Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tiểu luận Triết học số 119

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.02 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU

Trong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình muôn 
vẻ, con người dần dần nhận thức được tính trật tự  và mối liên hệ có tính 
lặp lại  của các hiện tượng, từ  đó hình thành nên khái niệm “quy luật”.  
Với tư  cách  là phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm “quy luật” là  
sản phẩm của tư duy khoa học, phản ánh sự liên hệ của các sự vật và tính 
chỉnh thể của chúng.
Các quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của tư duy con người  
đều mang tính khách quan. Con người không thể  tạo ra hoặc tự ý xoá bó 
được quy luật mà chỉ nhận thức và vận dụng nó trong thực tiễn.
Quy luật “từ những thay đổi về  lượng dẫn đến  sự  thay đổi về  chất 
và ngược lại” là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó 
cho biết phương thức của sự  vận động, phát triển. Nhận thức được quy 
luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn khi chúng ta 
xem xét các sự  vật, hiện tượng. Nếu nhận thức không đúng quy luật này 
sẽ  dẫn đến tư  tưởng tả  khuynh, hữu khuynh. Tả  khuynh là phủ  nhận sự 
tích luỹ  về  lượng, muốn có ngay sự  thay đổi về  chất, còn hữu khuynh là  
khi chất đã biến đổi vượt quá giới hạn độ nhưng không dám thực hiện  sự 
thay đổi căn bản về chất.
Nước  ta  đang quá độ  lên CNXH, bỏ  qua giai  đoạn phát triển của 
CNTB, việc nhận thức đúng đắn quy luật  lượng­ chất sẽ có ý nghĩa rất 
lớn trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng  
XHCN.

1


Trong phạm vi của tiểu luận này, tôi xin được trình bày nhứng cơ  sở 
lý luận chung về nội dung của quy luật lượng­ chất, trên cơ sở đó rút ra ý  
nghĩa thực tiễn của việc nhận thức quy luật này, sự  vận dụng quy luật 


này để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam.
"Phân tích nội dung qui luật từ  những thay  đổi về  lượng dẫn  
đến sự  thay đổi về  chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng 
vào trong hoạt động thực tiễn của anh chị vào trong hoạt động thực 
tiễn" 
Kết cấu của tiểu luận gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Phần I: Những   vấn đề  lý luận của quy luật, từ  những thay đổi về 
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại.
Phần II: Vận dụng vào quá trình hình thành và phát triển kinh tế  thị 
trường định hướng XHCN ở Việt nam.
Phần Kết luận.
Do trình độ nhận thức về vấn đề  này nên tiểu luận không tránh khỏi  
những thiếu sót, rất mong nhận được những nhận xét góp ý của cô giáo.

2


PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ  LÝ LUẬN CỦA QUY LUẬT TỪ NHỮNG THAY ĐỔI 
VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI

Quy luật những thay đổi về  lượng dẫn đến sự  thay đổi về  chất và 
ngược lại là một trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy 
vật. Quy luật này chỉ rõ tính chất và cách thức của sự phát triển.
1­ Các khái niệm
1.1­ Khái niệm về chất
Chất là tính quy định vốn có của sự  vật  hiện tượng được biểu hiện 
thông qua các thuộc tính và đặc điểm  cấu trúc của sự  vật. Tính quy định  
là cái vốn có của sự  vật, hiện tượng để  phân biệt sự  vật này với sự  vật 

khác. Tính quy định này được thể hiện thông qua  các thuộc tính. Có thuộc  
tính cơ bản và không cơ bản. Thuộc tính cơ bản quy định chất của sự vật.  
Nếu thuộc tính cơ bản mất đi thì chất của sự vật thay đổi. Còn thuộc tính  
không cơ bản  thì trong quá trình tồn tại  của sự vật, có những thuộc tính 
không cơ  bản  mới nảy sinh vàcó những thuộc tính không cơ  bản mất đi 
3


nhưng chất của sự  vật không thay đổi. Thuộc tính chỉ  bộc lộ  thông qua 
quan hệ với sự vật khác.
Trong sự vật, hiện tượng, chất không tách rời với lượng
1.2­Lượng của sự vật
Là tính quy định vốn có của sự  vật, hiện tượng, chỉ  rõ về  mặt quy 
mô, tốc độ, trình độ  phát triển của sự vật, hiện tượng. Nói đến lượng sự 
vật tức là sự vật đó lớn hay bé, tốc độ phát triển nhanh hay chậm, trình độ 
cao hay thấp..v..v..đo bằng các đại lượng cụ  thể, bằng số  tuyệt đối như 
trong lượng, thể tích hoặc so sánh với vật thể  khác, thời kỳ  này với thời  
kỳ khác.
Ví dụ  tốc độ  của ánh sáng là 300.000km/giây, một cái bàn có chiều  
cao 80 phân, một nước có 50 triệu dân..v..v
1.3­ Khái niệm về Độ
Độ  là giới hạn mà trong đó lượng biến đổi chưa gây nên sự  thay đổi 
căn bản  về  chất. Sự  vật vẫn là nó, mọi sự  vật hiện tượng đều tồn tại  
trong một độ thích hợp khi lượng biến đổi vượt quá giới hạn độ thì sự vật 
không còn là nó.
Trong phạm vi một độ nhất định hai mặt chất và lượng tác động qua  
lại lẫn nhau làm cho sự vật vận động. Mọi sự  thay đổi về  lượng đều có 
ảnh hưởng đến trạng thái chất của sự vật, nhưng không phải những thay  
đổi về  lượng nào cũng dẫn đến thay đổi về  chất. Chỉ  trong trường hợp 
khi sự  thay đổi về  lượng đạt tới mức phá vỡ  độ  cũ thì chất của sự  vật 

mới thay đổi, sự vật chuyển thành sự vật khác.
1.4­Điểm nút  

4


Là điểm mà tại đó lượng biến đổi đã gây nên sự thay đổi căn bản, tập 
hợp những điểm nút gọi là đường nút.
1­5­Bước nhảy
Sự thay đổi căn bản về chất, cái cũ mất đi cái mới ra đời phải thông 
qua bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi căn bản 
từ chất sự vật này sang chất của sự vật khác.
+ Bước nhảy đốt biến là bước nhảy xảy ra trong thời gian ngắn làm 
thay đổi bản chất của sự vật. Bước nhảy này diễn ra bằng  một sự bùng  
nổ mãnh liệt. VD cách mạng tháng Mười Nga là một bước nhảy đột biến.
+ Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện  bằng việc loại 
bỏ dần  những yếu tố, những bộ phận chất cũ xảy ra trong một thời gian  
dài mới loại bỏ hoàn toàn chất cũ thành chất mới.
2­ Nội dung quy luật từ  những thay đổi dần về  lượng dấn đến 
sự thay đổi về chất và ngược lại.
Sự  phát triển của mọi sự  vật, hiện tượng trong tự  nhiên và xã hội 
cũng như sự phát triển nhận thức tư duy con người đều đi từ sự  thay đổi 
dần về lượng được tích luỹ lại khi vượt quá giới hạn độ  tới điểm nút thì 
thì gây nên sự  thay đổi căn bản về chất. Sự vật cũ mất đi, sự  vật mới ra  
đời thay thế.
Sở  dĩ như  vậy là vì chất và lượng là hai mặt đối lập vốn có của sự 
vật hiện tượng. Lượng thì thường xuyên biến đổi, còn chất tương đối ổn  
định. Do đó sự  phát triển của lượng tới một lúc nào đó thì mâu thuẫn với 
chất cũ. Khi chất cũ kìm hãm thì qua đó nảy sinh yêu cầu tất yếu phải phá 


5


vỡ  chất cũ, mở  ra một độ  mới để  mở  đường cho lượng phát triển. Sự 
chuyển hoá từ những thay đổi  về lượng dẫn đến những thay đổi vê chất,  
diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Quy luật này còn có chiều ngược lại, tức là không chỉ  thay đổi về 
lượng dẫn đến thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời do sự biến đổi  
về lượng gây nên thì chất đó lại quy định sự biến đổi về lượng, ảnh hởng  
của chất mới đến lượng thể hiện ở quy mô, mức độ, nhịp điệu phát triển  
mới.
Nội dung duy luật này được phát biểu như sau
Mọi sự  vật hiện tượng dều vận động, phát triển bằng cách thay đổi  
dần về lượng, lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn tại của 
sự vật tới điểm nút thì diễn ra bước nhảy, tạo sự thay đổi về chất của sự 
vật. Kết quả là sự vật cũ, chất cũ mất đi và sự  vật mới, chất mới ra đời. 
Chất mới lại tác động trở lại lượng mới, lượng mới lại tiếp tục thay đổi 
dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ  tồn tại của sự  vật tới điểm nút  thì lại 
diễn ra bước nhảy tạo sự  thay đổi về  chất, cứ  như  vậy sự  tác động qua 
lại giữa hai mặt chất và lượng tạo ra con đường vận động, phát triển 
không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng.

6


Điều cần chú ý  là:
­Quy luật này chỉ   được  thể  hiện trong mối quan hệ  giữa chất và 
lượng hoàn toàn xác định, mối quan hệ  này hình thành một cách khách 
quan chứ không thể gán ghép một cách tuỳ tiện. đồng thời sự chuyển hoá 

lượng và chất bao giờ cũng phụ thuộc vào những điều kiện nhất định.
­Quy luật lượng­chất được vận dụng trong xã hội thể  hiện  ở  mối  
quan hệ  giữa tiến hoá và cách mạng. Trong sự  phát triển của xã hội, sự 
thay đổi dần về lượng gọi là tiến hoá, còn sự thay đổi về chất theo hướng  
tiến hoá lên gọi là cách mạng, tiến hoá chuẩn bị  cho cách mạng. Trong 
giai đoạn tiến hoá, chế  độ  xã hội chưa có sự  thay đổi căn bản về  chất,  
còn cách mạng là kết quả của quá trình tiến hoá, chấm dứt một quá trình 
này, mở ra một quá trình tiến hoá mới cao hơn, chế độ xã hội cũ bị xoá bỏ,  
chế độ xã hội mới ra đời thay thế. Cách mạng xã hội là phương thức thay  
thế  xã hội này bằng xã hội khác, bạo lực là hình thức cơ  bản của cách  
mạng.
3­ Ý nghĩa phương pháp luận
­Trong hoạt động nhận thức thực tiễn, cần phải coi trọng quá trình  
tích luỹ  về  lượng, nếu không coi trọng quá trình này thì sự  không có sự 
biến đổi về chất.
­Quy luật này có chiều ngược lại, chất mới ra đời thì làm biến đổi tốc 
độ, quy mô lượng mới. Cho nên khi chất mới ra đời phải biết xác định tốc  
độ, quy mô phát triển về lượng cho thích hợp, không được bảo thủ, dừng  
lại
­Cần phải chống quan điểm tả  khuynh, hữu khuynh. Tả  khuynh là  
phủ  nhận tích luỹ  về  lượng muốn có ngay sự  thay đổi về  chất, còn hữu  
7


khuynh là  thì  ngược  lạikhi lượng  biến  đổi  đã  tới  vượt  quá   độ  nhưng  
không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về chất.

PHẦN II
VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ 
TRƯỜNG ĐỊNH  HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM


1­Tính tất yếu khách quan của kinh tế  thị  trường định hướng  
CNXH ở nước ta
Kinh tế  thị  trường định hướng XHCNthực chất là phát triển nền 
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự 
quản lý của Nhà nước  theo định hướng XHCN nhưng được diến đạt gọn 
hơn, nói rõ được mô hình hinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá  
độ.
Nói nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh  
tế của chúng ta không phải là kinh tế hiện vật, tự cấp, tự túc, quản lý theo  
kiểu  tập trung, quan liêu, bao cấp. Nhưng đó cũng không phải là nền kinh 
tế thị trường tự do theo cách nói của tư bản, tức là không phải nền kinh tế 
thị trường TBCN, và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN, còn  
có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có lại vừa chưa có 
đầy đủ các yếu tố CNXH.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một tất 
yếu khách quan. Bởi vì.
8


­ Kinh tế thị trường định hướng XHCN là kết quả của sự nhận thức  
và vận dụng quy luật vè sự  phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất  
và trình độ  của lực lượng sản xuất. Cùng với CNH, HĐH đất nước, nền 
kinh tế  thị  trường định hướng XHCN là con đường kinh tế  cơ  bản đưa 
nước ta quá độ lên CNXH.
­ Nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, là thời kỳ đang thực hiện 
hoá dần dần CNXH, thời kỳ  xuất hiện nhiều hình thức kinh tế  quá độ, 
vừa có CNXH vừa còn CNTB. Chủ  trương xây dựng kinh tế  thị  trường  
định hướng XHCN là phù hợp với bản chất của thời kỳ lịch sử đặc biệt  
này.

­ Chúng ta đã biết thời kỳ  quá độ  là một thời kỳ  lịch sử  đặc biệt, 
trong đó kết cấu kinh tế ­ xã hội vừa bao hàm những yếu tố của xã hội cũ 
đang suy thoái dần, vừa bao hàm những yếu tố của xã hội mới ra đời đang  
lớn lên từng bước nhưng chưa dành toàn thắng.
Thời kỳ  quá độ  là thời kỳ  mà xã hội đang chuyển từ  chế  độ  này 
sang chế độ khác, ở đó chưa có phương thức sản xuất nào  giữ vị trí thống  
trị  tuyệt  đối, trong  đó  mỗi phương  thức   chỉ  là một “mảnh” một “bộ 
phận” của kết cấu kinh tế xã hội, vừa độc lập tương đối, vừa hợp tác và 
đấu tranh với nhau. Mỗi “mảnh”, mỗi “bộ  phận”  ấy là một thành phần 
kinh tế.
Thành phần kinh tế khác phương thức sản xuất  ở  chỗ  khi nó chưa  
vươn lên đóng vai trò thống trị, nhưng cũng không ở vào vị trí chi phối, nó  
tồn tại như một bộ phận tương đối độc lập, đan xen với các bộ phận khác 
của kết cấu kinh tế­xã hội. Do vậy, nền kinh tế nhiều thành phần là đặc  
trưng riêng có của thời kỳ quá độ lên CNXH.

9


Phát triển kinh tế  thị  trường định hướng XHCN chính là thực hiện 
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế  hàng hoá nhiều thành 
phần, qua đó tiềm năng của các thành phần kinh tế được khai thác để phát  
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ  sở  vật chất kỹ  thuật của CNXH,  
nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo xây dựng thành công CNXH.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất  
yếu khách quan, là sự nhận thức đúng đắn quy luật từ những thay đổi về 
lượng sẽ  dẫn đến sự  thay đổi về  chất và ngược lại. Điều đó có nghĩa là  
khi chúng cha chưa tích luỹ  được đầy đủ  những điều kiện vật chất cho 
CNXH thì chúng ta chưa thể nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất  XHCN  
ngay như trước năm 1986 chúng ta đã làm, mà chúng ta phải tiến hành dần  

dần, hay nói cách khác, chúng ta phải có một thời kỳ quá độ.
2­Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được sau 15 năm đổi 
mới.
Sau năm 1975 khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH,  
chúng ta đã nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ  sản xuất một thành 
phần   dựa trên cơ  sở  công hữu XHCN về  tư  liệu sản xuất, mọi thành  
phần kinh tế  khác bị  coi là  bộ  phận đối lập với kinh tế  XHCN, vì vậy  
nằm trong diện phải cải tạo, xoá bỏ, làm như vậy là chúng ta đã đẩy quan  
hệ  sản xuất đi quá xa so với trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất, 
tạo ra mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp kém với một  
bên là quan hệ  sản xuất được xã hội hoá giả  tạo, dẫn đến kìm hãm sự 
phát triển của lực lượng sản xuất, hay nói cách khác khi lực lượng sản 
xuất của chúng ta còn quá thấp kém chưa tích luỹ đủ  về lượng (tính chất  
và trình độ) đã vội vã thay đổi chất (quan hệ sản xuất XHCN) làm cho đất 
nước lâm vào tình trang khủng hoảng kinh tế – xã hội.
10


Từ  đại hội VI của đảng cộng sản Việt nam đến nay, khắc phục sai 
lầm trên chúng ta thực hiện xây dựng nền kinh tế  hàng hoá nhiều thành 
phần, xuất phát từ tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nước ta là  
đa dạng, không đồng đều và chưa cao.
Thực tiễn sau 15 năm đổi mới đã khẳng định chủ  trương xây dựng 
kinh tế nhiều thành phần là phù  họp với phát triển lực lượng sản xuất ở 
nước ta. Nó đã thực sự giải phóng , phát triển và khơi dậy các tiềm năng  
của sản xuất. Khơi dậy năng lực sáng tạo chủ động của các chủ thể kinh  
tế  trong sản xuất đưa nước ta ra khỏi thời kỳ  khủng hoảng kinh tế­ xã 
hội.

PHẦN KẾT LUẬN


Như  vậy, lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự 
vật, chỉ  khi nào lượng được tích luỹ  tới một độ  nhất định mới làm thay 
đổi về  chất, nên trong chỉ  đạo hoạt động thực tiễn cũng như  trong nhận 
thực khoa học   phải chú ý tích luỹ  dần dần những thay đổi về  lượng, 
đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp thời những bước nhảy khi  
có điều kiện chín muồi.
Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH chính là bước nhảy dần dần từ 
chất cũ sang chất mới. Trong quá trình tiến hoá cách mạng, một mặt  phải 
11


chống khuynh hướng bảo thủ, trị  trệ, nhằm tạo ra những bước nhảy để 
đẩy nhanh sự  phát triển, mặt khác, lại phải chống tư  tưởng nóng vội,  
muốn đưa nhanh sự  phát triển, tiến hành những bước nhảy khi chưa có  
điều kiện  chín muồi, bất chấp những quy luật khách quan.

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình triết học Mác ­ Lênin
2. Nghị quyết đại hội Đảng lần 8 ­ 9
3. Vận dụng nghị quyết 9.
4. Tạp chí cộng sản. 

13




×