TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
CƠ SỞ THANH HÓA – KHOA KINH TẾ
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI :
GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN
DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN HUYỆN ĐÔNG SƠN
GIÁO VIÊN HD : TH.S TRẦN THỊ HƯỜNG
SINH VIÊN TH : NGUYỄN THỊ VÂN
MSSV : 11035253
LỚP : CDTN13TH
THANH HÓA, THÁNG 06 NĂM 2014.
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………….ngày ,…. … tháng …… năm 2014
Giảng viên
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………….ngày ,…. … tháng …… năm 2014
Giảng viên
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
MỤC LỤC
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
DANH MỤC VIẾT TẮT
NHNo&PTNT :Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHNN :Ngân hàng nhà nước
NHTM :Ngân hàng thương mại
NH:Ngân hàng
TD:Tín dụng
TS :Tài sản
DN: Doanh nghiệp
RR: Rủi ro
RRTD : Rủi ro tín dụng
RRHĐ : Rủi ro hối đoái
HĐKD : Hoạt động kinh doanh
CBVC : Cán bộ viên chức
CBTD : Cán bộ tín dụng
HTX :Hợp tác xã
NQH :Nợ quá hạn
TSBĐ : Tài sản bảo đảm
BĐTV :Bảo đảm tiền vay
DPRR :Dự phòng rủi ro
CBTD :Cán bộ tín dụng
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
LỜI MỞ ĐẦU
Với mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN có sự
quản lý của Nhà Nước, trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà Nước, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển, tăng trưởng toàn
diện và bền vững. Biểu hiện ở tốc độ tăng GDP đạt ở mức tương đối cao, những
năm gần đây luôn ở mức gần 10%, từ đó thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành
nghề, đồng thời cải thiện được nhiều lĩnh vực đời sống của nhân dân. Có được
những thành tựu đó một phần không nhỏ là sự đóng góp của các NHTM. Với
các chức năng của mình đặc biệt là chức năng trung gian tín dụng, các NHTM
thực sự là đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bên cạnh những đóng góp
chung cho nền kinh tế, bản thân các NHTM còn tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động
kinh doanh của mình. Khi đó tất yếu họ phải đối mặt với những rủi ro.
Với các NHTM thực hiện quá trình kinh doanh nhằm mục tiêu tối đa hoá
lợi nhuận nhưng việc tìm kiếm lợi nhuận vẫn chủ yếu từ hoạt động tín dụng.Các
NHTM hiện nay đều có chiến lược mở rộng thị phần tín dụng vì thế RRTD sẽ
gây ra những thiệt hại rất lớn cho các NH và nó trở thành vấn đề nổi cộm cần
được các NH quan tâm giải quyết. Để đảm bảo an toàn cho hoạt động của các
NH trên con đường tìm kiếm lợi nhuận thì việc phòng ngừa và hạn chế RRTD là
một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, từ đó đảm bảo an toàn vốn, kết
hợp ở mức tối ưu những lợi nhuận và rủi ro, nâng cao mức cạnh tranh, từ đó bảo
đảm cho sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi NH. Do đó phòng ngừa và
hạn chế RRTD đã và đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các NHTM
hiện nay.
Từ những nhận thức đó cùng với những gì đã được học ở trường Đại học
Công nghiệp TP.Hồ Chí Minh em đã chọn đề tài” Giải pháp phòng ngừa và
hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Huyện Đông Sơn Thanh Hoá” để
làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Thực hiện đề tài này giúp em đánh giá được những vấn đề mang tính lý
luận về RRTD trong HĐKD của NHTM nói chung từ đó vận dụng thực tiễn vào
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
quá trình công tác sau khi ra trường.
KẾT CẤU CHUYÊN ĐỀ GỒM 3 CHƯƠNG:
Chương 1: Cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại trong
nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Đông Sơn
tỉnh Thanh Hoá.
Chương 3: Những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại
NHNo&PTNT huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hoá.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo, các
cô chú, anh chị cán bộ, công nhân viên của Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Sơn,
đặc biệt là của cô giáo: Giảng viên Ths.Trần Thị Hường – người đã nhiệt tình
hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI
RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm
NHTM là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ vì mục đích lợi nhuận mà nhiệm
vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và
cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Khác với các doanh nghiệp khác, NHTM không trực tiếp tham gia sản xuất
và lưu thông hàng hóa, nhưng nó góp phần phát triển nền kinh tế xã hội thông
qua việc cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, thực hiện chức năng trung gian
thanh toán và dịch vụ Ngân hàng.
1.1.2 Hoạt động của NHTM:
1.1.2.1 Hoạt động tạo lập nguồn vốn:
Nguồn vốn của NHTM bao gồm toàn bộ các giá trị tiền tệ do Ngân hàng
tạo lập được từ các chức năng và nghiệp vụ nhận tiền gửi của Ngân hàng. Thông
thường nguồn vốn của Ngân hàng được hình thành từ:
Thứ nhất: Vốn tự có và coi như tự có của Ngân hàng:
Để có thể thành lập một Ngân hàng thì chủ sở hữu phải có một số vốn cần
thiết nhất định ban đầu theo pháp luật quy định còn gọi là vốn điều lệ (hay vốn
riêng). Nó là cơ sở ban đầu để hình thành và giúp Ngân hàng đi vào hoạt động,
tuy nhiên nó thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ dưới 10% trong tổng nguồn vốn của
Ngân hàng. Vốn này được gia tăng trong quá trình hoạt động kinh doanh bằng
cách trích từ lợi nhuận, hoặc bằng cách tăng mức đóng góp của các chủ sở hữu.
Bên cạnh vốn điều lệ, các NHTM còn phải trích lập các quỹ dự trữ như: quỹ dự
trữ thông thường, quỹ dự trữ đặc biệt
Quỹ dự trữ thông thường là quỹ được trích lập từ lợi nhuận hàng năm để bổ
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
sung cho vốn lưu động khi đã đạt được một quy mô nhất định.
Ngoài ra, NHTM còn có vốn coi như tự có được thể hiện như: quỹ khen
thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao TCSĐ
Thứ hai: Hoạt động huy động vốn trong xã hội:
Với chức năng làm trung gian tài chính nên các NHTM đã thực hiện huy
động vốn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội. Để có tiền cho vay, đầu tư và kinh doanh
cho mọi thành phần kinh tế trên các lĩnh vực khác nhau thì đòi hỏi các NHTM
không thể chỉ dựa vào vốn tự có của mình mà phải huy động vốn trên thị trường.
Đây là một hoạt động quan trọng hàng đầu của mỗi NHTM, bởi vì thông thường
nguồn vốn huy động này chiếm tỷ trọng rất lớn trong nguồn vốn của NHTM
(70%-80%). Từ hoạt động này đã hình thành và tạo lập nên nguồn vốn chủ lực
trong kinh doanh của bất kỳ một NHTM nào. NHTM huy động vốn dưới các
hình thức như: nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán trong đó tiền gửi
bao gồm tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Với loại tiền gửi không kỳ
hạn thì khách hàng có thể gửi và rút ra một cách dễ dàng, tuỳ theo nhu cầu của
họ nên nguồn vốn này thường xuyên biến động dễ dẫn đến rủi ro, nhưng nó lại
là nguồn vốn quan trọng. Còn tiền gửi có kỳ hạn nó tạo nên nguồn vốn khá ổn
định cho NHTM. Ngoài ra NHTM còn phát hành thêm chứng chỉ tiền gửi như
trái phiếu ngân hàng, kỳ phiếu Một nguồn vốn quan trọng khác trong hoạt
động huy động vốn của các NHTM là nguồn vốn đi vay ngân hàng khác ở trong
và ngoài nước. Hay vốn tạo được qua việc làm trung gian thanh toán.
Thứ ba: Nguồn vốn đi vay của Ngân hàng khác:
Nguồn vốn đi vay của các Ngân hàng khác là nguồn vốn được hình thành
bởi các mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau hoặc giữa các tổ chức
tín dụng với NHTW. Nguồn vốn này bao gồm:
Nguồn vốn đi vay của các tổ chức tín dụng:
Trong quá trình kinh doanh của bất kì một doanh nghiệp nào cũng có lúc
phát sinh tình trạng tạm thời thừa vốn. Và ngược lại cũng phát sinh tình trạng
tạm thời thiếu vốn. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng không tránh khỏi
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
tình trạng đó. Đối với Ngân hàng, cũng có lúc Ngân hàng tập trung huy động
được vốn nhưng lại không cho vay hết, trong khi đó vẫn phải trả lãi tiền gửi.
Tương tự, có thời điểm nhu cầu cho vay vốn lớn nhưng khả năng nguồn vốn mà
Ngân hàng huy động được lại không đáp ứng đủ. Vì vậy, trong những trường
hợp đi Ngân hàng có thể đi vay của ngân hàng khác có phát sinh tình trạng thừa
vốn để nhằm khôi phục khả năng thanh toán của mình.
Nguồn vốn vay của NHTW:
NHTW đóng vai trò là Ngân hàng của các Ngân hàng, là người cho vay
cuối cùng của nền kinh tế. Vì vậy khi có nhu cầu, các NHTM sẽ được NHTW
cho vay vốn.
Việc cho vay của NHTW đối với các NHTM thông qua hình thức tái cấp
vốn. Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của NHTW nhằm cung
ứng vốn ngắn hạn và các phương tiện thanh toán cho các NHTM.
Thứ tư: Các nguồn vốn khác:
Các nguồn vốn này được hình thành khi NHTM thực hiện các dịch vụ
Ngân hàng cụ thể.
Vốn uỷ thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ hoặc của nước ngoài để đầu tư
cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Trong khoảng thời gian từ khi Ngân hàng nhận vốn uỷ thác đầu tư, tài trợ
mà chưa giải ngân hết là thời gian vốn nhàn rỗi do đó NHTM có thể huy động
làm nguồn vốn để kinh doanh.
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn:
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM thực chất cũng là một doanh nghiệp,
vì vậy mọi hoạt động kinh doanh của nó đều phải coi lợi nhuận là mục tiêu cuối
cùng. Để tạo ra lợi nhuận và thu nhập cho Ngân hàng thì các NHTM phải biết sử
dụng và khai thác nguồn vốn một cách triệt để, một cách có hiệu quả. Các hoạt
động sử dụng vốn chủ yếu của NHTM bao gồm: hoạt động cho vay, đầu tư,
phục vụ nhu cầu chi trả cho khách hàng
Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu nhất của NHTM với nhiều hình
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
thức khác nhau tuỳ theo đối tượng vay vốn. Nếu căn cứ vào thời hạn cho vay thì
có cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn
Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn đến 12 tháng và được sử
dụng để bù đắp sự thiều hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu
chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Cho vay trung và dài hạn: Là loại cho vay để thực hiện các chương trình,
dự án phát triển kinh tế xã hội hoặc các nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp
như mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ. Một mặt
nó đáp ứng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của xã hội về mở rộng ngành nghề
sản xuất kinh doanh cũng như đầu tư xây dựng cơ bản. Mặt khác chúng cũng
còn phù hợp với khả năng huy động vốn ngày một tăng lên của NHTM và nhu
cầu sử dụng vốn của xã hội.
Hoạt động đầu tư của NHTM thể hiện dưới các hình thức như: mua chứng
khoán, trái phiếu của Chính phủ hoặc của doanh nghiệp và các nghiệp vụ liên
doanh liên kết.
Một hoạt động nữa trong việc khai thác và sử dụng nguồn vốn của NHTM
là hoạt động ngân quỹ. Hoạt động này phục vụ cho việc chi trả, thanh toán đối
với các khách hàng qua nghiệp vụ: quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các Ngân hàng khác
và NHNN, hoặc các nghiệp vụ chứng khoán ngắn hạn.
Trong điều kiện nền kinh tế mở có xu thế hội nhập với nền tài chính tiền tệ
khu vực và quốc tế, các NHTM hiện nay cũng rất chú trọng đến hoạt động kinh
doanh ngoại tệ như: nhận tiền gửi và cho vay bằng ngoại tệ, mua bán ngoại tệ,
làm dịch vụ thanh toán quốc tế
Ngoài các hoạt động cơ bản trên thì NHTM còn làm dịch vụ uỷ thác hay
còn gọi là hoạt động trung gian của NHTM. Nó bao gồm các hoạt động như
thanh toán tiền hàng, cung cấp thông tin và tư vấn kinh doanh các hoạt động
này được thực hiện trên cơ sở uỷ thác của khách hàng, để hưởng thù lao.
Qua các hoạt động trên của NHTM ta thấy, hoạt động cho vay là một trong
các hoạt động lớn nhất và chủ yếu nhất của NHTM, là nơi để điều chuyển vốn từ
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
nơi tạm thời thừa đến nơi tạm thời thiếu, vì vậy lợi nhuận của Ngân hàng chủ
yếu là thu từ lãi cho vay là chiếm tỷ trọng lớn nhất. Hơn nữa, hiện nay các
NHTM có thể huy động rất lớn nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế qua nhiều
hình thức, vì vậy các Ngân hàng phải tìm cách để cho vay hết số vốn đó, một
mặt là đảm bảo cho hoạt động của Ngân hàng được diễn ra bình thường, mặt
khác để đảm bảo thanh toán cho số tiền huy động đó khi đến hạn. Vậy nên hiệu
quả trong hoạt động cho vay quyết định đến hiệu quả hoạt động nói chung của
Ngân hàng. Do hoạt động cho vay được coi là hoạt động quan trọng nhất nên ở
khâu này bao giờ cũng gắn liền với các rủi ro, thậm chí bị tổn thất. Mặc dù khi
cho vay bao giờ Ngân hàng cũng thực hiện các bảo đảm để tối thiểu các rủi ro có
liên quan đến tiền vay như: phân tích khách hàng quy định mức cho vay, yêu
cầu thế chấp, thỏa thuận tiền vay, trả nợ Nhưng dẫu sao Ngân hàng cũng
không thể đánh giá được hết các bất ngờ, rủi ro một cách chính xác được. Bởi lẽ,
việc cho vay vẫn phần lớn phụ thuộc vào chủ quan của Ngân hàng và trên cơ sở
các thông tin đã qua, nhưng việc cho vay và hứa hẹn trả nợ ở tương lai. Hơn
nữa, ngay cả bản thân các khách hàng cũng có thể gặp phải các rủi ro, nên việc
thực hiện nghĩa vụ với Ngân hàng không thể là điều chắc chắn. Vậy nếu như
Ngân hàng giảm thấp rủi ro trong hoạt động cho vay thì hiệu quả đạt được ở
hoạt động này là cao. Cũng chính vì vậy mà hiệu quả hoạt động nói chung của
Ngân hàng được đảm bảo cao.
Qua sự trình bày ở trên, ta thấy rằng đảm bảo an toàn cho việc khai thác và
sử dụng nguồn vốn là một vấn đề hết sức quan trọng đối với các Ngân hàng. Bởi
vì một mặt Ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của khách hàng và
đồng thời cũng phải đảm bảo khả năng tái đầu tư và nhu cầu chi trả của chính
bản thân Ngân hàng. Điều đó có nghĩa là các Ngân hàng phải đảm bảo an toàn
cho các tài sản mà trước hết là các đảm bảo cho vay. Bởi vậy cho vay, đầu tư
hoặc nghiệp vụ ngân quỹ có nhiều liên quan đến việc sử dụng vốn và ý thức
hoàn trả nợ từ phía khách hàng.
Tóm lại, để đảm bảo khả năng tồn tại và phát triển đòi hỏi các Ngân hàng
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
cần phải thực hiện tốt mọi khâu, mọi nghiệp vụ trong quá trình hoạt động và có
thể nói hoạt động kinh doanh của NHTM đã và đang tìm kiếm các cơ hội để tìm
cách thu lợi nhuận được nhiều hơn qua hoạt động tạo lập, tăng trưởng nguồn
vốn và khai thác, sử dụng nguồn vốn đó một cách hiệu quả. Tại báo cáo chính trị
của Đại hội Đảng lần VIII đã nhấn mạnh “Việc huy động và sử dụng hiệu quả
nguồn vốn của Ngân hàng là cơ sở tăng tích luỹ để tạo vốn cho đầu tư phát triển.
1.1.3 Vai trò của ngân hàng thương mại
Cùng với sự nghiệp đổi mới và đi lên của đất nước thì không thể phủ nhận
vai trò đóng góp to lớn của ngành Ngân hàng. Ngành Ngân hàng đã có bước
chuyển biến mạnh mẽ, tiếp tục đổi mới và đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Các NHTM đã hỗ trợ tích cực về vốn đầu tư, là “giá đỡ” về vốn cho các doanh
nghiệp, giúp các doanh nghiệp tăng cường thêm cơ sở vật chất-kỹ thuật, đổi mới
công nghệ, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện mức
sống của dân cư, ổn định thu chi của Chính phủ. Trong nền kinh tế hiện đại, với
sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì nhu cầu về vốn đổi với việc cải tiến công
nghệ kỹ thuật cho sản xuất kinh doanh rất lớn, nên vai trò của NHTM được phát
huy một cách tích cực và có hiệu quả. Các vai trò của NHTM được thể hiện:
Thứ nhất: NHTM là công cụ quan trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển:
NHTM không những cung ứng tín dụng các loại cho các doanh nghiệp mà
còn thông qua chức năng làm trung gian tài chính đã thực hiện việc tập trung các
khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế xã hội (nghiệp vụ tiền gửi). Mặt khác, nó
dùng chính số tiền đã huy động được để cho vay đối với các thành phần kinh tế
trong xã hội khi có nhu cầu bổ sung vốn. Qua đó các doanh nghiệp được đầu tư
thêm vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh khi doanh nghiệp có nhu cầu. Đồng
thời thông qua các hoạt động của NHTM thực hiện phát hành và tạo nên các
công cụ tín dụng thay thế cho tiền mặt làm phương tiện thanh toán, làm hạn chế,
giảm khối lượng tiền mặt cần thiết, cung ứng cho lưu thông khi làm trung gian
thanh toán, Ngân hàng tạo điều kiện tăng nhanh tốc độ thanh toán, đảm bảo an
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
toàn chi trả, bảo quản và tiết kiệm chi phí lưu thông không cần thiết cho nền
kinh tế xã hội. Nhờ vậy mà việc giao lưu hàng hóa của các thành phần kinh tế
được thuận tiện, an toàn và có hiệu quả. Cũng do vậy NHTM có thể tư vấn và hỗ
trợ đầu tư vốn kịp thời cho hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp, giúp doanh
nghiệp lựa chọn và có hướng đi đúng trong hoạt động sản xuất kinh doanh đạt
hiệu quả cao hơn.
Những năm qua, nước ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường theo hướng “mở”, song lại có nhiều thách đố đặt ra cần tháo gỡ: một nền
công nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho xây dựng và phát triển
kinh tế vừa thiếu vừa lạc hậu, đội ngũ cán bộ khoa học nhìn chung còn bất cập
về số lượng và trình độ, nền tài chính quốc gia còn eo hẹp chưa đáp ứng ở mức
cần thiết nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay, tất cả các thành phần kinh
tế đều có quyền bình đẳng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Song để cho
hoạt động đó có hiệu quả góp phần vào sự phát triển nền kinh tế thì cũng cần
phải có vốn đầu tư. Mặt khác, với xu hướng “mở cửa” nền kinh tế, để thu hút
các dự án đầu tư, chương trình xây dựng cơ bản, áp dụng những thành tựu của
khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến hiện đại thì nhu cầu về vốn cho sản xuất là
rất lớn. Khắc phục tình trạng trên và nhằm thực hiện đường lối công nghiệp hóa
đất nước, thì một trong những điều kiện tiền đề nhằm phát triển kinh tế là phải
có vốn. Trước đây C.Mác cho rằng” “Một mặt ngân hàng là sự tập trung tư bản
tiền tệ của những người có tiền cho vay, mặt khác nó là sự tập trung các người
đi vay”. Vậy vốn đầu tư của ngân hàng đã đóng vai trò quan trọng từ buổi sơ
khai đến mô hình ngân hàng hiện đại ngày nay. Theo kinh nghiệm của các nước
có nền kinh tế thị trường thì không phải các ngân hàng ngồi chờ khách hàng đến
xin vay mà phải chủ động đi tìm khách hàng để cho vay, đáp ứng mọi yêu cầu
của khách hàng. Với quan điểm đó, các NHTM đã không ngừng mở rộng và
phát triển các nghiệp vụ kinh doanh đa dạng và phong phú phục vụ nhu cầu về
vốn cho khách hàng. Để đáp ứng đòi hỏi các NHTM đã tham gia vào quá trình
tài trợ các dự án đầu tư, các chương trình xây dựng cơ bản, tăng cường cơ sở vật
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
chất kỹ thuật của đất nước bằng nguồn vốn tín dụng của mình. Đồng thời, vốn
tín dụng của NHTM là đòn bẩy cho sản xuất kinh doanh được tiến hành thuận
lợi và tạo điều kiện áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại tiên tiến.
Như vậy có thể từ việc đầu tư vốn để mua máy móc thiết bị đầu vào, đến
việc tác động tới hiệu quả đồng vốn thì NHTM đã thực sự phát huy vai trò của
mình trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất nước.
Ngoài ra, qua các hoạt động nghiệp vụ của NHTM làm tăng cường việc
giám sát kỷ luật tài chính quốc gia trong quá trình triển khai và thực thi các hoạt
động tiền tệ, tín dụng và thanh toán.
Tóm lại, thông qua nguồn vốn tín dụng của mình, NHTM đã góp phần thúc
đẩy nền kinh tế phát triển, giúp các thành phần kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả
hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư.
Thứ hai: NHTM là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Trung ương:
Với sự phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh,
trong đó Ngân hàng Trung ương làm nhiệm vụ kiểm soát và quản lý vĩ mô về
tiền tệ đối với các công ty tài chính, các NHTM (tổ chức tín dụng) với một mạng
lưới rộng khắp để cung ứng tín dụng, và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Vì
vậy, thông qua các công cụ như tín dụng, lãi suất, cùng với các biện pháp kỹ
thuật nghiệp vụ khác, các NHTM đã góp phần to lớn trong việc thực thi các mục
tiêu chính sách tiền tệ quốc gia của Ngân hàng Trung ương như việc điều hòa
lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, kiểm soát lạm phát và giúp
tăng trưởng nền kinh tế ở mức khá cao. Đồng thời, phần lớn các công cụ thực thi
chính sách tiền tệ chỉ có hiệu quả khi có sự kết hợp với các hoạt động nghiệp vụ
của NHTM như dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, tái cấp vốn, cho đến các quy chế
về thanh toán, cho vay, đầu tư Mặt khác, với tư cách là nhà tài trợ lớn cho nền
kinh tế, NHTM góp phần quan trọng trong việc thực thi các dự án phát triển
kinh tế xã hội, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước thông qua nghiệp vụ cho
vay, đầu tư, tư vấn cho quá trình hoạt động đó.
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
Qua các hoạt động nghiệp vụ của NHTM không những là công cụ để thực
thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương mà còn góp phần tăng cường
lực lượng sản xuất, lưu thông hàng hóa được ổn định, mở rộng và phát triển,
tăng thu nhập cho nền kinh tế xã hội, thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển.
Đặc biệt đối với Việt nam hiện nay, vị trí và vai trò của các NHTM càng
được coi trọng hơn, bên cạnh việc góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn thì nó
tạo đà cho xu thế hội nhập nền kinh tế nước nhà vơí nền kinh tế khu vực và thế
giới.
1.1.4 Những rủi ro chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của NHTM:
Rủi ro ngân hàng là những biến cố không mong đợi xảy ra gây mất mát
thiệt hại về tài sản, thu nhập của ngân hàng trong quá trình hoạt động.
Rủi ro của ngân hàng rất đa dạng và phức tạp, có thể tổng hợp một số dạng
chủ yếu sau:
1.1.4.1 Rủi ro tín dụng:
Là rủi ro thường xuyên xảy ra, diễn biến phức tạp, khó quản lý nhất và
thường gây hậu quả nặng nề nhất cho nên việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm
chính của ngân hàng. Rủi ro tín dụng là rủi ro do một khách hàng hay một nhóm
khách hàng vay vốn không trả nợ được cho ngân hàng. Trong kinh doanh ngân
hàng, rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất thường xuyên xảy ra và gây hậu quả
nặng nề có khi dẫn đến phá sản ngân hàng. Hoạt động của NHTM chủ yếu là
hoạt động tín dụng. Ở các nước phát triển trên thế giới, thu nhập từ hoạt động tín
dụng thường trên 60%, ở nước ta thu nhập của các NHTM từ hoạt động tín dụng
trên 90%.
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phức tạp nhất, đánh giá rủi ro tín dụng là việc
rất khó đối với ngân hàng. Rủi ro tín dụng có thể xảy ra với bất cứ món vay nào,
bất cứ nơi nào
1.1.4.2 Rủi ro về nguồn vốn:
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
Rủi ro về nguồn vốn thường xuyên xảy ra một trong hai trường hợp sau:
Rủi ro thừa vốn: Rủi ro thừa vốn tức là ứ đọng vốn không cho vay và đầu
tư được. Vì vậy không sinh lãi và có thể dẫn tới thua lỗ trong kinh doanh. Bởi vì
vốn của ngân hàng chủ yếu là vốn huy động phải trả lãi cho người gửi.
Trường hợp thiếu vốn: Thiếu vốn ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu
vay của khách hàng. Cũng có thể không đáp ứng nhu cầu của người gửi cần rút
tiền.
Rủi ro này xuất phát từ chức năng chuyển hóa các kỳ hạn sử dụng vốn và
nguồn vốn của ngân hàng. Thông thường các kỳ hạn sử dụng vốn dài hơn các kỳ
hạn các nguồn vốn, nên ngân hàng có thể vấp phải tình huống khó khăn không
thể đáp ứng các cam kết ngắn hạn của mình. Cũng có thể do nguyên nhân nào
đó, cùng một lúc có hàng loạt khách hàng ồ ạt rút tiền làm ngân hàng không thể
cùng một lúc có đủ tiền mặt để thanh toán.
Rủi ro này thể hiện ngân hàng thiếu vốn hoạt động. Do sự cạnh tranh giữa
các định chế tài chính trên thị trường vốn, nếu khả năng thanh toán của ngân
hàng kém, ngân hàng lại khó lòng huy động được nguồn vốn dồi dào, từ đó
phạm vi huy động của ngân hàng bị thu hẹp, ngân hàng càng dễ có nguy cơ bị
vỡ nợ, phá sản.
1.1.4.3 Rủi ro lãi suất:
Lãi suất là chi phí để vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời gian
nào đó. Lãi suất trên thị trường thường biến động có thể gây nên thiệt hại cho
ngân hàng. Những thiệt hại do rủi ro lãi suất gây ra làm cho chi phí nguồn vốn
lớn hơn thu nhập do sử dụng vốn kinh doanh của ngân hàng bị lỗ vốn.
1.1.4.4 Rủi ro thanh khoản
Đặc trưng cơ bản của rủi ro thanh khoản là tính lỏng ít hơn so với tài sản
nợ và ngân hàng có thể không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu rút tiền của người
gửi do tính lỏng của tài sản có thấp bởi vì các khoản cho vay của các doanh
nghiệp nhìn chung có độ thanh khoản thấp. Rủi ro thanh khoản phát sinh khi
những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền ở ngân hàng ngay lập tức.
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
1.1.4.5 Rủi ro hối đoái:
Tỷ giá hối đoái thường xuyên biến động, ngân hàng thường bị rủi ro khi
mua một ngoại tệ với giá cao nhưng giá thị trường lúc bán giảm thấp.
1.1.4.6 Rủi ro trong thanh toán:
Đó là các rủi ro trong quá trình thanh toán, có thể do sai sót nghiệp vụ,
cũng có thể bị lợi dụng trong thanh toán séc, thanh toán điện tử.
1.1.4.7 Các rủi ro thuần tuý:
Là những rủi ro do thiên nhiên mang lại như thiên tai hoặc rủi ro như lừa
đảo, trộm cắp, tham nhũng làm thiệt hại hay phá huỷ tài sản của ngân hàng.
1.2 RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NHTM:
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là đặc trưng tiêu biểu nhất, dễ xảy ra nhất trong mọi hoạt
động ngân hàng. Rủi ro trong hoạt động tín dụng là tình trạng người đi vay
không có khả năng hoàn trả được hoặc lãi hoặc gốc, hoặc cả lãi và gốc một cách
đầy đủ, đúng hạn của hợp đồng gây cho người cho vay những thiệt hại.
1.2.2 Những dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng:
Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng chính là những khoản cho vay có vấn đề.
Theo nghĩa hẹp, những khoản co vay có vấn đề là tất cả những khoản cho vay đã
đến hạn nhưng người cho vay không thu hồi được hay chuyển nhượng được.
Tuy vậy các ngân hàng thường không xếp tất cả các khoản cho vay như vậy vào
danh mục các khoản cho vay có vấn đề bởi lẽ yếu tố kỳ hạn không phải khi nào
cũng được xác định chính xác. Mặt khác những khoản cho vay chưa đến hạn
nhưng thực ra người đi vay đã mất khả năng thu hồi, ngoài ra còn có nhiều yếu
tố khách quan tác động làm cho khách hàng chậm trả ngoài ý muốn của họ. Hơn
nữa sẽ khó có biện pháp xử lý kịp thời nếu chỉ quan tâm đến nó khi đã quá hạn.
Có nhiều dấu hiệu khác nhau mà dựa vào đó ngân hàng có thể nhận định
trước đó, cũng như để phân tích các nguyên nhân về các khoản cho vay có vấn
đề. Các dấu hiệu này thường rất phong phú và không giống nhau đối với các loại
cho vay khác nhau, qua thực tiễn hoạt động rút ra đó là:
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
Một là : Khách hàng trì hoãn nộp các loại báo cáo tài chính cho ngân hàng:
Báo cáo tài chính là một tài liệu quan trọng giúp ngân hàng nắm bắt khả
năng tài chính của doanh nghiệp. Việc trì hoãn nộp các loại báo cáo tài chính có
thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng rõ ràng người vay không muốn cho
ngân hàng sớm biết tình hình tài chính, chứng tỏ tình hình tài chính đang suy
giảm
Hai là : Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, mở rộng quy mô sản xuất
quá mức quy định
Ba là : Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi hoặc thường xuyên yêu
cầu ngân hàng cho vay đáo hạn hay yêu cầu các khoản vay vượt quá yêu cầu dự
kiến.
Bốn là : Người vay không tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc thăm viếng
kiểm tra của ngân hàng.
Năm là : Công nhân phải nghỉ việc, thu nhập của họ sa sút, xí nghiệp phải
bán tài sản.
Sáu là : Có sự thay đổi tổ chức trong doanh nghiệp, có sự kỷ luật đối với
cán bộ chủ chốt
Đối với gia đình: những người chủ chốt trong gia đình bị chết, ốm nặng,
liên quan đến vụ án, bị mất việc làm, vợ chồng ly dị
Bảy là : Hàng tồn kho tăng lên quá mức bình thường và các khoản nợ phải
trả cũng gia tăng, khả năng thanh toán thấp, một số khoản nợ của bạn hàng phải
khất chịu, doanh số hoạt động trên tài khoản tiền gửi giảm.
Tám là : Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp giảm sút, khách hàng
không tín nhiệm như trước nữa dẫn đến tiêu thụ chậm với những chi phí bán
hàng tăng, giá bán hạ. Hay khó khăn trong việc phát triển sản phẩm, sản phẩm
của khách hàng mang tính thời vụ cao
Chín là : Có các chi phí quản lý bất hợp lý, tập trung quá mức chi phí để
gây ấn tượng như thiết bị văn phòng hiện đại, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và
tài chính cá nhân
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
Mười là : Các thảm họa về thiên nhiên như bão lụt, hỏa hoạn
Trong tất cả các dấu hiệu đó dấu hiệu rõ ràng và có ý nghĩa nhất là chạm
thanh toán khoản cho vay
1.2.3 Tác động của rủi ro tín dụng:
Rủi ro làm giảm uy tín của ngân hàng:
Một ngân hàng có rủi ro lớn dân chúng sẽ thiếu lòng tin, như vậy khó có
thể huy động được nguồn vốn dồi dào, các ngân hàng khác sẽ e ngại trong việc
mở quan hệ. Điều này lý giải khi giải quyết một món nợ bị rủi ro các ngân hàng
thường mong muốn sử dụng cách thức không gây ồn ào.
Rủi ro làm cho lợi nhuận suy giảm:
Điều này thấy rõ khi một khoản nợ khó đòi phát sinh, việc thu lãi cũng
không thực hiện được, chi phí cho việc thu nợ tăng. Thêm vào đó là quá trình
mở rộng hoạt động cũng khó khăn, từ đó lợi nhuận của ngân hàng suy giảm.
Rủi ro tín dụng làm cho khả năng thanh toán của ngân hàng giảm sút:
Kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng bao giờ cũng đề cập đến các món nợ
đến hạn. Khi rủi ro tín dụng phát sinh, tức là khoản nợ không được trả đúng hạn
từ đó không thực hiện được kế hoạch đầu tư cũng như thanh toán các khoản tiền
gửi đến hạn.
Rủi ro có thể dẫn đến phá sản ngân hàng:
Những tác động của rủi ro nêu trên đến một mức nào đó làm cho nguồn
vốn của ngân hàng bị thất thoát, không thu hồi được thì ngân hàng phải sử dụng
các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền. Trường hợp không đủ nguồn
vốn để trả ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán thậm chí phá
sản.
1.2.4 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng:
Như đã trình bày ở trên, rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất trong hoạt động
kinh doanh của NHTM có rất nhiều vụ việc xảy ra ảnh hưởng xấu đến hoạt động
Ngân hàng. Mặt khác, tình hình tiền tệ thế giới có nhiều ảnh hưởng đến nền kinh
tế nước ta. Vậy đứng trên những góc độ khác nhau có nhiều nguyên nhân dẫn
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
đến rủi ro tín dụng của cá NHTM.
1.2.4.1 Nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng:
Thực tế hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong thời gian vừa qua cho
thấy nhiều trường hợp rủi ro tín dụng xảy ra là do nguyên nhân chủ quan của
phía Ngân hàng. Nó gây ra những hậu quả không lường cho các Ngân hàng,
thậm chí làm phá sản không những riêng Ngân hàng đó mà nó còn ảnh hưởng
nghiêm trọng đến toàn hệ thống Ngân hàng.
Có thể do NHTM chưa tôn trọng đầy đủ quy trình cho vay: điều tra, phân
tích tìm khách hàng, thủ tục phê duyệt, tài sản thế chấp một trong những bước
đó làm sai sẽ dẫn đến chất lượng tín dụng yếu kém khó thu hồi vốn. Ngân hàng
chưa thực hiện tốt phân tán rủi ro, có ngân hàng trong một khoảng thời gian dài
chỉ tập trung vốn tín dụng vào một số khách hàng và quá ưu ái cũng như đặt
niềm tin vào những khách hàng này mà không quan tâm nghiên cứu cẩn thận
xem khách hàng có đủ năng lực pháp lý. Chưa biết rõ về khả năng chuyên môn
và trình độ của những người lãnh đạo công ty, chưa xem xét vấn đề khách hàng
có thể trả nợ được không nếu xảy ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
khách hàng đó. Hoặc có thể do trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của
cán bộ Ngân hàng. Yếu tố con người quyết định đến sự thành bại trong kinh
doanh. Ở nước ta trong thời gian vừa qua đã xảy ra những trường hợp cán bộ
Ngân hàng cố tình vi phạm quy định hoặc có hành vi lừa đảo gây thất thoát vốn
nghiêm trọng, có những trường hợp làm phá sản cả Ngân hàng. Hay trong quá
trình cho vay chỉ chú trọng đến kiểm tra trước khi cho vay, không quan tâm đến
việc kiểm tra sử dụng vốn vay (kiểm tra sau) nên có một số khách hàng đã sử
dụng vốn sai mục đích, kém hiệu quả dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng. Do nắm
thông tin không đầy đủ về khách hàng dẫn đến sai làm trong đầu tư.
Nguyên nhân chủ quan từ phía khách hàng:
Nền kinh tế thị trường Việt Nam mới được hình thành và phát triển, tình
hình kinh tế - xã hội thay đổi rất phức tạp, cùng với những thay đổi của nền kinh
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
tế thế giới cho nên các doanh nghiệp trong nước khó có thể thay đổi, điều chỉnh
kịp thời phù hợp với tình hình mới. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khoa học
kĩ thuật công nghệ phát triển mạnh mẽ, trong khi đó hầu hết các chủ doanh
nghiệp có trình độ quản lý, năng lực chuyên môn, điều hành kinh doanh còn bị
hạn chế, lại phải sản xuất kinh doanh trong môi trường cạnh tranh gay gắt, tình
trạng hàng nhập lậu tràn lan Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp phải đối
mặt với rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình, nhiều doanh
nghiệp do không thích ứng kịp thời với tình hình mới đã phải phá sản, gây ảnh
hưởng không nhỏ đến sự hoạt động của Ngân hàng.
Cũng có trường hợp, một số doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, năng
lực quản lý kinh doanh của ban lãnh đạo yếu kém nên khi đến hạn doanh nghiệp
không thu hồi được vốn, dẫn đến không trả được nợ cho Ngân hàng và xuất hiện
nợ quá hạn. Hay do khách hàng cố ý làm sai để được vay vốn Ngân hàng, trong
khi đó khách hàng không đủ điều kiện vay vốn như: không đủ tài sản thế chấp,
cầm cố, không đủ năng lực pháp nhân nên đã làm cho Ngân hàng gặp phải rủi
ro khi khách hàng loại này gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh.
1.2.4.2 Nguyên nhân khách quan.
Đó là nguyên nhân do môi trường ngoại cảnh như việc: thay đổi chính
sách, thiên tai bão lụt, nền kinh tế không ổn định làm cho Ngân hàng và khách
hàng không thể ứng phó kịp, đã tác động không tốt đến hoạt động của NHTM.
Môi trường kinh tế:
Như chúng ta đã biết trong sản xuất kinh doanh bất kỳ một sự biến động
nào đó ở một lĩnh vực nhất định cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các lĩnh
vực còn lại. Hoạt động của các NHTM có thể được coi như là “chiếc cầu nối”
giữa các lĩnh vực khách nhau của nền kinh tế. Vì vậy, sự biến động của nền kinh
tế sẽ có tác động trực tiếp đến hoạt động Ngân hàng. Nền kinh tế ổn định và
tăng trưởng là môi trường thuận lợi để hoạt động Ngân hàng phát triển, ngược
lại sự bất ổn hoặc suy thoái của nền kinh tế sẽ làm rối loạn các hoạt động kinh
doanh tiền tệ và đương nhiên rủi ro tín dụng là rất lớn. Các nhân tố tác động trực
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 23
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
tiếp, vốn đầu tư nước ngoài, hiệu quả kinh doanh do vậy mọi sự biến động xấu
của nền kinh tế sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng của Ngân hàng gia tăng.
Hệ thống pháp luật:
Trong nền kinh tế hiện nay, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ và
bình đẳng về hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Trong
kinh doanh Ngân hàng cũng vậy, nhân tố pháp luật có tác động trực tiếp đến mọi
hoạt động của Ngân hàng. Thực tiễn đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng pháp luật
trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh doanh
và đời sống xã hội. Nếu không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp với
yêu cầu của nền kinh tế - xã hội thì mọi hoạt động trong nền kinh tế gặp rất
nhiều khó khăn. Vì vậy vị trí của pháp luật trong hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng là vô cùng quan trọng, bởi đó là cơ sở để các bên thực hiện các nghĩa
vụ của mình và là cơ sở để giải quyết các tranh chấp khi xảy ra. Vậy nếu như
một trong các bên tham gia trong quan hệ tín dụng không chấp hành luật đúng
đắn và đầy đủ thì nó sẽ gây rủi ro tín dụng, làm cho chất lượng kinh doanh tín
dụng của Ngân hàng không hiệu quả.
1.2.5 Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng.
Để có mức độ RRTD hợp lý trong HĐKD của NHTM thì việc đo lường
RRTD sẽ là cần thiết từ đó giúp các nhà quản lý có được biện pháp phòng ngừa
và hạn chế RRTD, việc đo lường đó phải mang tính chất thường xuyên, có phân
tích đánh giá qua sự kết hợp với các số liệu lịch sử. Các chỉ tiêu cơ bản để đo
lường RRTD gồm:
1.2.5.1 Cơ cấu dư nợ và kết cấu nợ theo ngành nghề:
Thực tế chúng ta có thể thấy rằng: Đối với việc quản lý nợ ngắn hạn sẽ chặt
chẽ hơn nợ trung và dài hạn, chính vì vậy với một NH có tỷ trọng nợ trung và
dài hạn cáng lớn thì sẽ tiềm ẩn nhiều RR hơn.
Đối với kết cấu dư nợ: Nếu dư nợ tập trung quá vào một khách hàng, một
ngành nghề, thành phần kinh tế sẽ tiềm ẩn nhiều RR.
Tỷ lệ nợ xấu: Theo QĐ 493 thì nợ xấu bao gồm: Nợ dưới tiêu chuẩn, nợ
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 24
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S. Trần Thị Hường
nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn. Ba nhóm nợ này là cơ sở để đo lường chất
lượng TD của NHTM. Tỷ lệ nợ xấu càng cao thì nợ có vấn đề càng lớn, tuy
nhiên không phải khoản nợ xấu nào cũng dẫn đến RRTD vì về mặt định tính có
thể có những món nợ nằm trong nhóm này nhưng không phải do đọng vốn cũng
không hẳn đã mất vốn.
Tỷ lệ: Nợ xấu có khả năng tổn thất/ Tổng nợ xấu: Đây là chỉ tiêu trực tiếp
phản ánh RR, với nợ nhóm 5 thì mức độ RR gần như 100%, với nhóm này do
thời gian quá hạn dài, hoặc những món nợ đánh giá theo định tính có mức RR
100%
Tỷ lệ: Quỹ DPRR/ Nợ có khả năng mất vốn: Tỷ lệ này phản ánh khả năng
chống đỡ RRTD từ quỹ dự phòng. Thông thường thì tỷ lệ này lớn hơn 100% vì
riêng nợ nhóm 5 đã phải trích đủ 100% số tiền để đưa vào quỹ dự phòng RR nợ
khó đòi. Vì thế chỉ tiêu này càng lớn càng không đảm bảo tính an toàn trong
HDKD của NHTM.
Tỷ lệ: Lãi treo/ Tổng dư nợ: Lãi treo là số tiền khách hàng không trả được
khi đến hạn thanh toán lãi. Lãi treo cáng lớn thì quỹ dự phòng lãi phải thu càng
cao. Đây cũng là một dấu hiệu quan trọng để nhận biết RRTD vì lãi không thu
được thông thường sẽ dẫn đến mất vốn.
1.2.6 Sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Hoạt động kinh doanh của các NHTM trong nền kinh tế thị trường là một
hoạt động rất nhạy cảm. Bởi vì, NHTM cũng như một doanh nghiệp nhưng kinh
doanh là loại hàng hóa đặc biệt đó là “tiền tệ” và các nghiệp vụ khác có liên
quan đến tiền tệ vì NHTM có quan hệ “đi vay và cho vay”, là nơi điều chuyển
vốn từ khu vực “tạm thời thừa” sang khu vực “tạm thời thiếu” đối với hầu hết
mọi đối tượng trong nền kinh tế xã hội. Mọi biến động trong nền kinh tế xã hội
đều nhanh chóng tác động đến hoạt động của NHTM, có thể gây nên những xáo
trộn bất ngờ và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng bị giảm sút một cách nhanh
chóng. Do vậy, hoạt động kinh doanh của NHTM luôn chứa đựng những rủi ro
“tiềm ẩn” và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay,
Sinh viên : Nguyễn Thị Vân Trang 25