
có khoảng 7000 loài cây thực vật lớn (macrophytes) và 1.400 loài nấm. Về động vật có 273
loài động vật có vú, 638 loài chim (1009 loài nếu tính cả loài phụ), 349 loài động vật lưỡng
cư và bò sát, hơn 500 loài cá nước ngọt, hơn 2000 loài cá biển, hàng nghìn loài động vật
không xương sống hiện đã được xác định. Đặc biệt có 3 loài thú lớn, quý hiếm mới được
1
phát hiện gần đây ở Việt Nam. Mặc dù mới chỉ phát hiện một loài thú có vú lớn trong thế
kỷ 20, nhưng phát hiện mới này báo hiệu có sự tồn tại một nguồn đa dạng sinh học tiềm
tàng có một không hai ở Việt Nam.
Theo bộ Thủy Sản (2005), diện tích nuôi trồng thủy sản trong nước được đánh giá là
1.379.038 ha, trong đó diện tích đang sử dụng cho nuôi trồng ven biển là 374.400 ha với
sức gánh chịu là 115ha/km bờ biển, chiếm 27.3% diện tích có khả năng nuôi trồng. Riêng ở
Bắc và Nam Trung Bộ diện tích eo vịnh, đầm phá khá lớn, đạt đến 64.700 ha, chiếm 44.8%
diện tích eo vịnh toàn quốc, đồng thời ven biển miền Trung còn có những dải cồn cát rộng
hàng trăm nghìn ha đang được một số địa phương khai thác phục vụ cho mô hình nuôi
mới, nuôi tôm trên cát.
Nhờ sự phát triển nhanh và đồng bộ trong các lĩnh vực sản xuất và chế biến thủy sản, năm
1985 kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước chỉ đạt 90 triệu USD thì đến năm 2005, con số
đó là 2,742 tỷ USD, tăng gấp 30,5 lần. Giá trị xuất khẩu tôm chiếm trên 50% tổng giá trị
xuất khẩu, riêng Cà Mau đóng góp 500 triệu USD, chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu
thủy sản cả nước. Việt Nam đã được FAO xếp vị trí thứ 7 trong 10 nước xuất khẩu thủy
sản lớn nhất thế giới. Dự kiến vào năm 2010 xuất khẩu thủy sản của nước ta sẽ đạt 4,0 tỉ
USD (Bộ Thủy Sản, 2005). Bên cạnh đó, sự tăng trưởng các mặt trên của ngành đã thu hút
được nguồn lao động đáng kể, từ 740 nghìn người năm 1985 đã lên 4 triệu người năm
2005, điều này giúp giảm bớt lao động dư thừa, giảm tình trạng nhân công thất nghiệp
hàng năm, đưa ra công ăn việc làm giúp cho một bộ phận người dân có thu nhập ổn định.
Giá trị kinh tế: khai thác thủy hải sản, du lịch, cầu cảng… Đa dạng sinh học biển và ven
biển, ước tính lợi nhuận ròng là 39 triệu USD/ năm. Ngoại tệ thu được từ dầu khí và thủy
sản chiếm tới 23% tổng thu nhập quốc dân (GDP) vào năm 1998. Trong số 31 điểm du lịch
cấp quốc gia, có 19 điểm thuộc về 29 tỉnh ven biển chiếm 37% lượt khách du lịch của cả
nước. Lợi ích kinh tế thu được từ các nguồn tài nguyên sinh học không thể tính được, tuy
nhiên, các tác giả của Kế hoạch Hành động Quốc gia về Đa dạng sinh học ước tính rằng
các lợi ích kinh tế thu được từ các tài nguyên của Việt Nam sẽ khoảng 1 tỷ đôla/năm. Họ
cũng ước tính rằng chức năng dịch vụ sinh thái của môi trường tự nhiên (bảo vệ đất
nguyên sinh và điều tiết nước) có giá trị khoảng 1 tỷ đôla/năm. Các chi phí cho môi trường
nhân tạo có chức năng tương tự của vùng sinh thái tự nhiên cao về đa dạng sinh học, sẽ lớn
hơn rất nhiều so với các con tính này. Các nghiên cứu khác ước tính những chi phí thêm
cho việc xây dựng đê biển để bảo vệ bờ thay thế cho rừng ngập mặn của đất nước sẽ mất
khoảng 10 tỷ đôla.
Biển Việt Nam, ngoài ra, đóng một vai trò quan trọng trong các hoạt động hàng hải quốc tế
và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đóng góp vào đường hàng hải giữa biển Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương qua eo biển Malaca và Luzon. Phần lớn dầu từ Trung Cận
2
Động chuyên chở đến Nhật Bản và Mỹ cùng các nước Châu Á khác đi qua vùng biển của
Việt Nam, 65% hàng hóa được xuất, nhập khẩu thông qua các cảng biển… Có thể nói, Việt
Nam có vai trò quan trọng trong con đường giao thông biển của quốc tế, là đầu mối giao
thông của nhiều khu vực biển.
2. Là nơi chứa đựng các chất thải:
Tài nguyên biển và đại dương rất đa dạng, được chia ra thành các loại: nguồn lợi hóa chất
và khoáng chất chứa trong khối nước và đáy biển, nguồn lợi nhiên liệu hóa thạch, chủ yếu
là dầu và khí tự nhiên, nguồn năng lượng sạch, khai thác từ gió, nhiệt độ nước biển, các
dòng hải lưu và thủy triều.
Biển và đại dương là kho chứa hóa chất vô tận. Tổng lượng muối tan chứa trong nước biển
là 48 triệu km
3
. Hoạt động thăm dò và khai thác khoáng sản từ biển và đại dương đang
được triển khai với quy mô ngày một gia tăng, các loại khoáng sản khai thác chủ yếu từ
biển là dầu khí, quặng Fe, Mn, quặng sa khoáng, Au, Ti… và các loại muối. Ô nhiễm
không khí có tác động mạnh mẽ đến ô nhiễm biển, nồng độ CO
2
cao trong không khí sẽ
làm lượng CO
2
hòa tan trong nước biển tăng, nhiều chất độc hại và bụi kim loại nặng được
không khí mang ra biển. Sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển trái đất do hiệu ứng nhà kính
sẽ kéo theo sự dâng cao mực nước biển và thay đổi môi trường sinh thái biển.
Hiện trạng:
Trên thế giới:
Theo báo cáo về các biện pháp ngăn chặn ô nhiễm môi trường biển của chương trình môi
trường LHQ (UNEP) được công bố tại Hội nghị quốc tế ở Bắc Kinh (Trung Quốc) gần
90% lượng nước thải từ châu Á được đổ thẳng xuống biển mà không qua xử lí đang gây lo
ngại về môi trường, đe dọa sinh thái các vùng bờ biển có tầm quan trọng sống còn đối với
hoạt động kinh tế của loài người, đặc biệt là nghề cá.
Cùng với chất thải từ các nhà máy lớn đặt tại các vùng bờ biển, vùng biển Nam và Đông Á
còn phải tiếp nhận 2/3 khối lượng đất và phù sa, điều này không những gây ảnh hưởng trực
tiếp đến sức khỏe con người, nó còn phá hủy các hệ sinh thái ven biển có giá trị lớn về
kinh tế, như các vùng rừng ngập mặn, các vỉa san hô và những thảm rong biển.
Mặc dù có hơn 60 nước trên thế giới đã có các chương trình hành động quốc gia để ngăn
chặn những nguồn ô nhiễm biển xuất phát từ đất liền, song kết quả đạt được không bù đắp
nổi những thiệt hại do tình trạng bùng nổ dân số, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa
quá nhanh tại các vùng duyên hải. Theo giám đốc điều hành UNEP Achim Steiner, khoảng
80% chất gây ô nhiễm biển có nguồn gốc từ đất liền và chiều hướng này có thể tăng lên
đáng kể vào năm 2050 nếu như số dân sống tại vùng duyên hải tăng lên gấp đôi như dự
3
kiến trong vòng 40 năm nữa, và nếu như các nước không đẩy nhanh các chương trình
chống ô nhiễm biển.
LHQ kêu gọi các nước nhanh chóng hành động nhằm giảm bớt tình trạng ô nhiễm biển do
chất thải từ đất liền gây nên, thông qua sự hợp tác chặt chẽ giữa chính phủ và chính quyền
các địa phương, giữa các tổ chức tư nhân và tổ chức phi chính phủ, coi việc ngăn chặn ô
nhiễm biển như trách nhiệm hàng đầu. Trong 10 năm qua, Chương trình hành động toàn
cầu (GPA) do LHQ khởi xướng đã đã góp phần tích cực vào việc thúc đẩy cam kết của các
quốc gia trong việc ngăn chặn ô nhiễm biển, huy động được nguồn ngân quỹ lớn vào việc
bảo vệ môi trường, trong đó có việc tìm nguồn đầu tư 400 triệu USD để bảo vệ các vùng
biển Đông Á, 380 triệu USD cho vùng Địa Trung Hải và 400 triệu USD để bảo vệ vùng
Biển Đen và sông Đa-nuýp. Ông An-nan nhấn mạnh việc bảo đảm tính bền vững của môi
trường là một trong những trụ cột của cuộc đấu tranh toàn cầu nhằm chống đói nghèo, và
là nhân tố thiết yếu để đạt được các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.
Tại Việt Nam:
Chủ yếu ở Việt Nam vẫn chưa có hệ thống xử lí nước thải đồng bộ, nên hầu hết nước thải
được xả thẳng ra các sông hồ rồi đưa ra biển mà không qua xử lí. Các nguồn ô nhiễm theo
sông ngòi mang ra biển như dầu và sản phẩm dầu, nước thải, phân bón nông nghiệp, thuốc
trừ sâu, chất thải công nghiệp, chất thải phóng xạ, và nhiều chất ô nhiễm khác.
Theo các kết quả khảo sát gần đây của Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường tỉnh
Khánh Hoà, các khu dân cư sống ven biển đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nặng
về môi trường. Mức độ nhiễm bẩn cao nhất là vào lúc thuỷ triều thấp. Nước giếng ở khu
vực này bị nhiễm mặn và có "độ cứng" cao do thiếu oxy hoà tan. Ngoài ra, nguồn nước
giếng còn bị nhiễm bẩn bởi các vật lơ lửng như chất hữu cơ, nitrit, nitrat, phosphat, hydro
cacbon, coliform.
Còn tại vùng biển Phú Yên, tình trạng ô nhiễm biển cũng đang ở mức báo động. Với chiều
dài bờ biển khoảng 189km và hàng chục khu dân cư nhưng trong số 18.000 hộ sinh sống ở
đây thì chỉ khoảng 10% số hộ có nhà vệ sinh. Từ khi xây dựng cảng Vũng Rô, nơi có mặt
nước rộng 1.650ha , tỉnh Phú Yên đã di dân ra vùng tái định cư ở Bãi Ngà. 630 người định
cư đã phóng uế bừa bãi, thải nước sinh hoạt ra biển. Tháng 4/2004, khu vực này đã xảy ra
tình trạng tôm hùm chết. Vũng Rô hiện có khoảng 700 lồng nuôi thì lồng nào cũng có tôm
chết, có ngày có lồng chết đến ba con, mỗi con (10-12 tháng tuổi) nặng khoảng 0,3 kg, tính
ra mỗi ngày người nuôi phải chịu mất 1,2 triệu đồng (1kg tôm hùm khoảng 420.000-
440.000 đồng). Tình trạng trên 2.500ha nuôi tôm sú cùng hàng chục nghìn lồng nuôi các
loài thủy sản khác như tôm hùm, cá mú, ốc hương, ghẹ lột... cũng gây ô nhiễm cho biển, cá
mú thì bị bệnh loét da rồi chết... Bên cạnh đó, hệ thống sông ngòi mỗi năm đổ ra biển
khoảng 12 tỷ m
3
nước với cả các chất thải công nghiệp, nông nghiệp, chất thải sinh hoạt
4
hoặc các hóa chất độc hại khác trong quá trình khai thác khoáng sản, góp phần làm gia tăng
sự ô nhiễm.
Tại Nha Trang, với diện tích khoảng 250km
2
, dân số hơn 300.000 người. Số lượng dân cư
sống ở các khu vực ven biển khá đông song điều kiện về vệ sinh công cộng lại khá kém.
Phần lớn các gia đình sống ven biển không có hố xí tự hoại. Rác thải cũng ném bừa thẳng
ra biển. Các mực nước ven bờ của các khu đông dân cư thường có độ nhiễm bẩn rất
cao. Kết quả khảo sát tại một số khu dân cư tập trung đông là Tây Hải, Cửa Bé và Cồn
Giữa đã cho thấy hàm lượng nitơ trong nước biển khá cao. Hàm lượng muối phosphat (yếu
tố dinh dưỡng giới hạn trong khu vực nước) rất cao. Hiện tượng nở hoa của tảo gây hại
thỉnh thoảng lại được ghi nhận (dù chỉ diễn ra trong một thời gian rất ngắn). Ngoài ra, vịnh
Nha Trang cũng chịu áp lực ngày càng tăng của các chất thải qua con sông Cái đổ ra biển.
Lưu vực sông Cái có đến nửa triệu dân sinh sống, một phần lớn chất thải sinh hoạt của
người dân được đưa trực tiếp vào môi trường nước. Cùng với sự phát triển của xã hội,
lượng chất thải ngày càng gia tăng. Nhiều nguồn nước thải sinh hoạt có chứa các yếu tố
nhiễm bẩn vượt tiêu chuẩn cho phép. Chẳng hạn, nước thải sinh hoạt tại khu dân cư Cửa
Bé có lượng BOD là 156 mg/l, COD 253 mg/l, hydro cacbon 52,15mg/l.
Nguyên nhân:
Ô nhiễm biển cũng như tất cả các loại ô nhiễm khác, đều có nguồn gốc từ tự nhiên và nhân
tạo. Cũng như tất cả các loại ô nhiễm khác, các nguyên nhân nhân tạo bao giờ cũng gây ra
những tác hại to lớn và để lại hậu quả nặng nề. Công ước Luật biển năm 1982 đã chỉ ra 5
nguồn gây ô nhiễm biển: các hoạt động trên đất liền, thăm dò và khai thác tài nguyên trên
thềm lục địa và đáy đại dương, thải các chất độc hại ra biển, vận chuyển hàng hoá trên biển
và ô nhiễm không khí.
1. Về các nguồn ô nhiễm nhân tạo, có thể chia ra làm các loại sau:
Tràn dầu ra biển:
Trong tương lai, do khan hiếm nguồn trên lục địa, sản lượng khai thác khoáng sản đáy biển
sẽ gia tăng đáng kể. Trong số đó, việc khai thác dầu khí trên biển có tác động mạnh mẽ
nhất đến môi trường biển. Hiện tượng rò rỉ dầu từ giàn khoan, các phương tiện vận chuyển
và sự cố tràn dầu có xu hướng gia tăng cùng với sản lượng khai thác dầu khí trên biển. Vết
dầu loang trên nước ngăn cản quá trình hoà tan oxy từ không khí. Cặn dầu lắng xuống đáy
làm ô nhiễm trầm tích đáy biển. Nồng độ dầu cao trong nước có tác động xấu tới hoạt động
của các loài sinh vật biển. Các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ngoài khơi Việt
Nam đang tăng lên hàng năm. Các vùng có các hoạt động dầu khí là vùng biển Việt Nam,
vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan và Quần đảo Trường Sa. Các hoạt động thông thường kèm
theo việc khai thác và vận chuyển dầu gây ra tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do dầu.
5