Cổ tức và phát triển doanh nghiệp
Khi đồng vốn của doanh nghiệp ngày càng được xã hội hóa, áp lực
của công chúng cổ đông đối với thành tích của doanh nghiệp ngày càng
tăng. Và đối với phần lớn cổ đông đại chúng thì thành tích hoạt động của
doanh nghiệp cuối cùng được đo lường bằng mức cổ tức được chia cho mỗi
cổ phần (EPS - Earning per share) và - hoặc là sự tăng giá của cổ phiếu trên
thị trường chứng khoán. Nhưng vì sự tăng giá của cổ phiếu cũng phần lớn
dựa trên EPS nên suy cho cùng, điều mà cổ đông đại chúng mong muốn đối
với kết quả hoạt động hàng năm của doanh nghiệp là một tỷ lệ chia cổ tức
cao. Xu hướng chia cổ tức cao của nhiều doanh nghiệp Việt Nam trong thời
gian gần đây cho thấy họ đã bị cuốn theo chiều ngọn gió đòi hỏi của công
chúng với một mục tiêu kép, vừa quảng cáo hiệu quả của doanh nghiệp, vừa
nâng giá cổ phiếu.
Chia cổ tức cao là một điều tốt, chứng tỏ doanh nghiệp đang làm ra
tiền, nhưng không phải là điều tốt nhất. Doanh nghiệp Việt Nam, trước làn
sóng cạnh tranh của hội nhập, cần có một tầm nhìn và một chiến lược dài
hạn hơn. Từ một xuất phát điểm thấp, họ có thuận lợi là có thể phát triển
nhanh hơn trong giai đoạn đầu. Sự tăng trưởng nhanh chóng của nhiều
doanh nghiệp Việt Nam trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh như ngân
hàng, công nghệ thông tin, công nghiệp nặng (cement, sắt thép), phân phối,
dịch vụ… với tốc độ phát triển hai chữ số mỗi năm minh chứng điều này.
Tuy nhiên, xét về đồng vốn, về quy mô hoạt động, về thị phần của sản phẩm,
về danh tiếng thương hiệu, họ vẫn còn quá bé nhỏ so với những chàng
Goliath trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á (Trung Quốc, ASEAN), và
không thể so sánh với những ông khổng lồ đa quốc gia ở những nước công
nghiệp phát triển. Những chàng David của Việt Nam cần phải mạnh mẽ hơn,
được trang bị tốt hơn về các mặt khi ra đấu trường quốc tế. Để làm được
điều này, chính sách phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp cần thay đổi.
Tích lũy để tái đầu tư mở rộng sản xuất và thị trường cho sản phẩm phải là
một sự lựa chọn ưu tiên hơn thay vì chia cổ tức với một tỷ lệ cao.
Đây không phải là một sự chọn lựa dễ dàng. Đó là cuộc đấu tranh
quyết liệt trong nội bộ cổ đông giữa lợi ích của người muốn bán trứng và
người muốn nuôi gà và không phải lúc nào những người có tầm nhìn xa đều
thắng. Đầu tư cho tương lai là một quyết định khó khăn vì đầu tư cho tương
lai đòi hỏi không những sự chấp nhận hy sinh lợi ích hiện tại mà còn phải có
một niềm tin vào sự thành công lớn hơn trong tương lai, một niềm tin chắn
chắn rằng đó không phải là một việc thả mồi bắt bóng. Sự lựa chọn hướng
về tương lai của các doanh nghiệp là kết quả của một sự đồng thuận xã hội,
không chỉ là vấn đề của mỗi doanh nghiệp. Nếu các doanh nghiệp cùng nhau
hướng về đầu tư cho tương lai, đó là vì toàn thể cộng đồng muốn như thế.
Khi đó, đa số các cổ đông sẽ biểu quyết cho một chiến lược tích lũy dài hạn
thay vì biểu quyết cho việc phân chia cổ tức theo một tỷ lệ cao. Nền văn hóa
ăn xổi ở thì sẽ chấm dứt để nhường chỗ cho một nền văn hóa mới được hình
thành. Đó là nền văn hóa hướng về tương lai, với một sự tự tin mãnh liệt
rằng Việt Nam cũng sẽ xây dựng được những doanh nghiệp hùng mạnh như
những nước công nghiệp phát triển khác và trở thành cường quốc kinh tế
như họ, bằng cách tích lũy tái đầu tư ngay từ lúc này.
EPS là một yếu tố quan trọng nhưng không phải là tất cả. Giá trị cổ
phiếu (P) còn được hình thành bởi nhiều yếu tố khác, có những yếu tố phi
vật chất. Khi lợi nhuận được tích lũy thay vì mang đi chia, phần giá trị tăng
thêm cho cổ phiếu vẫn còn đó. Quan trọng hơn, phần tích lũy đó lại có thể
sinh sôi, không chỉ dưới dạng tài sản vật chất mà còn phi vật chất. Việc cải
tiến quy trình công nghệ sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành
và mở rộng thị phần cho sản phẩm. Nhiều người tiêu dùng hơn, trong nước
cũng như ngoài nước, sẽ nhận biết sản phẩm của doanh nghiệp. Năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp gia tăng và giá trị thương hiệu của doanh
nghiệp cũng gia tăng. Những điều đó, vào tay của những nhà tài chính
chuyên nghiệp, đều có thể tính bằng tiền. Cuối cùng, ai cũng sẽ nhận ra rằng,
một đồng tiền tích lũy cho tái đầu tư sẽ có hiệu quả làm tăng giá cổ phiếu
cao gấp nhiều lần đồng tiền được mang ra chia. Chắc chắn cô bán sữa
Perrette trong truyện ngụ ngôn của La Fontaine sẽ không thực hiện được
giấc mơ làm giàu trong mơ của cô nếu cô chỉ nghĩ đến việc mua trứng để ăn
thay vì để ấp ra một bầy gà xinh đẹp.
Khi phân tích chỉ số P/E của các doanh nghiệp Nhật Bản vào thập
niên 1980, kinh tế gia người Mỹ Lester Thurow ngạc nhiên khi nhận thấy
rằng giá cổ phiếu (P) của doanh nghiệp Nhật rất cao trong khi mức cổ tức lại
rất thấp, gần như bằng không. Ông gọi nghịch lý này là một “vạn lý trường
thành” của nền kinh tế Nhật và nhận ra rằng nó rất có hiệu quả nhằm ngăn
chặn sự xâm nhập vào doanh nghiệp Nhật của đồng vốn Tây phương vốn
luôn luôn chạy vào nơi có lãi suất cao. Nhưng ông lại thấy rằng đây là một
ưu điểm đặc biệt. Các doanh nghiệp Nhật đã sử dụng gần như toàn bộ lợi
nhuận của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm làm tăng năng lực cạnh tranh
toàn cầu của họ và thực hiện một chính sách chinh phục thị trường đáng sợ.
Nền văn hóa tối đa hóa thị phần của doanh nghiệp Nhật đã có thời kỳ vượt
trội nền văn hóa tối đa hóa lợi nhuận của Mỹ và Tây phương. Kinh nghiệm
của doanh nghiệp Nhật có thể là một bài học đáng suy nghĩ cho những
doanh nghiệp Việt Nam trước cửa biển hội nhập, khi chuẩn bị tham gia cuộc
đánh bắt lớn trong một đại dương đầy sóng dữ của cạnh tranh.