Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tác dụng phụ có hại của thuốc tương phản có-ion và không-ion

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.85 KB, 6 trang )

TÁC DỤNG PHỤ CÓ HẠI
CỦA THUỐC TƯƠNG PHẢN CÓ-ION VÀ KHÔNG-ION



TÓM TẮT
Thuốc tương phản iode (TTP Iode) chích mạch máu qui ước (có-ion)
và không-ion rất quan trọng trong các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh, nhưng
lại có những tác dụng phụ có hại gây nguy hiểm cho bệnh nhân. Chúng tôi
ghi nhận các tác dụng phụ có hại dạng nặng đã xảy ra tại TT Y Khoa Medic
từ 1/9/1999 đến 29/2/2000 của 2 loại thuốc trên và so sánh với số liệu y văn
nước ngoài:
Loại TTP iode qui ước: thay đổi từ 0,1% - 0,4% (tại Medic là 0,45% -
1,2%)
Loại TTP Iode không-ion: thay đổi từ 0%- 0,04% (tại Medic là
0,09%)
Cho thấy sự vượt trội về mặt an toàn của thuốc tương phản không-ion,
phù hợp với y văn thế giới
SUMMARY
COMPARISON OF SIDE EFFECTS OF INTRAVASCULAR
IODINE CONTRAST MEDIA IONIC AND NON-IONIC.
Nguyen Van Cong - Nguyen Tan Dung * Y hoc TP. Ho Chi Minh
2000 * Vol. 4 * No. 3: 125 - 128
Intravascular Iodine Contrast Media Ionic and Non-ionic are very
important in diagnostic radiology, but also very dangerous with their adverse
reactions. We noted all the adverse reactions (ADR) caused by Iodine CM
ionic and non-ionic occured in our center and compared with statistics in
literature:
Ionic High Osmolality CM: ADR 0.1% - 0.4% in literature (Medic:
0.45% - 1.2%)
Non-ionic Low Osmolality: ADR 0% - 0.04% in literature (Medic:


0.09%).
This confirmed the superiority of safety of the Non-ionic CM tally
with classic references
ÐẠI CƯƠNG
* TT Chẩn đoán Y Khoa Medic
Thuốc tương phản chích mạch máu có iode (TTP Iode) đã được sử
dụng từ lâu. Bên cạnh những chất tạo tương phản khác như khí, barium, TTP
Iode gồm loại tan trong nước và trong dầu, thường được sử dụng để khảo sát
bộ niệu, mật, ống sống và tim mạch. Ngày nay với tiến bộ của các phương
pháp chẩn đoán hình ảnh mới như Siêu âm, Cộng hưởng từ, Cắt lớp điện
toán, những yêu cầu dùng thuốc cản quang cho đường mật, ống sống hoặc
não bộ hầu như không còn, nhưng yêu cầu TTP Iode chích mạch máu lại
tăng nhiều trong kỹ thuật chụp CT scan, chụp mạch máu và chụp hệ niệu cản
quang, đây tuy là một phương pháp cổ điển nhưng còn được ưa chuộng do
tính cách vừa thông tin về hình ảnh vừa cho biết chức năng của thận. Do đó
chúng tôi đặc biệt chú ý đến những tác dụng phụ có hại của loại TTP Iode
chích mạch máu. TTP iode qui ước hay là loại có-ion, độ thẩm thấu cao
thường gồm 1 cation là Na hoặc Meglumine và anion có 3 gốc iode như
diatrizoate, ioxythalamate hoặc iothalamate (Urograffin, Telebrix hoặc
Conray). Loại này có độ thẩm thấu cao gấp 4 đến 7 lần huyết tương. Sau này
các loại TTP iode mới không-ion với độ thẩm thấu thấp đã được bào chế với
giá cao gấp nhiều lần so với TTP qui ước nhưng độ an toàn cao hơn
(3)
.
Tác dụng phụ có hại của TTP Iode
(3)

Gồm 3 loại
Phản ứng dạng mẫn cảm hoặc đặc ứng
Do cơ thể khi tiếp xúc với thuốc tiết ra các chất serotonine, histamine,

kinines... tạo ra tăng thẩm thấu mao mạch và co thắt cơ trơn của phế quản
gây ra nổi mề đay, phù mặt và thanh quản, co thắt phế quản và tụt huyết áp.
Thường được phân ra 3 dạng: nặng (trụy tim mạch, co thắt phế quản, phù
thanh quản...), trung bình (phù mặt, nổi mẩn toàn thân) và nhẹ (nóng, buồn
nôn, ói, ngứa...).

Phản ứng không đặc ứng
Do ảnh hưởng của chất thuốc trên cơ quan chất thuốc như gây tổn
thương cho thận (trong trường hợp này hình chụp thận cho thấy thận giữ
thuốc rất lâu và kèm theo là sự tiết thuốc bởi đường gan mật và ruột), loạn
nhịp tim, thiếu máu cơ tim, phản ứng mạch-thần kinh X như mạch chậm, ói,
tụt huyết áp (phân biệt với tụt huyết áp do phản ứng quá mẫn là mạch
thường chậm chỉ cần điều trị với Atropine). Ðộ thẩm thấu cao gây biến dạng
hồng cầu ở người có hồng cầu hình liềm, làm cao HA động mạch phổi

×