Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tiểu luận Triết học số 114

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.33 KB, 28 trang )

                                                         Tiểu luận: Triết học

LỜI MỞ ĐẦU

 Lý luận hình thái kinh tế – xã hội là lý luận cơ bản và giữ một vị trí 
hết sức quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử do K.Marx xây dựng nên. 
Lý luận hình thái kinh tế  ­ xã hội đã được thừa nhận là lý luận khoa học  
và là phương pháp luận cơ  bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực học. Nhờ 
có lý luận hính thaí kinh tế – xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử xã hội học  
K. Marx đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển 
xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Như vậy qua lý luận 
hình thái kinh tế – xã hội giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và 
khoa học vận hành của xã hội trong mỗi giai đoạn nhất định.
Lý luận hình thái kinh tế  xã hội đã lỗi thời, lạc hậu không thể  áp  
dụng vào điều kiện hiện nay mà phải thay thế  bằng một lý luận khác.  
Trước tình hình đó buộc chúng ta làm rõ thực chất của lý luận hình thái 
kinh tế  xã hội và giá trị  về  mặt khoa học, tính thời đại của nó là rất cần  
thiết ; về  thực tiễn nước ta đang trong quá trình xây dựng đất nước theo 
định hướng xã hội chủ  nghĩa. Trong quá trình đó rất nhiều vấn đề  khó 
khăn được đặt ra đòi hỏi phải nghiên cứu giải quyết.
Vì vậy em mạnh dạn nhận đề  tài: ''  Vận dụng Lý luận hình thái  
kinh tế – xã hội để phân tích vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế  
Việt nam hiện nay'' Qua bài viết em thấy còn nhiều thiếu sót, bản thân là 
người Laos nhận thức có hạn mong có sự đóng góp ý kiến của Thầy cô và 
bạn đọc.
                                                                 Sinh viên: ALu Lao Ly
Sinh viên: ALu Lao Ly                          1                            Lớp CH ­ 2006. 
B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 


học
                                                                 Lớp : Cao Học 2006 ­ B4
                                                                  Hà nội: 25/ 1/ 2007

PHẦN I

NỘI DUNG CỦA HÌNH THÁI KINH TẾ ­ XàHỘI
I. KHÁI NIỆM.
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch 
sử  dùng để  chỉ  xã hội  ở  từng giai đoạn phát triển lịch sử  nhất định, với  
những quan hệ  sản xuất của nó thích  ứng với lực lượng sản xuất  ở  một 
trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng lên trên 
những quan hệ sản xuất đó.
1.Kết cấu và chức năng của các yếu tố  cấu thành hình thái kinh  

tế – xã hội.
Xã   hội  không  phải   là  tổng  số   những   hiện  tượng,   sự  kiện  rời  rạc  
những cá nhân riêng lẻ. Xã hội là một  chỉnh thể toàn vẹn có cơ  cấu phức  
tạp. Trong đó có những mặt cơ  bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ 
sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt có vai trò nhất định và tác  
động đến mặt khác tạo nên sự vận động của cơ thể xã hội. Chính tính toàn 
vẹn của nó được phản ánh bằng khái niệm hình thái kinh tế – xã hội.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ  thuật của mỗi hình thái 
kinh tế – xã hội. Sự  hình thành và phát triển  của mỗi hình thái kinh tế – xã  
hội xét đến cùng là do lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất 

2
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4



                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
phát triển qua các hình thái kinh tế – xã hội nối tiếp nhau từ  thấp  lên cao  
thể hiện tính liên tục trong sự phát triển của xã hội loài người.
Quan hệ  sản xuất – quan hệ giữa người và người trong quá trình sản  
xuất – là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mối quan hệ 
xã hội khác, không có mối quan hệ đó thì không thành xã hội và quy luật xã 
hội. Mỗi hình thái kinh tế  ­ xã hội  lại có một kiểu quan hệ  sản xuất của  
nó tương ứng với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản  
xuất, đó là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội  
cụ thể khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định của  
lịch sử.
Những quan hệ sản xuất là  bộ xương của ơ thể xã hội hợp thành cơ 
sở  hạ  tầng. Trên cơ  sở  những quan hệ  sản xuất đó hình thành nên những  
quan điểm về chính trị, pháp lý, đạo đức, triết học v.v...và những thiết chế 
tương  ứng hợp thành kiến trúc thượng tầng xã hội mà chức năng xã hội  
của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sơ hạ tầng sinh ra nó.
Ngoài những mặt cơ bản của xã hội đã đề cập ở trên – lực lượng sản  
xuất, quan hệ  sản xuất và kiến trúc thượng tầng – thì còn có những quan  
hệ dân tộc quan hệ gia đình và các sinh hoạt xã hội khác.
2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế ­ xã hội là một quá trình lịch sử tự 
nhiên.

Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau 
từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế – xã 
hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch  
sử đều do tác động của quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên  
của xã hội. Marx viết : “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế – 
xã hội là một quá trình lịch sử  tự  nhiên ”.


3
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
Các mặt cơ  bản hợp thành một hình thái kinh tế  – xã hội: lực lượng  
sản xuất quan hệ  sản xuất và kiến trúc thượng tầng không tách rời nhau, 
mà liên hệ  biện chứng với nhau hình thành nên những quy luật phổ  biến  
của xã hội. Đó là quy luật về  sự  phù hợp của quan hệ  sản xuất với tính  
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định  
kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính  do tác  động của 
quy luật khách quan đó, mà các hình thái kinh tế – xã hội vận động và phát  
triển thay thế nhau từ thấp lên cao trong lịch sử  như một quá trình lịch sử 
tự nhiên không phụ thuộc vào ý trí, nguyện vọng chủ quan của con người.
Quá trình phát triển lịch sử tự  nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở 
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Những lực lượng sản xuất được tạo ra bằng năng  thực tiễn của con  
người xong không phải con người làm ra theo ý muốn chủ quan. Bản thân 
năng lực thực tiễn của con người cũng bị  quy định bởi nhiều điều kiện 
khách quan nhất định. Ngươì ta làm ra lực lượng sản xuất của mình dựa 
trên những lực lượng sản xuất đã đạt được trong một hình thái kinh tế – xã  
hội đã có sẵn do thế  hệ trước tạo ra. Chính tính chất và trình độ  của lực  
lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan tính chất và trình độ  quan 
hệ  sản xuất, do đó, xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình  
vận động và phát triển của hình thái kinh tế – xã hội như một quá trình lịch  
sử  tự nhiên. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển 
của các hình thái kinh tế  – xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ 

sản xuất có vai trò quyết định nhất. Lực lượng sản xuất, một mặt của  
phương thức sản xuất, là yếu tố bảo đảm tính kế  thừa trong sự  phát triển 
lên của xã hội quy định khuynh hướng phát triển từ    thấp. Quan hệ  sản  
xuất là mặt thứ  hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn 
trong sự  phát triển củ  lịch sử. Những quan hệ sản xuất lỗi thời được xoá 
4
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
bỏ  và được thay thế  bằng những kiểu quan hệ  sản xuất mới cao hơn  và 
hình thái kinh tế – xã hội mới cao hơn ra đời. Như   vậy, sự  xuất hiện, sự 
phát triển của hình thái kinh tế – xã hội, sự chuyển biến từ hình thái đó lên  
hình thái cao hơn được giải thích trước hết bằng sự tác động của quy luật 
về  sự  phù hợp của quan hệ    sản xuất với tính chất và trình độ  của lực 
lượng sản xuất. Quy luật đó là khuynh hướng tự tìm đường cho mình trong 
sự phát triển thay thế các hình thái kinh tế ­ xã hội. Nghiên cứu con đường  
tổng quát của sự phát triển lịch sử  được quy định bởi quy luật chung của  
sự   vận động của nền sản xuất vật chất chúng ta nhìn thấy logic của lịch  
sử thế giới. 
Vạch ra con đường tổng quát của lịch sử, điều đó không có nghĩa là 
giải thích được rõ ràng sự  phát triển xã hội trong mỗi thời điểm của quá 
trình lịch sử. Lịch sử cụ thể  vô cùng phong phú, có hàng loạt những yếu tố 
làm cho quá trình lịch sử    đa dạng và thường xuyên biến đổi, không thể 
xem xét quá trình lịch sử như một đường thẳng.
Theo quan điểm  của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân tố quyết định quá 
trình lịch sử, xét đến cùng là nền sản xuất đời sống hiện thực. Nhưng nhân 
tố kinh tế không phải là nhân tố duy nhất quyết định các nhân tố khác nhau  

của kiến trúc thượng tầng đều có  ảnh hưởng đến quá trình lịch sử. Nếu  
không tính đến sự  tác động lẫn nhau của các nhân tố  đó thì không thấy  
hàng loạt những sự  ngẫu nhiên mà tính tất yếu kinh tế  xuyên qua để  tự 
vạch ra đường đi cho mình. Vì vậy để  hiểu lịch sử  cụ  thể  thì cần thiết  
phải tính đến tất cả  các nhân tố  bản chất có tham gia trong quá trình tác  
động lẫn nhau đó.
Có nhiều ngyuên nhân làm cho quá trình chung của lịch thế giới có tính 
đa dạng: điều kiện của môi trường địa lý có  ảnh hưởng nhất định đến sự 
phát triển xã hội. Đặc biệt  ở  buổi ban đầu của sự  phát triển xã hội, thhì  
5
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
điều kiện cuả môi trường địa lý là một trong những nguyên nhân quy định 
quá trình không đồng đều của lịch sử thế giới, có dân tộc đi lên, có dân tộc  
trì trệ lạc hậu. Cũng không thể không tính đến sự tác động của những yếu  
tố như nhà nước, tính độc đáo của nền văn hoá của truyền thống của hệ tư 
tưởng và tâm lý xã hội v.v...đối với tiến trình lịch  sử.
II. VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ XàHỘI VÀO ĐIỀU 
KIỆN VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế  xã hội của chủ  nghĩa Mac­
Lênin vào việc đề  ra chiến lược cho cách mạng Việt nam tiến lên chủ 
nghĩa xã hội. Đường lối cách mạng do chủ  tịch Hồ  Chí Minh và Đảng ta 
nêu ra là sự vận dụng sáng tạo hình thái kinh tế ­ xã hội vào điều kiện Việt 
nam. Đảng ta đã khẳng định rằng sau khi Việt nam tiến hành công việc 
cách mạng dân chủ  nhân dân sẽ  tiến lên làm cuộc cách mạng xã hội chủ 

nghĩa.
Đây là sự  lựa chọn đúng hướng đi và xác định mục tiêu của sự  phát  
triển. Chúng ta đều biết, đối với Đảng ta, việc lựa chọn và xác định này 
đặt ra   ngay từ  năm 1930 và luôn luôn đúng với mọi sự  biến động trong 
thực tiễn phát triển của cách mạng Việt nam, trong lịch sử đấu tranh cách  
mạng của Đảng và của dân tộc chính cương, sách lược vắn tắt do Nguyễn  
Ái Quốc khởi thảo và luận văn chính trị của Đảng năm 1930 đã ghi rõ Cách 
mạng Việt nam sẽ  đi theo con đường “là tư sản dân quyền cách mạng để 
đi tới xã hội cộng sản” bỏ  qua giai đoạn phát triển tư  bản chủ  nghĩa. Sự 
lựa chọn này là kết quả trực tiếp nảy sinh từ sự giác ngộ  chủ  nghĩa Mác­
Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học ở lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau một thập  
niên (1911­1920) đi tìm đường cứu nước và đã tìm thấy chủ nghĩa Lênin, đã 
nhận thức rõ cách mạng Việt nam sẽ  đi theo con đường Cách mạng tháng 
6
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
Mười  “Đường  cách  mệnh”  (1927)   là tác  phẩm lý   luận  macxít  đầu  tiên 
được xây dựng trên nền móng của tư tưởng đó. Trong tác phẩm quan trọng  
này Nguyễn ái Quốc đã chỉ rõ:
“Trong thế  giới bây giờ  chỉ  có cách mệnh Nga là đã thành công và  
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái tự  do hạnh phúc, 
bình đẳng thật, chứ  không phải tự  do và bình đẳng giả  dối như  đế  quốc 
Pháp khoe khoang bên Nam An” Người khẳng định, chỉ có chủ nghĩa Lênin  
là chân chính nhất, chắc chắn nhất và cách mệnh nhất mà chúng ta sẽ  đi 
theo. Từ bước ngoặt năm 1920, khi Nguyễn ái Quốc trở thành người cộgn 
sản và cho đến những năm sau này. NGười đều nhất quán khẳng định, giải 

phóng giai cấp, giải phóng dân tộc chỉ  có thể  thực hiện được bằng con  
đường cách mạng vô sản, bằng cuộc  xây dựng chủ  nghĩa xã hội mới, xã  
hội cộng sản chủ nghĩa.
Khi miền Bắc đã được giải phóng nhưng miền Nam còn phải tiếp tục 
chiến đầu vì độc lập tự  do của  Tổ Quốc, tình hình lúc đó đặt ra câu hỏi: 
Miền Bắc có nên bước ngay vào thời kỳ quá độ để xây dựng chủ nghĩa xã 
hội hay không khi khi mục tiêu độc lạap dân tộc chưa được giải quyết  
xong  ở  miền Nam? Đảng ta khẳng định là phải đồng thời tiến hành hai  
nhiệm vụ  cách mạng: tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ   ở  miền  
Nam và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Sự lựa chọn này 
đã được thực tiễn xác nhận là hoàn toàn đúng đắn. Không có sự hậu thuẫn  
của chủ  nghĩa xã hội  ở  miền Bắc, cách mạng miền Nam sẽ  không có 
những đảm bảo vật chất và tinh thần cần thiết cho thắng lợi.
Khi miền Nam đã được giải phóng, đất nước thống nhất, một vấn đề 
cũng được đặt ra là miền Nam sẽ cùng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội  
hay tạm thời dừng lại một thời gian để  phục hồi sau chiến tranh? Có thể 
nói, sự  lựa chọn này là một thử  thách không kém phần phức tạp. Đảng 
7
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
quyết định cả  nước cùng đi lên chủ  nghĩa xã hội. Quyết định này đã được 
thực tiễn xác nhận hoàn toàn đúng đắn.
 Vào giữa những năm 80, kinh tế  xã hội nước ta lâm vào cuộc khủng 
hoảng trầm trọng, chế  độ  xã hội chủ  nghĩa  ở  Liên Xô và Đông Âu đang 
chao đảo. Nhưng cũng chính vào lúc  ấy, Đảng ta đã quyết định đường lối  
đổi mới, chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, 

vận hành theo cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của nhà nước, theo định 
hướng xã hội chủ  nghĩa, hội nhập và mở  cửa với bên ngoài. Một lần nữa  
sự  khẳng định của Đảng ta về con đường đi lên chủ  nghĩa xã hội đã được 
thực tiễn xác nhận là đúng đắn.
Vào giữa  những  năm 80, kinh tế  – xã hội nước  ta lâm vào cuộc  
khủng hoảng trầm trọng chế  độ  xã hội chủ  nghĩa  ở  Liên Xô và Đông Âu 
đang chao đảo. Nhưng cũng chính vào lúc ấy, Đảng ta đã quyết định đường 
lối đổi mới, chủ  trương xây dựng và phát triển nền kinh tế  nhiều thành 
phần, vận hành theo cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của nhà nước, theo  
định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập và mở  cửa với bên ngoài. Một lần  
nữa sự  khẳng định của Đảng ra về  con đường đi lên chủ  nghĩa xã hội đã 
được thực tiễn xác nhận là đúng đắn.
Có thể nói, những quyết sách của Đảng ta ở  thời kỳ  này thể  hiện sự 
năng động về  tư duy lý luận gắn liền với sự mẫn cảm về thực tiễn cùng  
bản lĩnh chính trị  vững vàng. Đó là sự  khẳng định tính tất yếu của sự  đổi 
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa: đổi mới để phát triển, để thoát khỏi  
tình trạng khủng hoảng, để vượt qua những kìm hãm của mô hình cũ – mô 
hình hành chính bao cấp, để  giải phóng và khai thác mọi tiềm năng phát  
triển của xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội  
công bằng văn minh. Đổi mới không phải là từ bỏ  chủ  nghĩa xã hội, mà là 
khẳng định tính quy luật của con đường phát triển đó làm cho công cuộc  
8
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
xây dựng chủ  nghĩa xã hội công bằng văn minh. đúng với quy luật khách 
quan hơn phù hợp với hoang cảnh, điều kiện thực tế của đất nước với xu  

thế, đặc điểm của thế giới hiện đại. Đổi mới là để xây dựng chủ nghĩa xã 
hội hiệu quả hơn làm cho chủ nghĩa xã hội bộc lộ và khẳng định bản chất 
ưu việt của nó, từng bước định hình và phát triển trong thực tế, làm cho 
“đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng tốt, xã hội 
ngày càng văn minh, tiến bộ” để cho nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh  
phúcđược học hành tiến bộ và phát triển mọi khả năng sáng tạo của mình” 
để cho “dân thực sự là chủ và làm chủ lấy xã hội và cuộc sống của mình? 
Như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh.
 Như  vậy, đi lên xã hội chủ  nghĩa là tất yếu khách quan, và nó được  
thể hiện trong công cuộc đổi mới của Đảng ta, đổi mới để xác lập một sự 
ổn định mới nhằm làm cho đất nước đạt tới sự  phát triển bền vững. Điều  
đó có ngiã là chúng ta phải xác định con đường xây dựng chủ  nghĩa xã hội 
với sự năng động hơn nữa tichs cực hơn nữa, và phù hợp hơn nữa với tình  
hình thế giới hiện đại. Chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng 
sẽ  là chế  độ  phát hiện và sử  dụng tốt nhất những nguồn lực của chính 
mình, trong đó sức mạnh quyết định chính là nguồn lực con người. Đó là 
mục tiêu quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội.
2. Những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ
Thời kỳ  quá độ  là thời kỳ  tạo cơ  sở  vật chất và con người cho chủ 
nghĩa xã hội trong quá trình thực hiện này, với điều kiện và hoàn cảnh của 
Việt nam, đã đặt ra cho chúng ta những nhiệm vụ sau:
Thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để  xây 
dựng cơ  sở  vật chất kỹ  thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Công cuộc 
này đặt ra những nhiệm vụ lớn mà chúng ta cần giải quyết: Cụ thể là: tạo 
ra những điều kiện thiết yếu về vật chất, kỹ thuật, con người và khoa học  
9
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4



                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
công nghệ, huy động mọi người vốn, nguồn lực lao động làm cho nền kinh 
tế tăng trưởng nhanh nhưng bền vững và trên cơ sở nâng cao mọi mặt của 
đời sống xã hội. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất   nước cần  
phải thực hiện ngay một số nội dung cơ bản sau;
+ Tăng thêm tốc độ  và tỷ  trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh  
tế quốc dân 
+Dựa trên sự thay đổi về công nghệ chúng ta phải chuyển dịch cơ cấu  
nền kinh tế dẫn đến tăng trưởng nhanh và lâu bền.
+ Khuyến khích và đào tạo những tài năng trẻ nhằm tạo ra đội ngũ cán 
bộ kỹ thuật có trình độ cao.
+ Thực hiện chuyển giao công nghệ  kết hợp với năng lực sáng tạo  
của quần chúng. Muốn vậy phải nắm bắt đầy đủ  chính xác các thông tin  
cần thiết thông qua, các công ty tư  vấn trong và ngoài nước để  đảm bảo  
lựa chọn công nghệ chính xác. Mở rộng liên kết liên doanh với nước ngoài 
để có thể khai thác công nghệ tiên tiến một cách trực tiếp.
­

Xây dựng và phát triển nền kinh tế  hàng hoá nhiều thành phần 

theo định hướng chủ  nghĩa xã hội vận hành theo cơ  chế  thị  trường có sự 
quản lý của nhà nước. Muốn vậy cần phải chấn chỉnh đổi mới và phát 
triển có hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước để làm tốt vai trò hỗ trợ 
và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Tạo điều kiện để 
các thành phần kinh tế  khác phát triển theo đúng pháp luật và quan trọng  
nhất là phải từng bước hướng vào con đường tư bản nhà nước.
­

Phải thận trọng trong sự phát triển xã hội, mở  rộng giao lưu văn 


hoá với nước ngoài, phải có biện pháp hữu hiệu chống lại sự  thâm nhập 
của các loại văn hoá độc hại. Kế  thừa và phát triển các truyền thống văn  
hoá tốt đẹp của dân tộc.

10
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
­ Cần phải tiếp tục đổi mới bộ  máy nhà nước theo hướng tiến bộ 
dựa trên những cơ sở sau:
+ Chống quan liêu chuyên quyền độc đoán trong bộ máy nhà nước.
+ Phải phân biệt rõ chức năng cảu các cấp các ngành.
+ Phải đưa ra một hệ  thống pháp luật chặt chẽ  đồng bộ  và có tính 
khả thi. Phải đảm  bảo thực hiện nghiêm chỉnh mọi luật pháp đề ra.

PHẦN II
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Trong những năm đổi mới ta có thể  thấy rõ những thành tựu mà cơ 
chế  mang lại. Những  ưu điểm của cơ  chế  thị  trường là không thể  phủ 
định,   nhưng   chúng   ta   cũng   phải   thừa   nhận   rằng   KTTT   cũng   có   những  
khuyết tật vốn có của nó. Vì vậy không chỉ tồn tại cơ chế thị trường thuần 
tuý mà cần có sự  can thiệp nhà nước để  sửa chữa những thất bại của cơ 
chế  thị  trường hơn nữa để  định hướng cho nó đi theo con đường XHCN 
điều tiết vĩ mô nhà nước trong nền kinh tế.
Vai trò và chức năng kinh tế  của nhà nước trong nền kinh tế  việt 
nam hiện nay. Muốn quản lý nền kinh tế  việt nam hiệu quả  thì trước hết  

phải nắm rõ những quy luật của kinh tế  thị  trường. Mọi chính sách nhà  
nước đều phải dựa trên những chính sách khách quan  ấy. Sự  quản lý nhà 
nước Việt Nam cũng có những điểm giống như  nhà nước tư  bản đó là: 
thừa nhận tính độc lập các chủ  thể  kinh tế  để  có quyền tự  chủ  trong sản 
xuất kinh doanh, tự  chịu trách nhiệm lỗ  lãi; xây dựng hệ  thống thị  trường 
cớ  tính cạnh tranh, giá cả  chủ  yếu do thị  trường quyết định. Xây dựng cơ 
chế  điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm hướng dẫn, giám sát hoạt động 
của các chủ  thể  kinh tế, hạn chế  những khuyết tật của thị  trường; xây 
dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo ra khuôn khổ cho nền kinh tế; tôn trọng  
và thực hiện thông lệ quốc tế trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên sự  quản lý kinh tế  của nhà nước xã hộ  chủ  nghĩa và sự 
quản lý kinh tế của nhà nước tư bản có sự khác nhau rõ rệt. Sự quản lý nhà 
11
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
nước tư sản đối với nền kinh tế thị trường nhằm đem lại lợi nhuận tối đa 
cho các tổ chức độc quyền. Nhà nước XHCN dưới sự lãnh đạo đảng cộng  
sản quản lý nền kinh tế thị trường nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã  
hội công bằng, dân chủ, văn minh, đảm bảo cho mọi người có cuộc sống  
ấm no tự do hạnh phúc.
Nhà nước có chức năng kinh tế sau:
Thứ nhất: Nhà nước đảm bảo sự ổn định chính trị  kinh tế  xã hội và 
thiết lập khuôn khổ  luật pháp để  tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động 
kinh tế. Nhà nước phải tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế 
bằng cách đặt ra các điều luật cơ  bản về  quyền sử  hữu tài sản và hoạt  
động chính trị.

Thứ  hai : Nhà nước định hướng và điều tiết các hoạt động kinh tế 
nhằm đảm bảo kinh tế tăng trưởng ổn định. Sử dụng những chính sách tài  
chính tiền tệ  để   ổn định môi trường kinh tế  vĩ mô tạo điều kiện cho phát 
triển kinh tế.
Thứ ba : Nhà nước phải đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu 
quả. Tránh để cho những doanh nghiệp chạy theo lợi ích kinh tế mà để lại 
những hậu quả về ô nhiễm  môi trường, cạn kiệt tài nguyên. Nhà nước có 
nhiệm vụ  thực hiện những biện pháp bảo vệ  cạnh tranh và chống độc 
quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động chính trị.
Thứ tư : Nhà nước hạn chế khắc phục những mặt tiêu cực thực hiện  
công bằng xã hội. Vì sự  tác động kinh tế  đem lại hiệu quả  kinh tế  cao  
không hoàn toàn đồng nghĩa với những mục tiêu CNXH vì phát triển kinh 
tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội.
Để thực hiện vai trò và chức năng cơ bản trên nhà nước cần có một 
công cụ quản lý đó là : Hệ thống pháp luật, kế hoạch hoá, lực lượng kinh 
tế của nhà nước, hệ thống chính sách và công cụ kinh tế.
Hệ thống pháp luật tạo ra khuôn khổ cho các chủ thể kinh tế hoạt  
động, phát huy các mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị 
trường. Hệ  thống pháp luật bao trùm mọi hoạt động kinh tế  xã hội, điều 

12
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
chỉnh hành vi của các chủ  thể  kinh tế  buộc các doanh nghiệp phải chấp 
nhận sự điều tiết của nhà nước.
Kế hoạch hoá cơ chế  vận hành nền kinh tế  thị  trường định hướng  

XHCN là sự điều tiết của thị trường là cơ sở phân phối các nguồn lực. Còn  
kế hoạch khắc phục tính tự phát của nền kinh tế việt nam 
Lực lượng kinh tế  của nhà nước kinh tế  nhà nước phải đóng vai 
trò tiên phong chủ  đạo hỗ  trợ  các thành phần kinh tế  phát triển theo định  
hướng XHCN.
HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH VÀ CÔNG CỤ KINH TẾ

 + Chính sách tài chính thông qua việc hình thành và xây dựng ngân 
sách nhà nước. Nhà nước được phân phối các nguồn lực kinh tế xây dựng  
kết cấu hạ  tầng đảm bảo công bằng trong phân phối và thưc hiện chức 
năng của mình.
 + Chính sách tiền tệ: là công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu, vai trò của  
nó trong điều tiết kinh tế vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển kinh  
tế  thị  trường định hướng XHCN chính sách tiền tệ  phải khống chế  được  
lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng.
 + Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại 
Để  mở  rộng và nâng cao hiệu quả  kinh tế  đối ngoại nhà nước sử 
dụng nhiều công cụ trong đó chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu đảm bảo tín 
dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu. Thông qua các công cụ đó, bảo hộ hợp 
lý sản xuất trong nước , nâng cao khả năng cạnh tranh ở nướ ta. Bảo vệ lợi 
ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế.
 3. Giải pháp nâng cao vai trò nhà nước 
Trên cơ sở phân tích nhà nước đã làm được và chưa làm được trong  
thời gian vừa qua.ta có thể đưa ra một số  giải pháp nhằm nâng cao vai trò 
của nhà nước trong nền kinh tế việt nam.
1­Tiếp tục quá trình và tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế 
một cách triệt  hơn. 
Khác với thời kì nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hầu hết giá cả, 
sản lượng do nhà nước quy định. Trong thời kì kinh tế  thị  trường vấn đề 
13

Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
chung ta phải đặt ngược hẳn lại: khuyến khích cạnh tranh, khắc phục tình 
trạng độc quyền. Trên thị  trường nước ta, giá cả  còn diễn biến khá phức  
tạp. Những năm gần đây, lạm pháp tăng lằm ảnh hưởng lớn đến đời sống 
xã hội. Nhà nước phải có biện pháp hết sức linh hoạt và phù hợp với thực  
tiễn.
a­Các biện pháp quản lý giá cả trên thị trường độc quyền.
Thị  trường độc quyền nhà nước ta đã thu hẹp nhiều nhưng vẫn còn 
một số  ngành như  điện lực, bưu chính viễn thông ... Đây là những ngành  
then chốt trong nền kinh tế  , chỉ  nhà nước mới có thể  có điều kiện đảm  
nhận, xây dựng và duy trì phát triển sự quản ly điều hành tập trung của nhà  
nước là tất yếu và cần thiết.
Nhà nước quản lý giá cả  của những sản phẩm này bằng hình thức  
sau: 
_ Quy định giá chuẩn đối với hành, dịch vụ độc quyền
_ Quy định chính sách cơ chế quản lý cước bưu chínhviễn thông quốc tế.
_ Quy định chính sách, cơ  chế  quản ly sử  dụng tài nguyên tự  nhiên 
trong đó có giá cho thuế đất.
Trong tương lai nhà nước phải từng bước xoa bỏ  độc quyền, liên 
doanh mở rộng hợp tác với nước ngoài đàu tư cơ sở vcật chất trang thiết bị 
, khuyến khích cạnh tranh trong kinh doanh.
b­ Các biện pháp quản lý giá cả trên thị trường cạnh tranh
Đối với một số  sản phẩm quan trọng vừa có sự  tham gia của  
nhà nước vừa có sự tham gia của các các đơn vịkinh tế , nhà nước quy định 
“giá tới hạn” như  : giá tối đa hàng chuẩn, giá tối đa nước máy tại thành 

phố, khu công nghiệp, giá xuất khẩu tối thiểu ... 
Đối với mặt hàng khác nhà nước quản lý giá thông qua biện pháp 
sau:
_ Quy định chính sách cơ  chế  quản lý giả  đối với công trình xây 
dựng cơ bản thuộc sở hữu nhà nước tư sản cố định thuộc sơ hữu nhà nước 
nhượng bán.
_ Tổ chức đăng kí hiệp thương giá, niêm yết giá.
14
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
_ Thực hiện chính sách biện pháp bình  ổn giá một số  hàng, dịnh vụ 
thiết yếu, bảo hộ sản xuất trong nước.
_ Thanh tra sử lí vi phạm kỉ luật về giá.
c­ Hình thành đầy đủ  các thị  trường cần thiết co việc thương mại  
hoá nền kinh tế như: thị trường vốn, thị trường lao động đưa thị trường này  
vào hoạt động.
Mô hình thị trường vốn ở VN phải là mô hoình đặc thù có sự kết hợp  
các yếu tố  các loại hình thị  trường vốn “mở” và “đóng” nhà nước  ơphải  
ban hành các chính sách, biện pháp cơ  chế  tổchức và trực tiếp quản li thị 
trưpờng chứng khoán.
Những điều kiện cơ bản trực tiếp cho hình thành thị trường  vốn VN  
hiện nay là:
_ Thực hiện chính sách lãi suất tín dụng theo cơ  chế  thị  trường, lãi 
xuất ngân hàng là một trong những yếu tố cơ bản quy định giá cả  của các  
chứng khoán.
_ Đa dạng hoá công cụ  hoạt động trên thị  trường tài chính như  cổ 

phiếu, trái phiếu, tín phiếu.
_ Đa dạng hoá mô hình tổ chức tín dụng hoạt động đa năng và cạnh  
trang theo cơ chế thị trường.
_ Tạo lập môi trường đầu tư chắc chắn.
_ Tạo lập lòng tin dân chúng vào hệ thống tài chính trong nước.
_ Nhà nước phải có quan điểm rõ ràng nhất quán về chế độ sở hữu.
_ Chính sách hạ tầng thông tin liên lạc tốt.
_ Môi trường pháp lý đầy đủ đồng bộ.
_ Chính sách vốn nói chung thị  trường vốn nói riêng phải tiến hành 
đồng bộ với chính sách khác và thị trường khác.
_   Đào tạo đội ngũ cán bộ  đủ  trình độ, am hiểu nghiệp vụ  trên thị 
trường vốn.
d­ Tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Tự  do hoá ngoại thương áp dụng chính sách tự  do buôn bán bảo vệ 
mậu dịch ôn hào. Quản ly tốt việc nhập khẩu. Tham gia vào các thị trường 
mới(hiện nay nước ta đang trong quá trình đàm phán ra nhập WTO)
2­   Đa   dạng   hoá   chế   độ   sở   hữu   theo   xu   hướng   phat   triển   doanh 
nghiệp tư  nhân, đổi mới phương thức hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp nhà nước cho phù hợp cơ chế thị trường.
3­ Tăng cường khẳ năng kiểm kê kiểm soát của nhà nước đối với sự 
hoạt động của doanh nghiệp.
15
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
Nhà nước không han chế khả năng sản xuất của doanh nghiệp nhưng 
mặt khác tăng cường công tác kiểm kê kiểm soát đảm bảo môi trường kinh 

doanh luôn trong sạch và răng nguồn thu từ  thuế  cho ngân sách. Nhà nước 
cần phải:
_ Tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp tự do kinh doanh.
_Thành lập công ty kiểm toán tư nhân và nhà nước đặt dưới sự quản 
lý và chỉ đạo nội vụ của bộ tư pháp.
_ Thực hiện chế độ nghiêm ngặt đăng kí hệ thống kế toán.
4­ Cải cách bộ máy hành chính, hiện đại hoá nhà nước.
Bộ  máy quản lý hành chính nước ta còn khá cồng kềnh chồng chéo. 
Tệ quan liêu tham nhũng còn là vấn đề cấp bách. Chúng ta phải rà soát loại 
bỏ  những quy định, phương thức tổ  chức cũ, đảm bảo sự  quản lý hiệu  
quả, không chồng chéo. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ  nhà nước đảm 
bảo người quản lý đủ  trình độ, chuyên môn, nhận thức bản lĩnh chính trị. 
Đưa hệ  thống tin học vào quản lý đảm bảo sự  khách quan khoa học, tiết  
kiệm thời gian.
5­ Đối với công tác kế  hoạch hoá theo xu hướng kế  hoạch hoá định  
hướng đồng thời đổi mới hệ thống mục tiêu định hướng.
6­  Đổi  mới  hệ  thống thông tin kiểm tra theo yêu cầu cơ  chế  thị 
trường.
Để phù hợp với cơ chế mới và làm đúng chức năng, mô tả thực trạng  
thị trường hàng, dịch vụ dự báo xu hưóng báo động giữa cung và cầugiá cả 
và và các trạng thái của sản lượng việc làm, giá cả  phải căn cứ  vào hệ 
thống mục tiêu quản lý theo cơ  chế  mới, hệ  thống chỉ  tiêu kế  hoạch hoá 
định hướng theo cơ  chế  mới cải tạo kênh thị  trường vào hệ  hệ  thống chỉ 
tiêu thị trường kinh tế quản ly cho phù hợp với việc điều hành quản lý kinh 
tế theo cơ chế mới.
7­ Đổi mới công thức sử  dụng các chính sách kinh tế  theo yêu cầu 
kinh tế  thị  trường, tạo cơ  chế phù hợp với chính sách,  ổn định kinh tế  vĩ 
mô.
8­Đổi mới hệ thống pháp chế theo định hướng dân chủ hoá nền kinh 
tế.

9­ Hoàn thiện đổi mới quản lý nhà nước về  tiền tệ  tín dụng ngân  
hàng.
10­Ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát.
11­ Đổi mới chế độ tiền lương.
12­ Tăng cường phối hợp các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
16
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
Để thực hiện được mục tiêu ổn định hình thái kinh tế mà  Đảng đề 
ra là làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, đất nước 
chuyển mình lên chủ  nghĩa xã hội thì đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện  
quan hệ sản xuất, chúng ta nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất, vì 
không có lực lượng sản xuất hùng hậu với năng suất cao thì không thể nói  
đến một nền kinh tế vững mạnh.
Mà  muốn có   năng suất  lao  động  cao  thì  không  chỉ  dựa  vào  nông 
nghiệp, sử  dụng lao động thủ  công mà phải phát triển công nghiệp đi lên 
đổi mới công nghệ  ngày càng hiện đại. Nói cách khác là Nhà nước ta đã 
tiến hành theo hiện đại hoá. Đó là bước đi tất yếu của một quốc gia muốn 
đi lên từ  một nền kinh tế  lạc hậu, nghèo nàn và đó cũng là xu thế  chung  
của lịch sử.
Một lần nữa ta khẳng định tính tất yếu của hình thái kinh tế  xã hội  
đưa đất nước ta vượt qua một chặng đường dài đi lên một xã hội hoàn 
thiện. Đó là sự đi lên ngày càng cao của các nước đang phát triển so với các 
nước phát triển.     
Nhận định được những điều nói trên và những bài học kinh nghiệm  
rút ra từ  thực tế. Việt Nam, Đảng ta đã xác định tư  tưởng nhận thức một 

cách đúng đắn hơn và đã tạo ra được vai trò của nó trong việc vận dụng  
hình thái kinh tế xã hội thông qua các vấn đề sau:
1.Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế mới.
Ngày nay không phải đơn thuần là sự  phát triển mạnh mẽ  ngành 
công nghiệp mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự 
đổi mới cơ bản về  hình thái kinh tế  và tất cả  các ngành kinh tế  quốc dân. 
Từ đó tạo ra sự cân đối hài hoà giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế 
quốc doanh.
17
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
Đổi mới cả  tư  duy suy nghĩ và hành động. Công cuộc đổi mới mà 
Đảng đã lựa chọn là đúng đắn, con đường đó là công nghiệp hoá ­ hiện đại 
hoá với việc hình thành và chuyển dịch kinh tế.
* Phương hướng cụ thể.
Giải quyết là chuyển đổi cơ  cấu “công ­ nông nghiệp và dịch vụ” 
phù hợp với xu hướng “mở” của nền kinh tế. Vấn đề này được giải quyết 
tạo nền tảng vững chắc cho việc phân công lại lao động hợp lý trong các 
ngành kinh tế và điều chỉnh hợp lý với cơ cấu đầu tư.
Hướng chuyển dịch đó là giá trị  các ngành dịch vụ  tăng nhanh, tỉ  lệ 
sản lượng chiếm phần lớn trong GDP... Tỉ  trọng giá trị  sản lượng nông 
nghiệp giảm dần ( nhưng lượng tuyệt đối tăng hàng năm).  
+ Nông nghiệp (kể  cả  lâm ngư  nghiệp): trong một số  năm trước mắt 
vẫn được coi là mặt trận hàng đầu. Nhà nước có những chính sách khuyến  
khích đầu tư vốn khoa học công nghệ nhằm phát huy thế mạnh tiềm năng 
của các vùng, hình thành những vùng chuyên canh... tạo cơ cấu cây trồng,  

vật nuôi hợp lí đa dạng phù hợp với điều kiện sinh thái ở nước ta .    
+ Công nghiệp: Đã hình thành một số ngành công nghệ hiện đại có hàm 
lượng khoa học ­  công nghệ hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở những tiền đề 
cần phảI đạt được  đó là: điện tử  tin học, công nghiệp sinh học, vật liệu 
mới và cơ khí chính xác.   
Đa dạng hoá các ngành thuộc kết cấu hạ tầng  đi trước một bước gồm  
năng lượng (Điện than, dầu khí) giao thông vận tải. 
Từ nay đến năm 2010 Nhà nước ta phát triển tiếp một số ngành sản  
xuất tiêu dùng và xuất khẩu đi đôi với việc hình thành một số công nghiệp 
tư liệu cần thiết.
18
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
+ Công nghiệp chế  biến nông thổ  thuỷ  sản: đã được chú trọng nhằm 
nâng cao giá trị  của các mặt hàng lương thực thực phẩm nhằm thu hút 
khách hàng trên thị trường quốc tế.
+ Dịch vụ: Đối với ta hiện nay phải hết sức coi trọng và phát huy thế 
mạnh của các hoạt động dịch vụ đặc biệt là dịch vụ có thu ngoại tệ mạnh 
nên Nhà nước ta đã nâng cao chất lượng hoạt động của các Ngân hàng trên 
toàn quốc.
Nâng cao năng lực và trình độ hiện đaị và các ngành dịch vụ kỹ thuật, 
ngân hàng, bưu chính viễn thông.
Các dịch vụ về hàng hải và hàng không có triển vọng to lớn, chúng ta 
chú trọng phát triển các dịch vụ  vận tải biển, dịch vụ  vận tải biển quá 
cảnh.
Ngoài ra vấn đề phân công lại lao động xã hội và tranh thủ vốn đầu 

tư Nhà nước cũng như vấn đề giải quyết sớm để phát triển kinh tế.
2.Công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Nước ta hiện nay là một Nhà nước với 80% dân cư  đang sinh sống 
bằng sản xuất nông nghiệp. Đây là một địa bàn tập trung đại bộ  phận  
người nghèo. Vì vậy, phát triển hình thái kinh tế  xã hội nông thôn đã đang 
và sẽ là mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Song nông nghiệp không thể 
tự  mình thay đổi, đổi mới cơ sở vật chất kĩ thuật công nghệ không có khả 
năng tăng trưởng nhanh để  tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho nông dân 
mà phải có tác động mạnh mẽ  của công nghiệp, dịch vụ  . Chỉ có như  vậy 
sẽ xoá vỡ được trạng thái trì trệ của nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ 
xoá đói giảm nghèo nâng cao mức thu nhập bình quân.
Phần trên đã cho ta thấy Đảng và Nhà nước ta đã làm được những gì  
mà thực tế  trong mấy năm chuyển đổi sản xuất nông nghiệp được phát 
19
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
triển rõ rệt. Hơn nữa theo kinh nghiệm của các nước Châu á ­ Thái Bình 
Dương sự phát triển công nghiệp giai đoạn đầu chủ yếu được đưa vào nền  
tảng của nông nghiệp. Công nghiệp hoá phải tạo cơ  sở  cho công nghiệp 
nông thôn phát triển.
Nhà nước đã khuyến khích cơ sở công nghiệp nông thôn  thu hút công  
nghiệp chế tạo và dịch vụ qua phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Chính 
vì những bước đó mà việc phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội ở nông 
thôn là một việc làm cần thiết trong thời gian trước mắt nhằm đẩy tới một  
bước công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá ở nước ta trong những năm tới.
* Chính sách đường lối để  phát triển đẩy mạnh hơn nữa nền kinh tế  

Việt nam hiện nay
Trong khu vực nông thôn và nông nghiệp phương hướng hàng chiến 
lược đó là thay thế nhập khẩu và có hiệu quả thấp bằng hàng hoá có chất  
lượng  cao  để  xuất  khẩu. Nhiều người  cho rằng  đây là  hướng  sai  lầm  
nhưng thực tế không phải vậy.
Nông nghiệp là ngành sản xuất có đặc trưng là sản phẩm nó cần 
thiết cho mọi cuộc sống hàng ngày. Phát triển sản xuất nông nghiệp cung  
cấp sản phẩm đủ  trong nước rồi mới xuất khẩu là một lẽ  đương nhiên 
những công cụ  sản phẩm chỉ  trong nước còn với xã hội là một lẽ  đương  
nhiên bởi ta không thể nhập lương thực mà lại không sản xuất được ra.
Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp cần được quá trình đầu tư khoa học 
­ công nghệ  để  đem lại chất lượng cao cho sản phẩm. Công nghiệp nhẹ 
cần được phát triển trong lĩnh vực nông nghệ  là công nghệ  để  sản xuất 
thuốc trừ sâu phân bón vi sinh cây không gây độc hại.
3.Đổi mới kết cấu cơ sở hạ tầng
20
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
Kết cấu hạ tầng vừa là điều kiện, vừa là mục tiêu của công nghiệp  
hoá ­ hiện đại hoá. Để  chuẩn bị  cho nền kinh tế  phát triển cao hơn vào 
những năm bước sang thế kỷ 21 thì cơ sở hạ tầng cần phải được hiện đại 
hoá một phần đáng kể. Đó là hệ thống giao thông vận tải phải được nâng  
cấp cao hơn nữa, hiện đại hoá sớm hệ thống bưu chính viễn thông trong và  
ngoài nước, bảo đảm cung cấp điện cho đô thị, cho công nghiệp phải liên 
tục, phải điện khí hoá một phần quan trọng. Ngày nay Nhà nước ta đã đầu  
tư  vào các vùng nông thôn cung cấp nước sạch cho đô thị  từng bước hoàn 

chỉnh  kết   cấu  hạ   tầng  cho   từng  vùng  lãnh  thổ,  nhất  là  khu    vực   công 
nghiệp, các đô thị lớn đều được nâng cấp.
Từ nay đến 2010 và sau đó chúng ta có nhiều dự án xây dựng kết cấu  
hạ tầng quy mô lớn như : xây dựng tuyến đường quốc lộ 1A, tuyến đường 
nối liền Bắc ­ Trung ­ Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế, luận chứng kinh tế 
khoa học đã phê duyệt với trên 50 công ty trong và ngoài nước tham gia đấu 
thầu với số vốn hơn 2 tỷ USD. Một loạt các cảng bến được xây dựng mới, 
nâng cấp (cảng Dung Quất được đầu tư  hơn 1 tỷ  USD trong tương lai sẽ 
tính thành cảng biển lớn  vào bậc nhất Đông Nam á).
Nhìn lại nền kinh tế nước ta từ những năm qua, một số  đã phát huy 
hiệu quả  kinh tế  của nó như  nhà máy thuỷ  điện Hoà Bình, khu gang thép 
Thái Nguyên đang đi vào đổi mới công nghệ, nhà máy xi măng Bỉm Sơn,  
Hoàng Thạch. Chúng ta thấy được nền kinh tế  đang phát triển một cách 
nhanh chóng, Trong tương lai ta sẽ  xây dựng trung tâm Đại học, khoa học  
công nghiệp, y tế thể dục, trung tâm quốc gia.
4.Phát triển kinh tế nhiều thành phần
Sau những năm mở cửa, nền kinh tế cùng với những chính sách của 
Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển. Không 
21
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
như  trước kia ngày nay các thành phần kinh tế từ quốc doanh đến tư  nhân 
phát huy hết tiềm năng của mình nằm trong nền kinh tế thị trường. Chúng 
bổ  sung cho nhau cạnh tranh nhau tạo nên một sự  phát triển có hiệu quả 
đẩy nước ta lên một nấc thang cao hơn của công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá  
đất nước.

Kinh nghiệm của chính nước ta đã chứng tỏ  Việt nam đòi hỏi phải 
có sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Có 
như  vậy chúng ta mới phát huy được tư  tưởng Hồ  Chí Minh “ Đoàn kết, 
đoàn kết, đại đoàn kết”.
Trong thời gian tới để tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát 
huy tính năng động của Người trong công cuộc đổi mới và xây dựng tổ 
quốc chúng ta cần tăng cường quản lý chỉ  đạo thống nhất quá trình mở 
cửa, chuẩn bị tốt các chương trình kế  hoạch, dự  án hợp tác với bên ngoài. 
Đồng thời phải quán triệt các quyết định chủ trương đã đề ra. Đó là vấn đề 
trọng tâm nhất của chính sách đổi mới mà Đảng ta đề  ra song ta cần phải  
kết hợp với những chính sách khác như phát triển công nghiệp trên các địa 
bàn thuận lợi có điều kiện . Hiện nay, ta đang chủ trương đầu tư thúc đẩy 
mạnh các ngành công nghiệp chế  biến nông lâm thuỷ  sản, cơ  khí, điện tử 
tin học, các ngành nguyên vật liệu.
* MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý
Xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, do đó ở nước 
ta khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng phải đặt trong quy luật  
vận động. Muốn tạo ra những bước chuyển biến tích cực của nền kinh tế 
nước ta đòi hỏi các nội dung của hình thái kinh tế  cũng như  phải thường  
xuyên thay đổi và bổ sung.

22
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
Các nội dung trong hình thái kinh tế  phải liên hệ  chặt chẽ  với nhau 
và bổ sung cho nhau. Quan trọng nhất là luôn phải chú ý đến việc xây dựng  

quan hệ  sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ  phát triển lực 
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Trong quá trình tiến hành cần phải đưa con người lên vị trí trung tâm 
đặc biệt là con người lao động. Đối với các nước đang phát triển, để  xây 
dựng một nền kinh tế  mạnh bền vững, không thể  chỉ  dựa vào vay mượn 
hay bỏ tiền ra mua công nghệ của nước ngoài mà phải dựa trên cơ sở khả 
năng, trí tuệ, phảI bằng tư tưởng văn hoá của mình mới có thể  biến công 
nghệ hiện đại của thế giới thành cái cuả mình.
Không   thể   dựa   trên   vài   nguồn   tài   nguyên   thiên   nhiên   hay   vào   số 
lượng những mỏ than, giếng dầu, đồn điền cao su hay ruộng đồng có sẵn  
mà phải biết phát huy yếu tố con người. Đây cũng là bài học rút ra từ thực  
tiễn của nhiều nước trên thế  giới có kinh tế  phát triển như: Nhật, Hàn 
Quốc, Đài Loan, Hồng Kông. . . phát triển con người trở thành xu thế khách 
quan trong xã hội hiện đại, là cơ sở  tiền đề  và thước đo cho sự  phát triển 
của mỗi quốc gia. Đây là chuyên đề rộng lớn và toàn diện bao trùm toàn bộ 
sự phát triển xoay quanh con người.
Nếu ta coi phát triển con người là một mục tiêu đầu tiên, là động lực 
căn bản để phát triển xã hội, lấy việc nâng cao mặt bằng dân trí và đào tạo 
bồi dưỡng nguồn nhân lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển 
và xem đó là nhân tố quyết định tháng lợi của sự  nghiệp công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá.
Hình thái kinh tế  xã hội của tất cả  thành phần kinh tế  trong đó nhà 
nước đóng vai trò chủ  đạo, cán bộ  và công chức nhà nước nói chung, cán  

23
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


                                                                                          Tiểu luận: Triết 

học
bộ  kỹ  thuật, cán bộ  quản lý kinh tế  nói riêng là phương pháp chủ  yếu và 
quyết định.
Đại hội lần thứ IX đã xây dựng một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính 
trị vững vàng thành thạo chuyên môn nghiệp vụ có khả năng và trình độ để 
đáp  ứng nhu cầu của tình hình nhiệm vụ  trong thời kỳ mới ­ thời kỳ đẩy 
mạnh nền kinh tế 
Trong quá trình tiến hành cách mạng cũng có những thuận lợi nhưng 
bên cạnh đó có rất nhiều khó khăn đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn nhận  
và phương pháp khoa học sáng tạo, phải có quan điểm khách quan toàn 
diện phát triển. 
Chúng ta phải luôn luôn đề  cao vai trò của hình thái kinh tế  lấy chủ 
nghĩa mác Lênin   và tư  tưởng Hồ  Chí Minh làm nền tảng tư  tưởng của  
Đảng làm kim chỉ nam cho công nghiệp ta, cho cách mạng nước ta, cho dân 
tộc, phát triển đổi mới kinh tế tư duy ở nước ta, đưa nước ta lên con đường 
xã hội chủ nghĩa.
Một điều quan trọng nữa là phải khắc phục một số  tư  tưởng hữu  
khuynh không tiến hành cách mạng, tả  khuynh chủ  quan nóng vội, duy ý 
chí. Bệnh chủ quan, duy ý chí là sai lầm khá phổ biến ở nước ta và ở nhiều 
nước xã hội chủ nghĩa trước đây, gây tác hại nghiêm trọng với xây dựng xã 
hội chủ nghĩa.
Sai lầm  ở  lối suy nghĩ và hình thức giản đơn nóng vội, chạy theo 
nguyện vọng chủ quan thể hiện trong một số chủ trương và chính sách xã  
hội  với hiện thực khách quan. Để  khắc phục chúng ta cần sử  dụng đồng  
bộ  nhiều biện pháp, trước hết là đổi mới tư duy nâng cao nhân lực trí tuệ 
trình độ  lý luận của Đảng. Trong hoạt động trực tiếp phải tôn trọng và 
hành động theo quy luật khách quan. Phải đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới 
24
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4



                                                                                          Tiểu luận: Triết 
học
tổ  chức và phương hướng hoạt động của hệ  thống chính trị, chống bảo 
thủ, trì trệ quan liêu.
Song để  làm được tất cả  những chính sách đề  ra, phải có một Nhà 
nước chuyên chính vô sản, một nhà nước thực sự của dân do dân và vì dân.
+ Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là nền tảng chính của mọi quốc 
gia trên thế giới vì nó chính là nền tảng kinh tế ­ xã hội của mọi nước, mà  
trong đó những yếu tố để hình thành nên hình thái kinh tế ­ xã hội bao gồm 
lực lượng sản xuất , quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng, sinh hoạt,  
văn hoá xã hội ... là nhân tố chính của hình thái kinh tế xã hội .
+ Việc sản xuất ra của cải vật chất là tất yếu  và cần thiết của mọi  
dân tộc, mà muốn sản xuất ra của cải vật chất lại  phải có  lực lượng sản  
xuất . Lực lượng sản xuất là nhân tố  chính của sản xuất vật chất và biểu 
hiện quan hệ  giữa người với người trong giới tự nhiên. Trình độ  của lực 
lượng sản xuất  thể hiện trình độ  chinh phục tự  nhiên của loài người của 
năng lực thực tiễn  của con người. Lực lượng sản xuất làm ra tư liệu sản  
xuất cho xã hội, từ    lực lượng sản xuất này sẽ  nảy sinh ra quan hệ  sản  
xuất là quan lệ giữa người và người trong quá trình sản xuất, và cũng thuộc 
lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội, tư  liệu lao động là xương cốt bắp  
thịt của sản xuất, trong quá trình lao động thì công cụ  lao động luôn được 
cải tiến. Trong các quy luật khách quan chi phối sự  vận động phát triển 
của các  hình thái kinh tế­ xã hội thì quy luật về  sự  phù hợp của quan hệ 
sản xuất với tính chất và trình độ  của lực lượng sản xuất có vai trò quyết 
định nhất. Từ  lực lượng sản xuất sẽ  hình thành nên một tổng thể  đó là  
kiến trúc thượng tầng  bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, 
những thiết chế  tương  ứng và những quan hệ    nội tại   của thượng tầng  
hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định và đều có đặc điểm riêng, có  

quy luật phát triển riêng nhưng không tồn tại tác rời nhau mà liên hệ  tác  
25
Sinh viên: ALu Lao Ly                                                      L
ớp CH ­ 2006. B4


×