Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

ô nhiễm biển - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.42 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA MÔI TRƯỜNG
BỘ MÔN KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG
ĐỀ TÀI:
Ô NHIỄM BIỂN
HIỆN TRẠNG & GIẢI PHÁP

TP.HCM, THÁNG 05/2005
Hiện Trạng & Giải Pháp Môi Trường Biển Việt Nam
Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN
HIỆN TRẠNG & GIẢI PHÁP
I – TỔNG QUAN:
Việt Nam được bao bọc cả 3 phía bởi biển Đông. Diện tích của biển đạt tới 3 447 000 km
2

đứng vào hàng thứ 3 trên thế giới về diện tích. Biển Việt Nam là 1 vùng biển kín có diện tích lớn
hơn nhiều so với diện tích đất liền. Đường bờ biên dài 3260km. Chiếu theo Công ước Quốc tế về
luật biển (1982-1994) thì Việt Nam có chủ quyền trên một diện tích khoảng 1 triệu km
2
, tính từ
đường cơ sở ra đến 200 hải lý bao gồm 2 vònh lớn là vònh Bắc Bộøvònh Thái Lan, hai quần đảo
Trường Sa, Hoàng Sa và hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ khác.
1) Đòa hình:
Yếu tố đòa hình khá đa dạng và có 2 loại đặc trưng: dạng đòa hình dốc lớn bao gồn khu vực
phía bắc thuộc tỉnh Quảng Ninh khu vực kéo dài từ Quảng Trò đến Vũng Tàu với đặc trưng cơ bản
của dạng đòa hình này là núi cao trên lục đòa kéo dài sát bờ biển, đáy dốc tạo thành khu vực biển
sâu, biến động khá lớn và dạng đòa hình thoải với đặc điểm đòa hình nhóm này là sự biến động
của cao trình không lớn, chúng tạo thành các dãy đồng bằng rộng tren mức chiều và thềm lục đòa
thoải rộng ở mức dưới biển. Nước mặn theo các dòng sông lạch vào sâu trong dất liền 150-200
km.


 Khu vực từ Mũi Ngọc đến mũi Đồ Sơn (Hải Phòng) : khu vực này có điều kiện tự
nhiên khá khắc ngiệt với mùa đông lạnh kéo dài, nhiệt độ thấp. Vùng biển thường
có núi đá và đồi thấp, bãi biển thường xuất hiện rừng sú vẹt. Đặc điểm nổi bật của
khu vực này là ccác vònh Hạ Long, kỳ quan kiấn tạo nổi tiếng giúp đònh hướng phát
triển kinh tế đa dạng.
 Khu vực từ cửa Đồ Sơn đến cửa sông Lách : đặc trưng cao nhất của khu vực này là
sự hoạt động bồi tụ của hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình đòa hình hoi thoai
thoải, thềm lục đòa rộng và nông, đất đai phì nhiêu. Tuy nhiên, thường bò ảnh hưởng
của gió lạnh, gió, bão. Nước lợ vào khá sâu. Đất có bò nhiễm mặn, trong vùng nay
đa dang sinh học phong phú.
 Khu vực miền trung từ cửa song Lách tới Vũng Tàu : đặc điểm của khu vực này là
đìa hình khá dốc, kể cả đáy biển, phù sa rất ít, chủ yếu là các loại cát biển có khinh
2
Hiện Trạng & Giải Pháp Môi Trường Biển Việt Nam
tế khác nhau. Ngoài ra còn có các rạn san hô khá điển hình. Khu vực này ngoài
việc chòu một phần gió mùa Đông Bắc lạnh, còn chòu sự tác dộng của các cơn bão
hình thành từ ngoài biển Đông đổ vào. Mức độ tàn phá khá lớn. Tuy nhiên đây lại
là một vùng xuất phát của nhiều nền văn hóa văn minh khu vực có giá trò. Do biển
khá sâu việc vận chuyển và khai thác hải sản ven bờ là một thế mạnh. Khu vực này
còn có nhiều đầm phá, vủng sâu mà các vùng khác không có, như phá Tam Giang…
bãi cát vàng, cát trắng giàu Silic. Đa dạng sinh học tương đối phong phú.
 Khu vực từ Vũng Tàu đến Hà Tiên và mũi Cà Mau : khu vực này có nhiều ưu điểm
của tự nhiên, khí hậu ổn đònh, ít gió bão, không lạnh. Đòa hình dốc thoai thoải ra
biển Đông. Mặn có thể thâm nhập rất sâu vào đất liền, đáy biển khá bằng, hơi dốc
hằng năm có thể được bồi 1 lượng ohù sa, tiềm năng dầu và khí rất lớn.Nhất là khu
vực giáp Vũng Tàu, Côn đảo. Đây cũng là vùng có đa dạng sinh học rất lớn so với
các vùng khác. Đa dạng sinh học rất phong phú.
 Khu vực Trường Sa, Hoàng Sa ; là khu vực vùng đảo nằm tập trung phía Đông của
Biển Đông. Tạo thành một quần thể sinh thái đảo khá đặc biệt. Mặc dù diện tích
không lớn. Khu vực này có một già trò đặc biệt trong mối quan hệ sinh thái vùng.

2) Đặc điểm khí hậu & sự vận động của nước biển:
Khí hậu vùng ven biển Việt Nan mang tính chất nhiệt đới ẩm khá điển hình. Độ ẩm bình
quân năm đạt 80%. Nhiệt lượng hàng năm nhận được đạt trên 100Kcal/cm
2
/năm. Nhiệt độ bình
quân năm xấp ỉ 25 – 27
0
C , tổng nhiệt hữu hiệu (>10
0
C) đạt 800
0
C/năm là những yếu tố có lợi cho
hệ sinh thái ven biển rất nhiều. Tuy nhiên, do nằm kéo dài qua nhiều vó độ (8-23
0
24B) nên khí
hậu biến động theo mùa và theo khu vực.
Khu vực từ Quảng Ninh đến Đà Nẵng là khu vực chòu nhiều ảnh hưởng của giá lạnh phía
Bắc nhiệt độ xuống thấp vào các tháng 11, 12, 1, 2. Nhất là khu vực phía Bắc (Hải Phòng, Thanh
Hoá, Nam Hà) nhiệt độ nhiều khi xuống thấp dưới 10
0
C. Nước biển cũng có biên độ nhiệt khá
rộng. Điều đó phần nào tạo cho khu vực này có đặc điểm của vùng Á nhiệt đới.
Khu vực phía Nam đèo Hải Vân đến mũi Cà Mau khí hậu ít khắc ngiệt hơn, ảnh hưởng của
gió rất hạn chế, nhiệt độ thấp nhất cũng trên 18
0
C. Nó là một trong những nguyên nhân góp phần
phân hoá môi trường ven biển.
Về hoạt động của dòng biển trong khu vực. Các tài liệu cho thấy, trong nguồn biển Việt
nam có 2 dòng chảy khá đặc trưng. Có hướng chảy ngược chiều kim đồng hồ. Đó là dòng chảy
của Biển Đông và dòng chảy của vònh Thái lan và ngược lại. Nhờ 2 dòng chảy này mà quá trình

bồi đắp, sự dòch chuyển của hải sản và sự phát triển của hệ sinh thái ven biển mới trở nên đa
dạng và phing phú.
Về thuỷ triều, thường tại vủng biển Việt Nam có chế độ bán nhật triều, càng xuống phía
Nam chế độ bán nhật triều càng rõ. Biên độ triều có nơi lên đến 4m, bình quân là 1,5-2m. Chế độ
3
Hiện Trạng & Giải Pháp Môi Trường Biển Việt Nam
triều xuống phía Nam khá đặc biệt do ảnh hưởng của hai phía ; vònh Thái Lan và biển Đông, nen
có nơi ở sâu trong đất liền nhưng vẫn có nước mặn lưu trữ ( vùng giáp nước). Đặc điểm này góp
phần mở rộng diện tích của vùng ven biển Viật nam len rất nhiều.
II- TÀI NGUYÊN BIỂN VIỆT NAM & THỰC TRẠNG KHAI
THÁC:
Trong phần này chúng ta xét về tài nguyên biển Việt Nam ở các khía cạnh chính: nguồn
lợi thuỷ sản, tài nguyên dầu khí, khoáng sản trong lòng biển, tài nguyên du lòch biển.
1) Tài nguyên động thực vật biển:
a) Đánh giá trữ lượng:
Biển Việt nam là một vùng biển ngiệt đới nên có những nét đặc trưng sau: có thành phần
đa dạng loài (hiện nay mới biết được 2038 loài cá biển và khoảng 1800 loài nhuyễn thể), nhưng
số lượn cá thể từng loài không lớn. Các loài có giá trò kinh tế chiếm một tỷ lệ nhỏ vào khoảng
10%. Một số loài cá có giá trò kinh tế cao như cá Nục, cá Hồng, cá Mối, cá Chỉ Vàng, cá Thu
Ngừ, cá Mú, các loài cua sò ngao vọp… là đặc sản của vùng bãi triều ven bờ. Riêng về tôm đền
nay đã biết được 101 loài, thuộc 34 giống, của 11 họ, trong đó tôm He, tôm Hùm có giá trò kinh tế
rất cao. Mực: có 7 loài mực ống, 8 loài mực nang, 3 loài mực sim, 7 loài bạch tuộc. Tảo biển có:
653 loài rong biển, 301 loài rong đỏ, 77 loài rong lam, 124 loài rong nâu, 151 loài rong lục. Các
loài có giá trò kinh tế cao chiếm 14%. Ngoài ra còn có rong mơ, rong câu, rong mức, rong kỳ lân.
San hô có 298 loài thuộc 76 giống và 16 họ, nhưng hiện nay bò suy thoái do khai thác bùa bãi. San
hô Seleractinia là loại quan trọng nhất tạo nên các rạn san hô. Động vật trên cạn tại các đảo: có
66 loài dã thú, 170 loài chim, 43 loài bò sát, 12 loài quý hiếm, 2 loài đặc hữu (vọc đấu trắng và
sóc đen). Trên các đảo biển miền Nam Việt Nam có loài chim yến hàng.
Các đàn cá thường có quy mô không lớn lại phân bố một cách rải rác. Cơ thể cá thuộc loại
nhỏ và trung bình, tuổi thọ thấp nhưng bù lại khả năng tái sinh và phục hồi trữ lượng tương đối

nhanh do cá đẻ hầu như quanh năm và thành nhiều đợt, tập trung vào các vụ xuân hè ở các khu
vực ven bờ, cửa sông và hải đảo. Tính chung có khoảng 12 bãi cá chính ở các khu vực ven bờ và
3 bãi cá tren các khu vực biển ngoài khơi là có giá trò hơn cả, khai thác mỗi năm từ 15-20 ngàn
tấn. Trữ lượng cá biển Việt Nam vào khoảng 3 triệu tấn/năm trong đó cá nổi chiếm gần 2/3, còn
lại là cá đáy.
b) Thực trạng khai thác:
Theo số liệu thống kê 1996, tổng sẩn lượng thuỷ san khai thác của nước ta lên tới 1,37
triệu tấn, trong đó 2/3 được khai thác từ biển. Tốc độ khai thác thuỷ sản của nước ta trong 10 năm
gần đây tăng nhanh, song phương tiện khai thác chủ yếu vẫn còn rất thô sơ, có công suất nhỏ.
Các phương tiện đánh bắt loại nhỏ hơn 33 sức ngựa, chiếm tới 80% nên chỉ khai thác được các
loài thuỷ sản nhỏ, còn non ở ven bờ và các cửa sông, mà không có khả năng đánh bắt xa bờ.
4
Hiện Trạng & Giải Pháp Môi Trường Biển Việt Nam
Nước ta có khoảng trên 420 000 người lao động trong ngành ngư nghiệp, phần lớn được đào tạo
theo kiểu cha truyền con nối, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, thiếu trang bò kiến thức khoa học nen
thường vi phạm các quy đònh, gây thiệt hại đến các nguồn lợi và môi trường sốn của các loài thuỷ
sản và hải sản.
Nguồn lợi thuỷ sản của Việt Nam giảm sút ngiêm trọng trong thời gian gần đây không chỉ
do đánh bắt trực tiếp mà còn do sự biến động về môi trường sống của sinh vật. Điển hình là việc
phá rừng ngập mặn để nuôi tôm, điều này không chỉ tàn sát quần thể sinh vật dưới rừng ngập
mặn, làm mất cân bằng sinh thái mà còn góp phần làm giảm trữ lượng thuỷ sản xa bờ.
2) Tài nguyên khoáng sản:
a) Tài nguyên dầu khí:
Vùng biển Việt Nam có diện tích khoảng 1 triệu km
2
, trong đó vùng có triển vọng dầu khí
rộng 500000km
2
. Thềm lục đòa Việt Nam có khoảng 5 bể trấm tích có khả năg chứa dầu khí: bể
trầm tích sông Hồng, bể trầm tích Trung bộ, bể trầm tích Cửu Long, bể trầm tích Nam Côn Sơn

và bể trầm tích Thổ Chu – Mã Lai. Trong đó 2 bể được khai thác nhiều nhất là Nam Côn Sơn và
Cửu Long.
Vùng vònh Bắc bộ có những dấu hiệu cho thấy những mạch dầu tập trung với trữ lượng rất
đáng kể. vùng thềm lục đòa miền Trung và miền Nam đã phát hiện ba khu vực có trữ lượng dầu
lớn là Quảng Trò – Thùa thiên, Phú Quốc – Hà Tiên và Tây Nam Côn Đảo. Trữ lượng dầu ngoài
khơi thềm lục đòa Việt nam ước tính 1,7 tỷ thùng, chiếm 25% trữ lượng dầu nằm dưới đáy biển
Đông, cho phép khai thác từ 30000-40000 thùng 1 ngày. Như vậy, sản lượng dầu thô khai thác
hàng năm có thể đạt 20 triệu tấn.
Ngoài dầu, vùng thềm lục đòa Việt Nam còn có một trữ lượng khí đốt ước tính vào khoảng
3000 tỷ m
3
. Sản lượng khai thác năm 2000 đạt khoảng 4 triệu m
3
. Như vậy. Trữ lượng dầu khí dự
báo của toàn bộ thềm lục đòa Việt Nam là khoảng 9 tỷ tấn quy ra dầu, trữ lượng khai thác có thể
đạt một nửa.
Người ta cho rằng dầu mỏ là một loại vàng đen của tổ quốc do giá trò kinh tế của nó rất
cao. Tuy nhiên, đã nói đến vàng đen cần phải suy nghó đến những hệ l từ việc khai thác và sử
dụng nó. Trong đó, hai vấn đề đang được quan tâm nhất phải kể đến là nguy cơ cạn kiệt của
nguồn tài nguyên dầu hoả và sự huỷ hoại môi trường do sự sử dụng nguyên liệu, chưa kể đến
những thảm hoạ sinh thái cục bộ do sự cố tràn dầu. Trầm trọng hơn là sự thăm dò dầu của ngành
khai thác dầu khí thềm lục đòa và khí tự nhiên đồng hành đang thải tự do trong không khí của các
mỏ dầu thềm lục đòa Việt Nam.
b) Các khoáng sản trong lòng biển:
5
Hiện Trạng & Giải Pháp Môi Trường Biển Việt Nam
Vùng biển Việt Nam nằm gọn trong phần phía Tây vành đai quặng thiếc Thái Bình Dương,
có trữ lượng lớn với hàm lượng thiếc trong quặng lên tới 70%. Các dải đất ven biển còn có thể
tìm thấy các sa khoáng, trong đó có giá trò lớn nhất là quặng Titan, quặng Ziricon và cát thạch
anh. Trong các loại sa khoáng trên thì quăïng Titan đã được khai thác để đáp ứng cho các nhu cầu

của nhiều ngành công nghiệp như sản xuất que hàn điện, chế tạo dioxit Titan nhân tạo. Tinh
quặng ziricon đã được sử dụng trong công nghiệp đồ sứ, gạch men.
Đáy biển Việt Nam có nhiều loại đất hiếm giá trò, là nguyên liệu cho các ngành chế tạo
hợp kim, vật liệu cao cấp với các đặc tính bền, siêu nhiệt,…
Khoáng sản quan trọng nhất ở đáy biển là các khối quặng kết thạch rộng đến hàng ngàn
cây số vuông, trong đó có chứa nhiều kim loại với hàm lượng khoảng 20-25% mangan, 14% sắt,
2% niken, 0.5% đồng, 0.5% côban và nhiều nguyên tố phóng xạ, đất hiến khác…
3) Tài nguyên du lòch biển:
Với 3260 km đường bờ biển với nhiều bãi cát trắng, đẹp, đầy nắng, nhiều danh lam thắng
cảnh và hải sản phong phú, đa dạng. Biển Việt Nam đang là nơi thu hút du khách trong và ngoài
nước. Nhiều trung tâm du lòch ven biển nổi tiếng từ Trà Cổ ở Đông Bắc đến Vũng Tàu – Hà Tiên ở
miền Tây Nam đã đón mời được hàng chục vạn du khách đến nghỉ ngơi, thăm quan hàng năm.
Tiềm năng du lòch biển còn rất lớn. Trong tương lai nếu được đầu tư cơ sở hạ tầng và đội ngũ làm
du lòch, chắc chắn du lòch biển sẽ trở thành một ngành quanb trọng và có hiệu quả kinh tế rất lớn
ở nước ta.
Những rặng san hô của miền Trung có thể trở thành khu du lòch gọi là “công viên ven biển”
cùng với nó là viện Hải Dương có bề dày nghiên cứu trên 100 năm, đủ làm say mê các nhà du lòch
và các nhà nghiên cứu.
Miền Tây Nam Bộ Việt Nam có du lòch làng vườn với phương tiện di chuyển êm đềm là
xuồng nhỏ và với các vườn trái cây phong phú, sạch và đẹp là điểm không phải nơi nào trên thế
giới cũng đều có – là một lợi điểm của du lòch sinh thái lý tưởng.
Rừng đước Cà Mau với tốc độ lấn biển xấp xỉ 100m/năm có nhiều hệ tầng khác nhau là một
điều hấp dẫn, đặc biệt tại Việt Nam còn có các sân chim với hàng trăm loài sinh sống tập trung
cũng là một động lực thu hút khách thăm quan.
Riêng về bãi tắm Việt Nam có các bãi biển nổi tiếng từ lâu đời như Trà Cổ, Sầm Sơn, Đồ
Sơn, Cửa Tùng, Sơn Trà, Nha Trang, Quy Nhơn, Vũng Tàu và đặc biệt là bãi biển Hà Tiên là sự
kết hợp giữa biển đồi núi và đảo tạo thành một quần thể tự nhiên phong phú và đa dạng. Bóa biển
Việt Nam luon có hình thế bằng thoải ít sóng, luôn nắng ấm và ít nguy hiểm là một thế mạnh cho
du lòch.
6

×