Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
-------------
MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN TU TỪ VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ
TRONG CA DAO RU CON CỦA NGƯỜI VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60.22.01.02
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Hiên
HẢI PHÒNG, NĂM 2017
Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, với những
biện luận, quan điểm độc lập. Các số liệu khảo sát, kết quả nêu trong luận văn
này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào
khác. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hải Phòng, ngày 6 tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn
Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình theo học ngành cao học Ngôn ngữ học Việt Nam
tại Trường Đại học Hải Phòng, đặc biệt là khoảng thời gian thực hiện luận
văn tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự giúp đỡ hết lòng từ gia đình, thầy cô và
bạn bè. Vì vậy, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
Gia đình tôi, hậu phương luôn đứng bên tôi trong những phút khó khăn
để hoàn thành được luận văn.
Các thầy, cô giảng dạy chuyên ngành Ngôn ngữ học Việt Nam khóa 6
tại Trường Đại học Hải Phòng, những người đã dành tâm sức tận tình hướng
dẫn tôi.
Cô giáo, tiến sĩ Nguyễn Thị Hiên, người đã tận tâm hướng dẫn, động
viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin kính chúc sức khỏe tới quí thầy cô, gia đình và các
anh chị học viên.
Hải Phòng, ngày 6 tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC........................................................................................................iii
DANH MỤC BẢNG......................................................................................... v
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU. 11
1.1. Khái quát về phương tiện tu từ và biện pháp tu từ .................................. 11
1.1.1. Phương tiện tu từ................................................................................... 11
1.1.2. Biện pháp tu từ ...................................................................................... 11
1.1.3. Mối quan hệ giữa phương tiện tu từ với biện pháp tu từ ...................... 13
1.2. Phương tiện tu từ từ vựng và tu từ ngữ nghĩa.......................................... 14
1.2.1. Phương tiện tu từ từ vựng ..................................................................... 14
1.2.2. Phương tiện tu từ ngữ nghĩa.................................................................. 20
1.3. Biện pháp tu từ ngữ nghĩa và tu từ cú pháp ............................................. 24
1.3.1. Biện pháp tu từ ngữ nghĩa..................................................................... 24
1.3.2. Biện pháp tu từ cú pháp ........................................................................ 26
1.4 . Khái quát về ca dao ru con và tu từ nghệ thuật trong ca dao ru con....... 30
1.4.1. Vài nét về ca dao và ca dao ru con người Việt ..................................... 30
1.4.2. Tu từ nghệ thuật trong ca dao ru con .................................................... 36
CHƯƠNG 2.MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN TU TỪ TRONG CA DAO RU CON.. 42
2.1. Phương tiện tu từ từ vựng ........................................................................ 42
2.1.1. Từ thi ca ............................................................................................... 43
2.1.2. Từ Hán Việt.......................................................................................... 46
2.1.3. Từ nghề nghiệp ..................................................................................... 53
2.1.4. Từ địa phương ....................................................................................... 55
2.1.5. Từ láy .................................................................................................... 58
2.2. Phương tiện tu từ ngữ nghĩa..................................................................... 61
iv
2.2.1. Ẩn dụ..................................................................................................... 62
2.2.2. Nhân hoá ............................................................................................... 69
2.2.3. Phóng đại............................................................................................... 72
CHƯƠNG 3.MỘT SỐ BIỆN PHÁP TU TỪ TRONG CA DAO RU CON .. 79
3.1. Một số biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong ca dao ru con ............................ 79
3.1.1. So sánh .................................................................................................. 80
3.1.2. Chơi chữ................................................................................................ 86
3.2. Một số biện pháp tu từ cú pháp trong ca dao ru con................................ 91
3.2.1. Sóng đôi ................................................................................................ 92
3.2. 2. Biện pháp lặp........................................................................................ 95
3.2.3. Câu hỏi tu từ.......................................................................................... 98
KẾT LUẬN ................................................................................................... 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 106
PHỤ LỤC ............................................................................................................
v
DANH MỤC BẢNG
Số liệu bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Thống kê các phương tiện tu từ từ vựng trong ca dao ru con
42
2. 2
Thống kê phương tiện tu từ ngữ nghĩa trong ca dao ru con
61
2. 3
Thống kê một số biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong ca dao ru con
79
2. 4
Thống kê một số biện pháp tu từ cú pháp trong ca dao ru con
91
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian của người Việt
được sáng tạo qua nhiều người thuộc nhiều thế hệ, thời đại khác nhau. Ca dao
Việt Nam là lời ăn tiếng nói của nhân dân ta đã khắc sâu trong tâm trí con
người Việt Nam từ xưa tới nay. Ca dao có một sức hấp dẫn đặc biệt với người
đọc qua nhiều thế hệ bởi cách thể hiện tình cảm ý nhị và sâu sắc. Ca dao phản
ánh muôn mặt cuộc sống lao động sản xuất của chính những người sáng tạo ra
nó, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, khát vọng tình yêu lứa đôi, tình cảm và
ứng xử của con người trong cuộc sống với thế giới xung quanh. Trong ca dao
của người Việt có một mảng thường được những người lớn sử dụng để hát ru
con (mà có thể gọi là ca dao hát ru con). Với người Việt, ca dao ru con như
một kí ức trẻ thơ mà không ai có thể quên trong kí ức của mình, qua lời ru
của các bà, các mẹ hình ảnh vầng trăng, cánh cò, dòng sông, cánh đồng, lũy
tre làng nó đã được in sâu vào tâm hồn trẻ thơ. Bằng những lời ru êm ả tha
thiết của bà, của mẹ đã gieo vào tâm thức tuổi thơ những kí ức và những hình
ảnh tốt lành về lòng nhân ái, đạo lí làm người, tình yêu quê hương đất nước.
Sau này khi lớn lên chắc hẳn mỗi chúng ta không thể quên được những lời ca
dao ru con đó.
Việc nghiên cứu ca dao ru con để tìm cách bảo tồn, phát huy vai trò của
nó trong xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một điều
hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, nghiên cứu ca dao ru con cũng là hành trình
trở về với cội nguồn dân tộc để tìm hiểu tâm hồn, văn hóa dân tộc Việt. Được
thử thách qua không gian thời gian và lòng người đọc, được gọt giũa bởi hàng
ngàn nhà thơ dân gian, ca dao ru con của người việt đã trở thành viên ngọc
óng ánh trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Có thể nói hàng ngàn thế
hệ người Việt Nam không ai không thuộc ít nhất hơn một số câu ca dao ru
con. Điều đó đủ cho ta thấy ca dao ru con của người Việt đã đi sâu vào đời
sống tinh thần, tâm hồn của người dân đất Việt. Ca dao đã vận dụng mọi khả
2
năng ngôn ngữ dân tộc để biểu hiện một cách chính xác tinh tế cuộc sống và
hơn thế nữa để biểu hiện một cách sinh động và đầy đủ hình tượng nguyện
vọng của nhân dân về cuộc sống.
Ca dao ru con là mảng sáng tác không nhỏ của ca dao Việt Nam. Ca
dao ru con có hàng trăm bài dài ngắn khác nhau, thể hiện mọi cung bậc sắc
thái tình cảm của những bậc ông bà, cha mẹ muốn gửi gắm tình cảm, khát
vọng của mình vào trẻ thơ và mong muốn con cháu trở thành những người có
ích cho xã hội. Đó là những tình cảm thắm thiết, là niềm mơ ước, là khát
vọng, là nỗi nhớ, hay thậm chí là cả những oán trách, giận hờn, những thở
than, những xót xa cay đắng, những nuối tiếc muộn màng và mong muốn trao
lời yêu thương cho con trẻ… Vốn là sáng tác tập thể nên ở từng địa phương,
trong mỗi hoàn cảnh, với mỗi đối tượng tiếp cận, ca dao nói chung và những
bài ca dao ru con nói riêng lại có những hướng tiếp cận khác nhau không thể
quy vào một mô hình hay công thức cứng nhắc đơn giản được. Chính điều
này cũng tạo nên vẻ đẹp muôn màu của ca dao khi nó được soi chiếu từ nhiều
góc độ khác nhau của các hướng tiếp cận nghiên cứu.
Đến nay có khá nhiều công trình nghiên cứu về ca dao, song các công
trình đó chủ yếu nghiên cứu ở góc độ văn học chứ chưa có công trình nghiên
cứu nào tìm hiểu một cách chi tiết về cách sử dụng các biện pháp tu từ ngữ
nghĩa và cú pháp trong ca dao ru con. Nếu có, chỉ dừng lại ở sự liệt kê khái
quát. Khi đi vào nghiên cứu đề tài này, người viết hi vọng sẽ góp phần vào
việc tìm hiểu loại hình văn học này từ phương diện ngôn ngữ học.
Là một người theo học nghành sư phạm, hiện nay là giáo viên giảng
dạy trong nhà trường, tác giả luận văn muốn thông qua việc tìm hiểu về ca
dao ru con của người Việt, góp phần bồi dưỡng tâm hồn và ý thức giữ gìn,
phát huy truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ, đặc biệt là các em học sinh đang
ngồi trên ghế nhà trường luôn cảm nhận được cái hay, cái đẹp từ những bài ca
dao ru con của người Việt.
3
Với những lí do trên, người viết lựa chọn đề tài: “Một số phương tiện tu từ
và biện pháp tu từ trong ca dao ru con của người Việt” làm nội dung nghiên
cứu cho luận văn của mình nhằm góp thêm tiếng nói khẳng định giá trị của ca dao
nói chung, ca dao ru con nói riêng của người Việt từ góc nhìn tu từ học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về ca dao nói chung, từ trước tới nay đã có không ít công
trình có giá trị tiếp cận từ các góc độ và phương diện khác nhau như: thi pháp,
thể thơ, kết cấu, thời gian và không gian nghệ thuật, hình ảnh biểu tượng, biện
pháp nghệ thuật, đặc điểm ngôn ngữ,…
2.1. Một số kết quả nghiên cứu về ca dao
2.1.1. Nghiên cứu về ca dao từ phương diện văn học dân gian
Cũng như các thể loại văn học dân gian khác, ca dao được quan tâm
tìm hiểu, nghiên cứu trước hết từ phương diện văn học- văn học dân gian. Ta
có thể điểm qua một số công trình sưu tầm, tổng hợp và nghiên cứu về ca dao
tiêu biểu như: Văn học dân gian Việt Nam (1997) của Đinh Gia Khánh (chủ
biên), Tục ngữ ca dao dân ca (2007) của Vũ Ngọc Phan, Thi pháp ca dao của
Nguyễn Xuân Kính, Bình giảng ca dao của Nguyễn Tiến Tựu, Thế giới nghệ
thuật trong ca dao của Phạm Thu Yến (1998), Đặc điểm nhân vật trữ tình
trong ca dao cổ truyền Việt Nam (2002) của Trần Thanh Vân, Kho tàng ca
dao người Việt (1995) của Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (chủ biên)
gồm 4 tập, Tục ngữ ca dao Việt Nam (2007) của Mã Giang Lân trong Ca dao
và những lời bình.
Những công trình trên chủ yếu nghiên cứu ca dao ở góc độ văn học,
mặc dù các nhà nghiên cứu cũng có đề cập ít nhiều đến đặc điểm ngôn ngữ ca
dao về vấn đề tu từ ngữ âm và từ vựng nhưng chỉ mang tính nhận xét khái
quát mà không đi sâu nghiên cứu chuyên biệt.
2.1.2. Nghiên cứu ca dao từ phương diện ngôn ngữ học
Xét về phương diện ngôn ngữ học, việc nghiên cứu ca dao từ trước đến
nay thường đi theo những xu hướng nghiên cứu chính như sau:
4
- Nghiên cứu đặc điểm chung của ngôn ngữ ca dao. Có thể thấy điều
này trong các công trình, bài viết như: Một số đặc điểm của ngôn ngữ ca dao
dân ca Nam Bộ (1984) của Bùi Mạnh Nhị, Ngôn ngữ của người Nam Bộ
trong ca dao dân ca(1999) của Nguyễn Thế Truyền. Những bài viết đó đem
đến cho người đọc cái nhìn tổng quan về ngôn ngữ ca dao dân ca Nam Bộ,
đồng thời là những thành tựu ban đầu khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa
ngôn ngữ địa phương với văn hóa qua ngôn ngữ ca dao dân ca Nam Bộ.
Ngoài ra, còn có thể thấy ở bài viết Thế giới sắc màu trong ca dao (2009) của
Trần Văn Sáng; Ngôn ngữ ca dao Việt Nam (1991) của Mai Ngọc Chừ; hay
Về phân tích ca dao- dân ca (2004) của Nguyễn Thanh Du. Chính tác giả Mai
Ngọc Chừ cho rằng: “Ngôn ngữ ca dao có cả những đặc điểm tinh túy của
văn học đồng thời còn là sự vận dụng linh hoạt tài tình có hiệu quả của ngôn
ngữ chung, ngôn ngữ hội thoại vào một loại ngôn ngữ truyền miệng. Sự kết
hợp giữa ngôn ngữ nói, ngôn ngữ hội thoại với ngôn ngữ văn học tạo nên
những đặc điểm riêng biệt độc đáo của ca dao”. Trong luận án tiến sĩ Ngữ
văn Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt (2005), tác giả Lê Đức Luận đã vận
dụng lí thuyết cấu trúc của hệ thống ngôn ngữ để chỉ ra đặc trưng cơ bản về
cấu trúc hình thức và nội dung của hệ thống các cấp độ ngôn ngữ trong ca dao
người Việt.
- Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ ca dao từ góc nhìn dụng học. Đây là
một xu hướng mới nổi lên trong vài chục năm trở lại đây. Về cơ bản, việc
nghiên cứu chủ yếu được thực hiện dưới dạng những bài viết, luận văn, luận
án … mà chưa có một công trình nghiên cứu tổng thể về bình diện dụng học
của ca dao Việt Nam nói chung. Có thể kể đến một số bài viết, bài nghiên cứu
tiêu biểu như: “Bài ca dao Tát nước đầu đình từ góc nhìn ngữ dụng học"
đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống số 7, 2004 của nhà nghiên cứu ngôn
ngữ Đỗ Thị Kim Liên. Tác giả đã vận dụng lí thuyết hành động ngôn ngữ và
lí thuyết chiếu vật, chỉ xuất để xác định các hành động nói và vai giao tiếp,
thời gian và không gian trong một bài ca dao. Hay một số công trình, bài viết
5
khác như: Đọc lại hai bài ca dao dưới góc nhìn ngữ dụng học được đăng trên
Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5( 34), 2009 của Bùi
Trọng Ngoãn; luận văn thạc sĩ Hành vi hỏi gián tiếp trong ca dao Việt Nam
(2010) của Tô Lan Phương, trường Đại học sư phạm Hà Nội; Câu phủ định
và hành động phủ định trong ca dao về tình yêu đôi lứa (2010) của Lương
Thị Mơ, trường Đại học sư phạm Hà Nội. Trong luận văn, tác giả khẳng định
câu phủ định và hành động phủ định trong ca dao về tình yêu đôi lứa ít nhiều
chịu sự chi phối của những đặc điểm ca dao nói chung và ca dao tình yêu nói
riêng. Đây là một công trình nghiên cứu có những thành công nhất định trong
việc đem đến cho người đọc cách hiểu và khám phá mới về ngôn ngữ cũng
như cách bộc lộ tình cảm của người bình dân xưa trong sinh hoạt và trong lao
động sản xuất từ góc độ ngữ dụng học.
- Nghiên cứu ca dao trong mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa. Về
xu hướng này, có thể kể đến công trình So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình
dưới góc nhìn ngôn ngữ- văn hóa học (2009) của Hoàng Thị Kim Ngọc. Với
công trình nghiên cứu này, tác giả lại tiếp cận ca dao từ góc nhìn của lí thuyết
giao tiếp ngôn ngữ và phân tích diễn ngôn, xem lối đối đáp giao duyên là một
hình thái đặc biệt của giao tiếp bằng ngôn ngữ. Từ đó tác giả vận dụng các lí
thuyết về so sánh và ẩn dụ của ngôn ngữ học để nghiên cứu ẩn dụ và so sánh
trong ca dao.
2.2. Một số kết quả nghiên cứu về ca dao ru con
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu ca dao nói chung đã thu hút sự
quan tâm chú ý của giời nghiên cứu, phê bình lí luận… Các nhà nghiên cứu
đã tìm hiểu ca dao ở nhiều khía cạnh khác nhau như phân loại, chức năng, nội
dung, hình thức thể hiện, ngôn ngữ, … Tuy nhiên, việc nghiên cứu từng tiểu
loại nhỏ của ca dao, trong đó có ca dao ru con chưa thực sự sâu sắc và có tính
hệ thống. Trong phạm vi nguồn tài liệu mà chúng tôi có được, có thể điểm
qua một số công trình nghiên cứu với nội dung chính của chúng như sau:
6
Trong cuốn “Tìm hiểu ca dao Việt Nam” [28, tr.94] ngoài việc xem xét
phương diện âm nhạc của hát ru (cũng chính là ca dao ru con), nhà nghiên
cứu Phạm Phúc Minh đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh văn hóa của thể loại này.
Theo ông, hát ru là “một lối hát theo tập quán truyền thống và rất phổ biến ở
các vùng dân tộc khắp mọi miền đất nước … Hát ru là tập quán tốt đẹp của
mỗi dân tộc”.
Nhận xét về nội dung của ca dao ru con, nhà nghiên cứu Hoàng Tiến
Tựu cho rằng: “Ngoài nội dung trí thức thông thường và đơn giản về thế giới
tự nhiên và trong đời sống xã hội, ca dao ru con còn hướng trẻ em vào những
đề tài lịch sử, địa lí dưới hình thức những chủ đề tình cảm đạo đức … hoặc là
những lời thở than, nhắn gửi, trách móc xa xôi, bóng gió hướng tới những đối
tượng khác nhau trong gia đình và xã hội” (như chú bác, cô, dì, láng giềng,
quan lại, thậm chí cả vua chúa, thần thánh, trời phật…) [44, tr.155-156].
Bên cạnh nội dung, chức năng của ca dao ru con trong thực tiễn sinh
hoạt cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm chú ý như các tác giả Nguyễn
Tấn Long và Phan Canh trong “Thi ca bình dân Việt Nam”, Hoàng Tiến Tựu
trong “Mấy vấn đề giảng dạy, nghiên cứu văn học dân gian”, Bùi Mạnh Nhị
trong “Văn học dân gian- Những công trình nghiên cứu”, Phạm Thu Yến trong
“Những thế giới nghệ thuật ca dao”… Ở những công trình này, các tác giả có
chung một khẳng định: “Ca dao ru con là phần lời cốt lõi của dân ca ru con.
Dân ca ru con rất giàu chức năng, trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu ru con của
nhân dân. Nhưng ngoài chức năng nguyên thủy, dân ca ru con còn có thêm
chức năng kết hợp như giáo huấn, giải trí, phô diễn tâm tình” [43, tr.132]
Trong số những tài liệu đã sưu tầm được, chúng tôi nhận thấy có hai bộ
giáo trình đã đề cập đến hát ru- ca dao ru con một cách toàn diện hơn cả mặc
dù cũng chưa thật đầy đủ, mới dừng ở mức phát hiện. Một là Giáo trình Văn
học dân gian Việt Nam của các tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ
Quảng Nhơn[20, tr.429]. Trong giáo trình này, các tác giả đã xếp ca dao ru
con vào thể loại dân ca trữ tình sinh hoạt và nhấn mạnh chức năng ru ngủ của
7
hát ru với những hình ảnh ngôn từ tinh tế mà mộc mạc tạo nên những biểu
hiện đa dạng của lời hát ru. Cũng trong giáo trình này, những nội dung biểu
đạt phong phú của ca dao ru con, của hát ru được đề cao. Đó “có thể là những
nhận xét, ý nghĩ, tình cảm thơ ngây của đứa trẻ; có thể là lời tâm tình của
người bà, người mẹ, người chị… Trong khuôn khổ một ý nghĩa thực tiễn nhất
định (hát để ru đứa bé ngủ), hát ru là tiếng lòng của nhân dân lao động Việt
Nam; là nơi gửi gắm những vui, buồn, mơ ước thiết tha nhất; là dịp tỏ thái độ
đối với cuộc sống đau khổ trong xã hội đầy rẫy những bất công, nghèo đói
xưa kia”.
Cuốn thứ hai là Giáo trình văn học dân gian của các tác giả Vũ Anh
Tuấn, Phạm Thu Yến[41, tr.199]. Trong giáo trình này, các tác giả khẳng
định: “Hát ru là biệt loại của ca dao, thường gắn bó chặt chẽ với đời sống
mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi dân tộc”. Từ định nghĩa trên, nhóm tác giả
đã xem xét cụ thể những vấn đề về chức năng, diễn xướng, đề tài, cấu trúc,
thể thơ thường sử dụng trong hát ru. Các nhà nghiên cứu này cho rằng: “Hát
ru là minh chứng rất rõ cho chức năng sinh hoạt thực hành của văn học dân
gian. Nó tồn tại trong cuộc sống với tư cách của một thứ nghệ thuật ích dụng
… Diễn xướng hát ru không qui mô như một số hình thức diễn xướng văn
nghệ dân gian khác mà đơn giản, ấm áp, thấm đẫm tình yêu thương giữa các
thành viên trong gia đình… Đề tài hát ru rất đa dạng…” Ngoài ra, cuốn giáo
trình này cũng bước đầu nêu ra những nhận xét khái quát về cấu trúc của hát
ru (gồm hai phần: phần 1 để đáp ứng chức năng thực hành hát ru bé ngủ; phần
2 thường để bộc lộ tâm trạng của người mẹ, người bà, người chị, …), về
ngôn ngữ hát ru (mộc mạc, giản dị), về thể thơ (chủ yếu là thể thơ lục bát).
Có thể thấy, các nhà nghiên cứu, phê bình đã đề cấp đến ca dao ru con
ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết mới chỉ dừng lại ở những bài
viết, phần viết ngắn, những ý kiến khái quát có tính chất phát hiện về chức
năng, nội dung, diễn xướng hay kết cấu, đặc điểm sử dụng ngôn ngữ chung …
của ca dao ru con mà chưa có một sự nghiên cứu, tìm hiểu nào có tính tổng
8
quát, hệ thống và cụ thể về từng phương diện của ca dao ru con như đối với
các thể loại khác. Đặc biệt, những nghiên cứu chuyên biệt về từng bình diện
ngôn ngữ trong ca dao ru con đến nay vẫn còn rất hạn chế. Vì vậy, với việc
nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc khảo
sát một số văn bản ca dao ru con của người Việt về mặt ngôn ngữ, từ đó phân
tích và làm rõ hơn những đặc điểm và giá trị của ngôn ngữ ca dao ru con trên
phương diện tu từ học.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Nhận diện một cách đầy đủ các phương tiện và biện pháp tu từ được sử
dụng trong ca dao ru con của người Việt, phân tích giá trị biểu đạt; so sánh,
đối chiếu để làm nổi bật những nét riêng, đặc sắc của ca dao ru con.
3.2. Nhiệm vụ.
Để đạt được mục tiêu trên, chúng tôi xác định nhiệm vụ chính của luận
văn là:
- Xác lập, hệ thống hoá những cơ sở lí luận liên quan đến đề tài nghiên cứu;
- Khảo sát các bài ca dao ru con của người Việt trên phương tiện tu từ
và biện pháp tu từ, để thấy được giá trị và hiệu quả biểu đạt của các phương
tiện và biện pháp tu từ đó. Cuối cùng rút ra bài học thực tiễn trong dạy học ca
dao đang đặt ra trong nhà trường hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số phương tiện tu từ và biện
pháp tu từ trong ca dao ru con của người Việt.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong thực tế, để hát ru trẻ, người ru có thể sử dụng hai loại văn bản:
- Loại thứ nhất là những bài ca dao ru con được sáng tác dành riêng cho
hoạt động ru trẻ. Ở những bài ca dao này thường xuất hiện dấu hiệu nhận biết
là các từ, cụm từ như: ru em, ru con, bồng, bế, cái ngủ, nín đi, ru hời, cái cò,
cái bống; các đại từ nhân xưng như: mẹ, con, chị, em, ….
9
- Loại thứ hai là những bài ca dao nói chung hay những truyện thơ
Nôm được vận dụng một cách lâm thời nhằm mục đích ru trẻ. Loại này rất
phong phú về mặt văn bản.
Với đề tài này, chúng tôi tập trung chủ yếu vào nghiên cứu loại văn bản
thứ nhất (tức những bài ca dao ru con dành riêng cho hoạt động hát ru trẻ)
trong tài liệu sau: Kho tàng ca dao người Việt - Nguyễn Xuân Kính, Phan
Đăng Nhật NXB Khoa học Xã hội, 2009. Đồng thời, trong luận văn này
chúng tôi cũng dẫn thêm một số bài ca dao được vận dụng làm bài hát ru trẻ
ngủ lâm thời nhưng cũng khá quen thuộc trong các tài liệu:
1) Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam - Vũ Ngọc Phan, NXB Văn học, 2007
2) Ca dao dân ca Nam Bộ - Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần
Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1984
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong khi nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp
chủ yếu sau:
- Phương pháp thống kê- phân loại: Phương pháp này sử dụng để khảo
sát , thống kê và tổng hợp các biện pháp tu từ từ vựng và ngữ nghĩa trong ca
dao ru con. Từ đó xác định hiệu quả sử dụng của biện pháp tu từ ấy.
- Phương pháp miêu tả: Đây là phương pháp truyền thống nhằm làm
sáng tỏ bản chất của hiện tượng. Việc miêu tả được tiến hành với các thủ pháp
chính như sau:
+ Các thủ pháp giải thích bên trong (phân loại, hệ thống hóa tư liệu: xử
lý số liệu, từ đó xác lập nguồn tư liệu làm cơ sở nghiên cứu; thủ pháp đối lập,
thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp để chỉ ra mối quan hệ giữa các thành tố
tham gia cấu tạo; thủ pháp vị trí…).
+ Các thủ pháp giải thích bên ngoài (thống kê định lượng và định tính
để có được số lượng các câu ca dao ru con theo định hướng của đề tài; thủ
pháp tâm lí - tộc người: dựa vào các đặc điểm văn hóa, tâm lí của các bậc làm
ông bà, cha mẹ, anh chị khi ru con để miêu tả các đặc điểm phương thức biểu
10
đạt, nội dung biểu đạt, đặc điểm về từ vựng - ngữ nghĩa của ca dao ru con của
người Việt.
- Thủ pháp so sánh, đối chiếu: Sau khi thống kê, so sánh đối chiếu để
tìm ra những nét giống và khác làm cơ sở cho việc quy loại nhóm.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về lý luận
Luận văn nghiên cứu về đặc điểm ngôn ngữ ca dao ru con của người
Việt xét về mặt phương tiện tu từ và biện pháp tu từ . Với đề tài này, nếu luận
văn đạt kết quả tốt, có thể góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về
đặc điểm ngôn ngữ của một thể loại văn học dân gian là ca dao nói chung, ca
dao ru con nói riêng từ phương diện tu từ học.
6.2. Về thực tiễn
Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu, bảo tồn đặc trưng, phát huy
giá trị văn hóa dân gian của người Việt thông qua các bài ca dao ru con trong
bối cảnh tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa đa chiều trên thế giới cũng như sự phát
triển của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là sự phát triển của các phương tiện âm
nhạc, truyền thông hiện đại.
7. Bố cục luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận cùng Tài liệu tham khảo, cũng như Phụ lục
một số bài, câu ca dao ru con của người Việt, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu
Chương 2: Một số phương tiện tu từ trong ca dao ru con
Chương 3: Một số biện pháp tu từ trong ca dao ru con.
11
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát về phương tiện tu từ và biện pháp tu từ
1.1.1. Phương tiện tu từ
Phương tiện tu từ được các nhà phong cách học quan niệm: “Phương
tiện tu từ là những phương tiện ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa
sự vật- lôgic) ra chúng còn có ý nghĩa bổ sung, còn có màu sắc tu từ và được
hình thành từ bốn yếu tố: biểu cảm( chứa đựng yếu tố hình tượng), cảm xúc
( chứa đựng những yếu tố diễn đạt tình cảm, cảm xúc), bình giá( chứa đựng
những yếu tố khen chê) và phong cách chức năng( chỉ rõ phạm vi sử dụng
thường xuyên, cố định” [ 22, tr.11]
Phương tiện tu từ bao giờ cũng nằm trong thế đối lập tu từ học (tiềm
tàng trong ý thức của người bản ngữ) với phương tiện tương liên có tính chất
trung hoà của hệ thống ngôn ngữ. Ví dụ: từ hi sinh (có màu sắc cao quí), qua
đời (có màu sắc tôn kính),…là những phương tiện tu từ nằm trong thế đối lập
tu từ học với phương tiện trung hòa (từ chết có màu sắc trung hòa). Từ hi sinh
ngoài nét nghĩa cơ bản là chết còn mang nét nghĩa bổ sung: thể hiện sự trân
trọng, tôn kính của người nói. Vì thế trong trường hợp này, từ hi sinh được
gọi là phương tiện tu từ.
Căn cứ vào các cấp độ của các đơn vị ngôn ngữ có nghĩa, các phương
tiện tu từ được phân thành: phương tiện tu từ từ vựng, phương tiện tu từ ngữ
nghĩa, phương tiện tu từ cú pháp, phương tiện tu từ văn bản.
1.1.2. Biện pháp tu từ
Khi nghiên cứu về phong cách học tiếng Việt, các tác giả đã có khá
nhiều quan niệm khác nhau về các biện pháp tu từ. Chẳng hạn, nhà nghiên
cứu Cù Đình Tú trong công trình Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt
đã đồng nhất biện pháp tu từ với cách tu từ, phép mĩ từ. Theo cách hiểu của
ông thì biện pháp tu từ bị hạn chế chỉ ở trong các hình thức chuyển nghĩa, tức
“những hình thức diễn đạt bóng bẩy, gợi cảm, có sức hấp dẫn, lôi cuốn trong
12
khi trình bầy”. Còn tác giả Đinh Trọng Lạc trong công trình 99 phương tiện
và biện pháp tu từ tiếng Việt lại dùng một thuật ngữ chung (biện pháp tu từ),
nhưng khi miêu tả cụ thể ở mỗi cấp độ khác nhau thì ông lại dùng những thuật
ngữ khác nhau như: phương thức, biện pháp. Tác giả Đỗ Hữu Châu, nhà
nghiên cứu gạo cội về từ vựng - ngữ nghĩa, trong công trình Các bình diện
của từ và từ tiếng Việt dùng một thuật ngữ thống nhất là biện pháp tu từ
(giống như Đinh Trọng Lạc) nhưng với cách hiểu không xác định. Ví dụ như
biện pháp tu từ từ vựng được ông dùng để chỉ biện pháp tu từ ngữ nghĩa hoặc
biện pháp tu từ cú pháp (bao gồm cả các phương tiện tu từ cú pháp). Những
cách hiểu biện pháp tu từ như vậy chưa thể phân biệt được phương tiện tu từ
với biện pháp tu từ và vô hình trung đã thu hẹp phạm vi hoạt động của biện
pháp tu từ chỉ ở hai cấp độ: ngữ nghĩa và cú pháp.
Từ những cách định nghĩa, phân tích trên, luận văn thống nhất và sử dụng
theo định nghĩa của tác giả Đinh Trọng Lạc: “Biện pháp tu từ là những cách
phối hợp sử dụng trong hoạt động lời nói các phương tiện ngôn ngữ không kể là
có màu sắc tu từ hay không có màu sắc tu từ, trong một ngữ cảnh rộng để tạo ra
hiệu quả tu từ (tức tác dụng gây ấn tượng về hình ảnh, cảm xúc, thái độ, hoàn
cảnh) ”[22, tr.142]. Hiểu như vậy, biện pháp tu từ chính là những cách kết hợp
ngôn ngữ đặc biệt trong một hoàn cảnh cụ thể, nhằm một mục đích tu từ nhất
định. Nó đối lập với biện pháp sử dụng ngôn ngữ thông thường trong mọi hoàn
cảnh, chỉ nhằm mục đích diễn đạt lí trí (sự vật- lo gic) mà thôi.
Tóm lại, biện pháp tu từ là cách diễn đạt ngôn ngữ mới mẻ, thể hiện
khả năng sáng tạo độc đáo của người sử dụng ngôn ngữ. Do vậy, việc phân
loại và miêu tả các biện pháp tu từ đạt được tính hệ thống, tính nhất quán ở tất
cả các cấp độ ngôn ngữ sẽ giúp cho người sử dụng ngôn ngữ luôn có ý thức
nhận thức được tầm quan trọng của sự đối lập quen thuộc, mới mẻ giữa các
biện pháp thông thường và biện pháp tu từ (biện pháp đặc biệt). Sự lựa chọn,
sử dụng các biện pháp tu từ ở người sử dụng ngôn ngữ luôn là sự sáng tạo
không ngừng, nhưng không nên nghĩ rằng phải luôn dùng hình thức diễn đạt
13
mới mẻ, bóng bẩy mới hay. Vì thế, người phát ngôn chỉ có khám phá, phát
hiện và khai thác giá trị sử dụng của các biện pháp tu từ thì người đọc mới có
thể phát hiện và nhận thức sâu sắc về giá trị thẩm mĩ của ngôn từ.
Căn cứ vào cấp độ ngôn ngữ của các phương tiện ngôn ngữ được phối
hợp sử dụng, các biện pháp tu từ được chia ra: biện pháp tu từ từ vựng, biện
pháp tu từ ngữ nghĩa, biện pháp tu từ cú pháp, biện pháp tu từ văn bản, biện
pháp tu từ ngữ âm- văn tự.
1.1.3. Mối quan hệ giữa phương tiện tu từ với biện pháp tu từ
Để có thể nhận biết dễ dàng và sử dụng hiệu quả phương tiện tu từ,
biện pháp tu từ, chúng ta cần phải xác định một cách rõ ràng, chính xác. Có
thể phân biệt biện pháp tu từ và phương tiện tu từ dựa trên một số đặc điểm cơ
bản sau:
Biện pháp tu từ
Phương tiện tu từ
- Là những cách phối hợp sử dụng các - Là những yếu tố thuộc các cấp
đơn vị lời nói trong giới hạn của một độ khác nhau, được đánh dấu về
đơn vị thuộc bậc cao hơn.
tu từ học trong giới hạn của một
cấp độ nào đó của ngôn ngữ.
- Ý nghĩa tu từ học của biện pháp tu từ - Ý nghĩa tu từ học của phương
nảy sinh ra trong ngữ cảnh của một tiện tu từ được củng cố ở ngay
đơn vị lời nói nào đó, bị qui định bởi phương tiện đó, được qui định bởi
những quan hệ cú đoạn giữa các đơn những quan hệ hệ hình của các
vị của một bậc hay các bậc khác nhau.
yếu tố cùng bậc.
Giữa phương tiện tu từ và biện pháp tu từ tuy có những sự khác biệt
nhất định, nhưng vẫn có mối quan hệ biện chứng. Một mặt, việc sử dụng các
phương tiện tu từ sẽ tạo ra các biện pháp tu từ, mặt khác việc sử dụng một
biện pháp tu từ nào đó trong lời nói cũng có thể chuyển hóa nó thành một
phương tiện tu từ (đây là trường hợp của so sánh). Hơn nữa, cùng một phương
tiện tu từ có thể xây dựng nên những biện pháp tu từ khác nhau. Chẳng hạn,
14
từ phương tiện tu từ từ vựng, người ta có thể có nhiều biện pháp tu từ: sử
dụng từ ngữ Hán Việt, sử dụng từ ngữ địa phương, sử dụng từ ngữ dùng trong
khẩu ngữ,… Và ngược lại, những phương tiện tu từ khác nhau có thể cùng
tham gia vào việc xây dựng cùng một biện pháp tu từ duy nhất.
1.2. Phương tiện tu từ từ vựng và tu từ ngữ nghĩa
1.2.1. Phương tiện tu từ từ vựng
Theo tác giả Đinh Trọng Lạc: “Phương tiện tu từ từ vựng là những từ
ngữ đồng nghĩa mà ngoài ý nghĩa cơ bản ra chúng còn có ý nghĩa bổ sung,
còn có màu sắc tu từ được hình thành từ bốn thành tố: biểu cảm (chứa đựng
những yếu tố hình tượng), cảm xúc (diễn đạt những tình cảm, những cảm
xúc), bình giá (khen, chê, tốt, xấu,…) và phong cách chức năng (chỉ rõ phạm
vi sử dụng, thường xuyên, cố định)” [22, tr.11].
Ví dụ: so với từ đứa trẻ là phương tiện từ vựng trung hòa thì các từ sau
đây là những phương tiện từ vựng tu từ: em bé ( tỏ vẻ âu yếm), đứa trẻ con,
đứa con nít ( tỏ vẻ xem thường), ranh con, nhãi con ( tỏ thái độ khinh thị,
ghét bỏ), thằng nhóc, con nhóc ( tỏ vẻ bỡn cợt).
Căn cứ vào phạm vi sử dụng phương tiện tu từ từ vựng có thể chia ra thành:
Những từ ngữ có điệu tính tu từ cao và những từ ngữ có điệu tính tu từ thấp.
- Những từ ngữ có điệu tính tu từ cao là những từ ngữ gọt giũa được ưu
tiên sử dụng trong lời nói mang phong cách sách vở,văn hóa. Những từ ngữ
này thường mang màu sắc cao sang, quý phái, bác học, bắt nguồn từ các lớp
từ: từ thi ca, từ Hán Việt, …
- Những từ ngữ có điệu tính tu từ thấp là những từ ngữ được ưu tiên sử
dụng trong lời nói sinh hoạt hàng ngày mang phong cách khẩu ngữ tự nhiên.
Đó là những từ ngữ mang màu sắc cụ thể, nôm na, bình dân, thân mật, bắt
nguồn từ các lớp từ: từ nghề nghiệp, từ địa phương, từ láy, …
Sau đây, chúng tôi sẽ tập trung trình bày khái quát về các lớp từ ngữ có
điệu tính tu từ cao để làm cơ sở cho việc tìm hiểu màu sắc tu từ của các
phương tiện này trong ca dao ru con ở chương 2 của luận văn.
15
1.2.1.1. Từ thi ca
Theo tác giả Đinh Trọng Lạc: “Từ thi ca là những từ thường được sử
dụng chủ yếu trong thơ văn xưa. Ngày nay nếu dùng chỉ những con người, sự
vật hiện đại thì thấy kệch cỡm, buồn cười” [22, tr.13].
Ví dụ: nàng, chàng, tráng sĩ, trầm tư, đồng vọng, anh hào, thuyền quyên…
Thuyền quyên phải sánh anh hào
Phụng hoàng đâu sánh thấp cao với diều.
Hay bài ca dao sau đây:
Làm trai quyết chí tu thân
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo
Làm trai năm liệu bảy lo mới hào
Trời sinh trời chẳng phụ nào
Công danh gặp hội anh hào ra tay
Chí khôn rắp để dạ này
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Thuyền quyên chỉ những người con gái đẹp nết, đẹp người; anh hào chỉ
những chàng trai tuấn kiệt, văn võ toàn tài trong xã hội. Đây là những từ xuất
hiện khá phổ biến trong thơ ca xưa còn ngày nay khi đi vào sáng tác thơ ca
chúng ta thấy lớp từ thi ca không còn xuất hiện nữa.
Từ thi ca bao gồm cả những từ rút trong thơ cổ, có tính chất điển cố,
kiểu như: hồng nhan, lá thắm, chim xanh, tài tử,… Ví dụ:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.
(Nguyễn Du)
1.2.1.2. Từ Hán Việt
‘‘Từ ngữ Hán Việt là vốn từ của tiếng Việt được vay mượn từ tiếng Hán
nhưng đã được Việt hóa theo cách đọc, cách hiểu và cách sử dụng của người
Việt’’[22, tr.15].
16
Về sắc thái ý nghĩa: từ ngữ Hán Việt thường mang sắc thái ý nghĩa khái
quát, trừu tượng (chẳng hạn như: thảo) đối lập với tính cụ thể cảm tính trong
từ thuần Việt (cỏ). Chính đặc điểm sắc thái ý nghĩa này mà các từ ngữ Hán
Việt thường tạo ra được hiệu quả biểu đạt rất riêng: thể hiện tính tĩnh tại của
sự vật hiện tượng được miêu tả và trong sự đối lập với tính sống động của từ
thuần Việt. Ví dụ, các cặp từ sau thi hài - xác chết, thảo mộc- cỏ cây, hoàng
hôn- buổi chiều, thảo khấu- giặc cỏ,… có sự đối lập rất rõ ràng về sắc thái ý
nghĩa giữa một bên là các từ Hán Việt: thi hài, thảo mộc, hoàng hôn, thảo
khấu,… có sắc thái nghĩa khái quát, trừu tượng so với các từ thuần Việt: xác
chết, cỏ cây, buổi chiều, giặc cỏ,…biểu hiện sự sống động và cụ thể của đối
tượng được nói đến.
Về sắc thái biểu cảm: những từ Hán Việt kiểu như: tạ thế, hi sinh,
khỏa thân,… mang sắc thái trang trọng, thanh nhã đối lập với các từ thuần
Việt: mất, chết/ngoẻo, ở trần mang sắc thái trung hòa, thân mật và đôi khi
suồng sã. Ta hãy so sánh ý nghĩa của các cặp từ tạ thế - mất, hi sinh chết/ngoẻo, khỏa thân - ở trần sẽ thấy rõ hơn cái sắc thái biểu cảm của người
nói. Hoặc như trong câu ca dao ru con sau:
Mẹ thương con lên non Ai Tử
Thiếp chờ chàng hóa đá Vọng Phu.
Về màu sắc phong cách: từ Hán Việt nhìn chung có màu sắc phong
cách sách vở, gọt giũa và thường được dùng trong các phong cách: khoa học,
chính luận, hành chính. Ngược lại, từ thuần Việt nhìn chung có màu sắc đa
phong cách. Một số từ thuần Việt có thể thích hợp với hầu hết các phong cách
chức năng tiếng Việt, nhưng một số từ lại chỉ thích hợp với phong cách sinh
hoạt, khẩu ngữ. So sánh cặp từ: phát biểu (từ Hán Việt) và nói (từ thuần Việt)
thì rõ ràng giữa hai từ này có sự khác nhau về màu sắc ngôn ngữ gọt giũa và
màu sắc phong cách ngôn ngữ sách vở. Hoặc như cặp từ: sơn hà và núi sông
thì rõ ràng từ sơn hà là từ ngữ được gọt giũa khác với từ núi sông, một từ
thuần Việt đa phong cách. Ví dụ:
17
Làm trai đứng ở trên đời
Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta
Ghé vai gánh vác sơn hà
Sao cho tỏ mặt mói là trượng phu
Hoặc chẳng hạn, để hiểu rõ hơn sự khác biệt nhất định về sắc thái nghĩa
giữa các từ Hán Việt với các từ thuần Việt, ta hãy xem đặc điểm sử dụng từ
ngữ Hán Việt với việc sử dụng các từ thuần Việt trong bài thơ Thăng Long
thành hoài cổ của Bà huyện Thanh Quan. Trong bài thơ này, chính Bà huyện
Thanh Quan đã sử dụng một khối lượng rất lớn từ ngữ Hán Việt để miêu tả
cái khung cảnh tĩnh mịch và dường như bất động của không gian để đưa
người đọc về với cõi vĩnh viễn và nỗi u hoài ngàn năm của nhà thơ khi ngậm
ngùi ngắm nhìn dấu xưa vết cũ của thời gian đọng lại, như dưới đây:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
( Thăng Long thành hoài cổ- Bà huyện Thanh Quan)
Bên cạnh những từ ngữ có tính điệu tu từ cao là những từ ngữ có tính
điệu tu từ thấp đó là các lớp từ: từ nghề nghiệp, từ địa phương, từ láy, …
1.2.1.3. Từ nghề nghiệp
“Từ nghề nghiệp là những từ biểu thị công cụ lao động, sản phẩm lao
động và quá trình sản xuất của một nghề nào đó thường chỉ được những
người trong nghành đó biết và sử dụng” [22, tr.28]. Ví dụ, trong nghề hát
tuồng có những từ ngữ riêng chỉ đối tượng, hiện tượng chỉ có trong nghành
nghề đó. Đào, kép là những vai trẻ; lão, mụ là những vai già.
18
Từ nghề nghiệp nằm trong từ vựng của ngôn ngữ văn hóa. Từ nghề
nghiệp thường được dùng trong khẩu ngữ của những người cùng nghề nghiệp.
Nó cũng có thể được dùng trong sách báo chính luận và nghệ thuật với vai trò
của những phương tiện tu từ để miêu tả nghề nghiệp lao động, phương pháp
sản xuất và đặc điểm lời nói của nhân vật.
Việc sử dụng từ nghề nghiệp, tuy vậy cũng rất hạn chế. Nhà văn
thường chọn lúc, chọn chỗ mà cho nhân vật nói lên một vài tiếng tiêu biểu, để
gây sắc thái đặc biệt chứ không phải luôn luôn đặt vào cửa miệng nhân vật
toàn những từ nghề nghiệp. Ví dụ lờ là dụng cụ đánh bắt cá, tôm của người
dân Nam Bộ. Lờ làm bằng ruột tre, cong chuốt nhỏ. Khi đi vào ca dao thì từ
nghề nghiệp này rất ít khi được nhắc tới, có chăng chỉ xuất hiện trong ca dao
ru con Nam Bộ:
Bấy lâu đến ngọn sông chờ
Muốn tìm cá lớn phải chờ trời mưa
Tiếc công đắp đập be bờ
Để ai quảy đó mang lờ đến đơm.
1.2.1.4. Từ địa phương
“Từ địa phương là những từ chỉ được dùng trong các phương ngữ, các
thổ ngữ” [ 22, tr.30]. Từ địa phương được sử dụng đúng lúc đúng chỗ sẽ tạo ra
giá trị biểu cảm cao. Trong ca dao từ địa phương cũng được sử dụng hết sức tinh
tế. Chẳng hạn như trong câu ca dao ru con sau đây:
Rồi mùa toóc rạp rơm khô
Bạn về quê bạn biết nơi mô mà tìm.
Nhờ những dấu hiệu ngữ âm, từ vựng mà chúng ta biết được ngay rằng
đây là câu ca dao của vùng đồng bằng miền Trung quanh năm chiêm khê mùa
thối. Mùa gặt đến phải thuê người làm để chạy đua với thời tiết và thời vụ.
Mùa gặt đã xong, rơm khô, toóc (rạ) rạp, bạn gặt đã ra về mỗi người một ngả.
Trót quen nhau rồi, trót thương nhau rồi biết tìm nơi mô (nào)? Việc sử dụng
các từ ngữ địa phương này thể hiện sự da diết và thủy chung xiết bao trong lời
19
bộc bạch mang dáng dấp một câu hỏi, một lời tự vấn. Câu ca dao lục bát biến
thể chứa đầy dấu ấn của một vùng địa phương Trung Bộ. Nó như vừa được
nói ra từ miệng của một người nào đó với một vùng đất cụ thể cùng những nét
văn hóa đặc trưng. Chính vì vậy bao thế hệ đi qua, nó vẫn còn đó, hiển hiện
trong lòng người như ân tình của cuộc sống lam lũ nơi đồng ruộng chẳng dễ
dàng đổi thay. Sinh ra từ mạch sống làng quê, câu ca dao mang cả cái chân
chất, mộc mạc của lời nói hàng ngày rất đáng yêu vào một lời bày tỏ bỗng trở
nên diệu vợi như khúc ngâm thoát ra từ trong sâu thẳm trái tim mình.
1.2.1.5. Từ láy
“Từ láy là những từ được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo
những qui tắc ngữ âm, ngữ nghĩa nhất định, sao cho quan hệ giữa các tiếng
trong từ vừa điệp, vừa đối, vừa hài hòa với nhau về âm và về nghĩa, có giá trị
biểu trưng hóa” [22, tr.33]. Từ láy tiếng Việt có khả năng biểu đạt rất lớn. Nó
làm cho văn chương tiếng Việt mang màu sắc thái riêng. Đặc biệt trong thơ,
từ láy vừa biểu thị những khái niệm trừu tượng vừa khái quát hóa mà lại vừa
cụ thể hóa sự vật hiện tượng được mô tả. Theo như cách nói của Nguyễn Phan
Cảnh trong cuốn Ngôn ngữ thơ thì có khả năng mang hai tầng nghĩa. Ví dụ:
ầm ầm, bập bềnh, nhấp nhô, phập phồng, ngắc ngoải, khấn khểnh,… Do đặc
điểm của từ láy có cấu trúc vật chất của sự vật được biểu thị nên có khả năng
cụ thể hóa đối tượng và gợi tính tạo hình, gợi cảm. Trong thơ ca từ láy xuất
hiện với tần số lớn khi tác giả muốn diễn tả những trạng thái tồn tại đặc biệt
của sự vật, hiện tượng, quá trình, tính chất hay tư tưởng. Ví dụ:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Bài ca dao gợi lên trước mắt chúng ta hình ảnh người nông dân đang
lội bùn, tay cầm cày, theo sau con trâu, dưới ánh nắng ban trưa chang chang
của mùa hạ. Người và trâu phải làm việc vô cùng vất vả. Mồ hôi tuôn ra như