Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Khổng Tử và cuộc mưu cầu hạnh phúc nhân sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.3 KB, 8 trang )

Khổng Tử và cuộc mưu cầu hạnh phúc nhân sinh
Herrlee G. Creel (1905-1994)
Khổng Tử là một trong vài nhân vật đã ảnh hưởng sâu xa đến lịch sử nhân loại bằng bản
lĩnh nhân cách, tài năng trí tuệ, và những thành tựu cá nhân. Chúng ta không thể nào giải
thích cặn kẽ được sự xuất hiện của các nhân vật như thế, nhưng nhờ xem xét các hoàn cảnh
sinh bình của họ, ít nhất ta cũng có thể hiểu thêm về họ.
Dù nỗ lực nhưng chúng ta vẫn thấy khó hiểu được Khổng Tử, vì biết bao truyền thuyết về
ông đã tích lũy qua nhiều thế kỷ khiến ta rất khó thấy được sự thật. Các thêm thắt tô điểm
này phát xuất từ hai động cơ khác biệt. Một mặt, những kẻ trung thành với Khổng Tử bấy
lâu vẫn hằng mong xưng tán ông và vì thế đã thực hiện những điều sùng tín, như tạo ra
một gia phả đầy thêm thắt, cho rằng tổ tiên xa xôi của ông cũng là hoàng tộc. Mặt khác,
những kẻ mà quyền lợi của họ bị nhà tư tưởng cách mạng họ Khổng đe dọa đã tìm cách và
đã thành công phần nào vô hiệu hóa những tấn công của ông vào đặc quyền đặc lợi của họ
bằng cách xuyên tạc và diễn giải sai lạc những lời nói của ông. Vì thế, công việc an toàn duy
nhất của ta là gạt bỏ những truyền thuyết thêm thắt về cuộc đời và tư tưởng của ông, và ta
chỉ tin vào những bằng chứng mộc mạc hơn, có thể thu thập từ các văn bản được chứng
minh là cổ xưa và khả tín.
Khổng Tử sinh năm 551 tcn tại nước Lỗ, một nước nhỏ tọa lạc tại nơi mà ngày nay được gọi
là tỉnh Sơn Đông. Không ai rõ về tổ tiên của ông, nhưng dường như ông bà tổ tiên của ông
cũng có người thuộc hàng quý tộc. Tuy nhiên ông tự thuật rằng ông đã trải qua một tuổi thơ
nghèo khổ: «Thuở bé ta chịu cảnh nghèo, nên phải làm việc hạ tiện.» Ông đã phải bươn
chải mưu sinh, không câu nệ những việc hèn hạ. Nhờ thế mà ông có thể học tập được,
nhưng có lẽ phần lớn là tự học.
Những kinh nghiệm gian lao của tuổi thơ đã giúp ông nhận chân nỗi thống khổ của dân
nghèo và ông bắt đầu suy tư sâu sắc về nó. Ông nhận thấy cái thế giới mà ông đang sống
đang phân rã ghê gớm và vì thế rất cần có những đổi thay quyết liệt. Ông thường có dịp
tiếp cận với thường dân cũng như giới quý tộc. Ông đánh giá thấp hầu hết giới quý tộc. Đó
là những kẻ no cơm rửng mỡ chẳng có gì để làm. So với giới cờ bạc, họ còn tệ hơn nữa, vì ít
ra giới cờ bạc cũng có việc để làm. Thực ra giới quý tộc ấy có nhàn rỗi mãi đâu. Họ luôn
dụng tâm biến cải cuộc sống của họ đã xa xỉ lại càng xa xỉ hơn, một cuộc sống xa hoa dật
lạc có được từ những sưu thuế và mồ hôi lao động của nhân dân. Còn hơn thế, giới quý tộc


thường gây chinh chiến. Tại Trung Quốc – có lẽ ở các quốc gia khác cũng thế – giới quý tộc
đều xuất thân từ quân phiệt. Thoạt đầu, giới quân phiệt này đã thực thi chức năng hữu ích
của họ là bảo vệ xã hội. Nhưng với tư cách là một giai cấp, họ đã đi quá xa giới hạn, và đã
cướp bóc nhân dân, thậm chí còn cướp bóc lẫn nhau nữa. Đa số giới họ đều thấy rằng chính
cái nghệ thuật chinh chiến ấy mới là nghề nghiệp duy nhất mà sĩ phu phải đặc biệt lưu tâm.
Và họ nhạo báng bất cứ ai – kể cả những kẻ chung giai cấp với họ – luôn mơ tưởng một
chính quyền hoàn hảo và qui củ.
Khổng Tử không chỉ là người hiếu hòa. Ông chủ trương bất đắc dĩ cũng cần đến vũ lực,
nhưng quyền lực ấy phải nằm trong tay những bậc đạo đức để thế giới không biến thành
nạn nhân của những kẻ sùng bái bạo lực. Thực ra, ông cho rằng vũ lực là phương sách sau
cùng, điều tiên quyết là con người phải phục tùng chánh nghĩa. Ông nói: «Nếu đã tự xét
mình có lỗi thì dù đối diện một kẻ thất phu, ta cũng lấy làm run sợ. Nhưng nếu tự xét mình
có chính nghĩa thì dù đương đầu muôn vạn người, ta vẫn cứ xông tới.» Ở mức độ thực tế
hơn, ông cho rằng một quân đội không thể thiện chiến nếu những người lính bình thường
chưa hiểu vì sao họ phải chiến đấu cũng như chưa hiểu cái chính nghĩa mà họ chiến đấu
cho. Ông cho rằng nếu khiến cho chiến sĩ nhận ra sự vô đạo đức của kẻ thù thì tinh thần
chiến đấu của họ sẽ dâng cao. Ông nói: «Chẳng dạy bảo dân mà bắt họ đi đánh giặc, đó là
đẩy họ đến chỗ thua chết mà thôi.»
Khổng Tử nhận thức rằng những ý niệm như thế hoàn toàn bất đồng với những ý niệm của
giới quý tộc. Ông không những nhận ra nó mà còn cố gắng thực thi điều gì đó về nó. Từ
thời Khổng Tử trở về trước, thuật ngữ «Quân tử» có ý nghĩa phổ quát giống như ý nghĩa
nguyên thủy của từ «gentleman» của người Tây phương, tức là nó ám chỉ một người sinh ra
trong gia đình giàu sang mà tổ tiên của họ thuộc giai tầng cao hơn hạng dân đen. Kẻ đó
sinh ra đã là quân tử rồi, không cần biết đạo đức của hắn như thế nào. Đến thời của Khổng
Tử, ông đã thay đổi hoàn toàn quan niệm này và tạo cho từ Quân tử có ý nghĩa mới mẻ.
Theo ông, ai ai cũng có thể trở thành bậc quân tử nếu họ là người có đức hạnh tốt, công
bằng, nhân ái, vị tha. Chẳng có ai sinh ra là quân tử ngay lập tức. Đó chỉ là vấn đề của đức
hạnh mà thôi.
Khổng Tử khinh miệt những trò xảo ngôn miệng lưỡi. Ông rất ít khi diễn thuyết trước đám
đông. Tuy nhiên, ông hẳn là một người diễn giảng rất thuyết phục trước một người hoặc một

nhóm ít người nào đó. Ngày nay đọc Luận Ngữ – tác phẩm ghi lại tất cả những gì ông đã nói
– chúng ta phải cảm nhận cái hấp lực từ nhân cách của ông. Những ai tiếp cận với ông đều
được nghe những ý tưởng canh tân thế giới của ông, dần dần họ trở thành môn đệ của ông.
Ngay lúc đầu, vài người trong số môn đệ ấy chỉ nhỏ tuổi hơn ông một chút thôi.
Ông và môn đệ hình thành một trường tư thục đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc có sự giáo
dục nâng cao hơn. Ngày xưa trong triều đình vẫn có những chức quan phụ trách việc dạy dỗ
con em của giới quý tộc và quan lại. Những người được sắc phong làm quan chức nhỏ sẽ
vào triều và học tập cách làm quan nơi các quan chức cao hơn. Lối giảng dạy này dường
như chủ yếu là huấn luyện các thao tác để người học có thể thi hành một chức việc nào đấy.
Tuy nhiên, Khổng Tử không những huấn luyện các kỹ năng, mà ông còn giáo hóa (educate)
họ với ý nghĩa – như một định nghĩa trong từ điển giải thích động từ này – là «phát triển và
rèn luyện trí tuệ hoặc đạo đức con người để mở mang, kiên cường và khép vào kỷ luật».
Có một lý do nhất định giải thích tại sao Khổng Tử đã vượt ra khỏi khuôn mẫu cổ truyền
trong quan niệm của ông về chức năng của học vấn. Chương trình giáo dục của ông tương
đồng với chương trình giáo dục của cung đình ở chỗ đó là cái học để làm quan. Lối giáo dục
cung đình đòi hỏi quan lại là công cụ của kẻ thống trị (vua chúa), nghĩa là phục vụ và thực
thi những nguyện vọng của vua, đồng thời cai trị dân theo tập quán mà thôi. Trái lại, Khổng
Tử kỳ vọng các môn đệ của ông phải nắm giữ vai trò năng động cách mạng bất kỳ chính
quyền nào mà họ tham chính, đó là buộc giai cấp thống trị phải đáp ứng nguyện vọng của
nhân dân. Muốn được vậy, môn đệ đó phải được chuẩn bị chu đáo cho chức năng tích cực
ấy: Họ phải biết chủ động sáng tạo, thông minh, đạo đức và luôn phải tự rèn luyện mãi. Chỉ
huấn luyện các kỹ năng thôi thì chưa đủ.
Với Khổng Tử, quan niệm về «bậc quân tử phi nguồn gốc xuất thân» không là lý thuyết
suông; ông đã vận dụng nó trong việc giáo hóa môn đệ trở thành bậc quân tử. Bất kỳ ai ai
cũng có thể trở thành môn đệ của ông, ngay cả những kẻ nghèo hèn nhất ông cũng không
câu nệ. Ông nói: «Dạy người, ta không phân biệt đó là loại người nào, lý lịch thế nào.» Về
cách thu nhận môn đệ, ông nói: «Kẻ nào đến ta xin nhập môn, dâng lên ta một xâu thịt
khô; ta chưa hề chê lễ mọn mà từ chối dạy.»
Ông không hề thiên vị học trò, dù rằng học trò của ông có kẻ giàu người nghèo. Ông khen
ngợi môn đệ nào, chỉ vì tài năng và đức độ của người đó mà thôi. Chẳng hạn ông khen một

đệ tử tên là Trọng Do: «Mặc áo rách áo cũ đứng chung với kẻ mặc áo lông mà không hổ
thẹn, ấy là trò Do vậy.»
Điều khá thú vị là vị môn đệ cơ hàn đó về sau trở nên quan chức cao cấp. Bởi ông dạy học
không chỉ vì để dạy, mà trái lại, ông muốn chính tay môn đệ ông sẽ hành xử và tranh đấu
cho tôn chỉ của ông, cho nên ông đòi hỏi rất nhiều về trí tuệ và nỗ lực của họ: «Kẻ nào
chẳng gắng sức để hiểu thông, thì ta chẳng giúp cho hiểu thông được. Kẻ nào không cố
gắng tỏ bày ý kiến, thì ta chẳng giúp cho phát triển được. Kẻ nào biết một góc mà chẳng
chịu tìm hiểu thêm ba góc kia thì ta chẳng dạy cho.»
Bởi vì ông dạy thứ dân trở thành quân tử, ngõ hầu họ có thể ra làm quan, nên ông rất chú ý
việc truyền dạy nghi lễ cho họ. Nhưng cái nghi lễ ấy đã được sửa đổi khác xa với nghi lễ
truyền thống xa xưa. Chữ Lễ nguyên nghĩa là «cúng tế» (sacrifice), nó còn ám chỉ mọi nghi
lễ của việc cúng tế nữa. Như vậy nó bao hàm các buổi lễ lạc và nghi lễ, mà các lễ nghi này
vốn dĩ là phép giao tiếp của giới vua chúa và quan lại.
Khổng Tử bắt đầu từ chữ Lễ. Nếu kẻ cai trị đã biết trang nghiêm cúng tế tổ tiên của họ thì
tại sao họ không chú tâm đến triều chính y như vậy? Nếu quan lại mỗi ngày biết thi lễ và
thủ lễ với nhau thì tại sao họ không quan tâm thi lễ và thủ lễ với quần chúng, mà đám dân
đen này vốn dĩ là xương sống của quốc gia? Cho nên có lần ông dạy môn đệ là Trọng Cung
rằng: «Bước ra khỏi nhà, ta phải thủ lễ dường như sắp gặp khách quý. Khi bảo dân thi hành
công vụ, ta phải sốt sắng dường như thừa hành cuộc cúng tế lớn. Những gì mình không
muốn người khác làm cho mình, thì mình chớ thi hành cho người. Có như vậy, dân trong
nước không ai oán mình mà người thân trong gia đình cũng không oán mình nữa.» Đức
hạnh như vậy dĩ nhiên tương phản với thói luông tuồng, phóng túng của giới quý tộc.
Lễ chính là những qui tắc được minh định. Trong những kinh điển Nho giáo người ta sẽ tìm
được những chỉ dẫn tỉ mỉ để biết cư xử sao cho hợp Lễ. Thậm chí khi cầm một vật gì, người
ta còn được dạy là phải đặt ngón tay như thế nào nữa. Thế nhưng chính Khổng Tử lại quan
niệm khác hẳn về Lễ. Điều quan trọng của Lễ là ở tinh thần và ở tấm lòng. Ông khinh miệt
những hình thức xa hoa lộng lẫy mà thiếu vắng lòng thành: «Lễ cần ở tiết kiệm hơn là xa
hoa. Tang lễ cần có lòng đau xót người chết hơn là lòe loẹt phô trương.»
Toàn bộ hệ thống tư tưởng và đạo đức của ông được dựng xây trên mối suy tư về bản chất
nhân sinh. Một mặt, ông không cho rằng mỗi cá nhân là một hiện thể có tính siêu hình (a

kind of metaphysical entity), tức là một xã hội hoàn toàn có trước cá nhân đến nỗi một cá
nhân nếu muốn được gọi là tồn tại (exist) thì phải bị cuốn hút hoàn toàn trong xã hội đó.
Trái lại, theo ông, con người là những sinh vật xã hội thiết yếu (essentially social beings).
Con người phải là con người gắn liền với xã hội. Mặt khác, vì xã hội chẳng qua là sự tương
tác giao tiếp giữa con người, nên xã hội phải là cái xã hội do con người hình thành. Vì vậy,
theo Khổng Tử, lương tâm của cá nhân ngăn cấm anh ta rút lui khỏi xã hội hay đầu hàng sự
phán xét đạo đức của anh ta về nó. Và cũng sai lầm nữa, nếu hắn trở thành một ẩn sĩ hoặc
một kẻ xu phụ đám đông.
Lễ là quan niệm cực kỳ quan trọng trong hệ thống giáo dục của Khổng Tử. Các bác sĩ điều
trị về tâm bệnh (psychiatrist) ngày nay của Tây phương cho rằng nền giáo dục Tây phương
chú trọng rèn luyện trí tuệ (Trí dục) cho học sinh ở mức độ cao nhưng lại bỏ qua việc huấn
luyện và uốn nắn tình cảm của học sinh (Đức dục). Vì thế, đôi khi khó mà tạo ra được một
cá nhân khéo thích ứng xã hội với tư cách là một phần tử hữu dụng và hạnh phúc trong xã
hội. Trái lại, đường lối giáo dục của Khổng Tử không chú trọng trí dục bằng việc huấn luyện
cho môn đệ đạt được sự quân bình về tình cảm, mà sự quân bình này là kết quả của việc
học Lễ. Sự học của bậc quân tử phải khép mình vào Lễ, nhờ nương vào Lễ mà không bị cám
dỗ làm điều bội nghịch: «Bậc quân tử học rộng văn chương và khép mình vào Lễ, như vậy
sẽ không phạm điều trái đạo lý.»
Một quan niệm cực kỳ quan trọng triết lý của ông là Đạo. Đạo nguyên nghĩa là «con
đường». Trước thời kỳ của Khổng Tử từ ngữ «Đạo» thường được dùng với nghĩa là «con
đường» hoặc «phẩm hạnh», như vậy có thể là tốt hoặc xấu. Sau thời đại của Khổng Tử, từ
ngữ «Đạo» được dùng như là một quan niệm huyền học (a mystical concept) về nguyên lý
vũ trụ hoặc vạn hữu. Quan niệm này được phái Đạo gia (Taoists) sử dụng triệt để (ngay
danh xưng của họ cũng nói lên điều này rồi.)
Trong Luận Ngữ, ta thấy Khổng Tử đề cập nhiều lần về Đạo, nhưng với lối giải thích hơi
khác. Theo nhận xét của tôi, chúng ta cần thấy rằng: đối với Khổng Tử, Đạo không phải là
cái gì huyền bí. Đó là con Đường (với chữ Đ viết hoa) tối thượng, trên hết mọi con đường
mà con người cần tuân theo. Cứu cánh của nó là sự hạnh phúc cho nhân loại, cái hạnh phúc
đích thực của con người ngay khi họ còn sống tại thế gian. Nếu Lễ được hiểu là những qui
định đạo đức và nghi lễ, thì Đạo bao gồm cả những qui tắc về đạo đức của từng cá nhân và

khuôn mẫu chính trị, mà những khuôn mẫu này sẽ tạo được phúc lợi (well-being) cũng như
sự tự hiện thực hoá bản thân (self-realization) cho từng cá nhân đó.
Nếu bảo rằng Đạo không có tính cách huyền bí, thì điều này không có nghĩa là không được
nhiệt thành xem trọng. Khổng Tử nói «Sáng mà nghe Đạo, chiều chết cũng cam.» Ông nghe
được Đạo và không hối tiếc sẽ chết, không có nghĩa là ông ta sẽ lên thiên đàng sau khi biết
Đạo. Bởi vì Khổng Tử từ khước luận bàn về sinh tử, ông không nói về cuộc sống sau khi chết
sẽ ra sao.
Dường như Khổng Tử coi trọng chất (the qualitative) hơn là lượng (the quantitative). Đời
người không phải tính bằng những năm tháng mà họ đã hiện hữu trên thế gian này, mà
bằng cái phẩm chất được thể hiện mà thôi. Một khi con người biết Đạo rồi, tức là anh ta biết
cái ngôi vị cao nhất của kiếp người. Và hễ giác ngộ – biết Đạo và nhập Đạo – rồi, đó là quá
đủ, nếu có chết cũng cam lòng.
Nhưng Đạo (theo Khổng Tử) khác hẳn Đạo có tính huyền bí theo quan niệm của Đạo giáo về
sau. Ông nói: «Chỉ con người mới có thể phát huy cho Đạo được lớn mạnh sáng rỡ; chứ
ngược lại thì không.» Mười ba thế kỷ sau khi Khổng Tử mất, vị đại nho Hàn Dũ (đời Đường)
đã phân biệt rất kỹ sự khác biệt giữa Đạo của Khổng Tử và Đạo theo quan điểm Đạo giáo về
sau. Trong bài «Nguyên Đạo (bàn về nguồn gốc của Đạo), Hàn Dũ viết: «Bác Ái (yêu khắp
mọi người) gọi là Nhân thi hành ra cho đúng thì gọi là Nghĩa. Do theo đó mà làm thì gọi là
Đạo. Lòng mình đầy đủ không trông đợi bên ngoài thì gọi là Đức. [...] Điều mà Lão Tử gọi là
Đạo khác với cái Đạo Khổng Tử nói, điều mà ông gọi là Đức thì khác với cái Đức [mà nhà
nho] chúng ta gọi. [...] Đạo Đức theo Lão Tử là vứt bỏ Nhân Nghĩa vậy.» Theo Hàn Dũ, cái
Đạo lý tưởng ấy đã truyền thừa từ Nghiêu, Thuấn mãi đến Chu Công và rồi đến Khổng Tử,
Mạnh Tử. Cái Đạo ấy không phải là cái Đạo bất biến và cố định, mà là cái Đạo uyển chuyển
thay đổi theo cá nhân và hoàn cảnh.
Khổng Tử xem Đạo là uyển chuyển như vậy nên ông không buộc môn đệ phải trung thành
mù quáng với vua chúa. Một vị đại thần là phụng sự vua, nhưng việc phụng sự này xuất
phát từ Đạo, chứ không phải vì bản thân nhà vua. Nếu vị đại thần không thể khuyên bảo
vua theo Đạo lý, thì vị ấy nên từ quan: «Người được gọi là đại thần thì lấy Đạo mà phụng sự
vua. Nếu không được như vậy, thì hãy rút lui từ quan.» Theo Khổng Tử, lòng Trung quân
(trung thành với vua) không thể hiểu một cách thiển cận và máy móc. Khi môn đệ là Tử

Cống nói với ông rằng: Quản Trọng không đáng gọi là nhân bởi vì khi công tử Củ bị Hoàn
Công giết mà Quản Trọng là bầy tôi của công tử Củ lại không chết theo, ấy vậy lại còn làm
Tể Tướng theo giúp Tề Hoàn Công nữa. Khổng Tử trả lời: «Quản Trọng theo giúp Tề Hoàn
Công nên nghiệp bá, nhờ vậy mà thiên hạ từ loạn đổi sang trị. Nếu không có Quản Trọng thì
chúng ta phải gióc tóc và vắt vạt áo bên trái như giới man di. Lẽ nào vì tấm lòng trung quân
nhỏ hẹp tầm thường mà đi treo cổ bên lạch suối sao?»
Khổng Tử đòi hỏi nhiều về sự nhiệt thành nơi môn đệ, sự xả thân vì Đạo: «Thấy món lợi bèn
nhớ điều nghĩa (mà chẳng dám phạm). Thấy thế nguy bèn hy sinh không tiếc mạng. Bình
sanh khi giao ước điều gì thì dẫu bao lâu cũng không quên.» Hoặc: «Trong khi cúng tổ tiên,
giữ lòng thành kính; trong cơn tang chế, xét tưởng sự đau thương.» Hằng bao thế kỷ qua
trong giới nho sĩ có biết bao người diệt trừ bạo chúa. Và cũng có không ít người bỏ mạng vì
dám can gián vua dối gạt vua. Nếu vua sai trái, phải can gián, không sợ mích lòng.
Như trường hợp Hàn Dũ, vì can gián vua Đường khi thấy vua quá sùng thượng đạo Phật
(đến nỗi xem mớ xương cốt thượng tọa là xá lợi) mà ông bị trừng phạt. Tuy ông không bị
giết vì tội khi quân (ông dám gọi đó là mớ xương khô thúi) nhờ các quan can thiệp, nhưng
ông phải chịu cảnh lưu đày chốn duyên hải hoang vu phía nam. Nơi chốn lưu đày, ông đã
tận tụy phát triển và cải thiện đời sống lầm than của nhân dân, ông vẫn yên tâm rằng mình
chiến đấu đúng đắn, vì làm như vậy là hợp với lẽ Đạo cũng như bao nhiêu nho sĩ đã từng
làm qua bao thời gian và không gian.
Khổng Tử không đề cập đến những vấn đề siêu hình, đến nỗi môn đệ thở than: «Văn
chương của Thầy thì ta nghe đã nhiều. Còn bản tánh con người và Đạo Trời thì chẳng nghe
thầy dạy.» Môn đệ hỏi về quỉ thần và sự chết, Khổng Tử đáp: «Đạo thờ người còn chưa biết,
sao biết được đạo thờ quỉ thần. Sự sống còn chưa biết, sao biết được sự chết?»
Khổng Tử tránh né những câu hỏi đại loại như trên là vì không muốn môn đệ bận tâm về
vấn đề siêu hình hóc búa. Thật ra, ông đề cập về Trời rất nhiều lần. Ông tự nhận có sứ
mạng nắm giữ cái Tư Văn 斯斯 (nền văn chương ấy) mà Trời đã từng trao cho Văn Vương:
«Nếu Trời muốn để mất nền văn chương ấy, thì sau khi Văn Vương mất, ngài đâu giao phó
cho ta. Bởi Trời chưa để mất nền văn chương ấy, nên người đất Khuông sao hại được ta?»
Ông than rằng: «Đời chẳng ai biết ta! Biết chăng, chỉ có Trời mà thôi!»
Trời là chi, theo Khổng Tử? Ông cho rằng Trời không phải là một hữu thể mang hình dáng

giống như con người chúng ta. Qua cách diễn đạt của Khổng Tử nói về Trời, ta nhận thấy từ
ngữ này biểu đạt một năng lực đạo đức (moral force) trong vũ trụ mà sức mạnh này được
quan niệm khá mơ hồ. Khổng Tử nhấn mạnh đến sự nỗ lực của từng cá nhân, sau đó mới
biết mệnh Trời là gì. Tuy nhiên đáng chán thay, sự nỗ lực của người thiện dường như chẳng
có kết quả là bao, bởi vì những kẻ ác vẫn còn phong lưu phè phỡn. Nhưng cái đức tin vào
Trời khiến ông vững lòng rằng dù thế nào và bất cứ đâu, vẫn có một uy lực thiêng liêng trợ
giúp những kẻ cô độc đấu tranh cho lẽ phải.
Khổng Tử kết án tôn giáo, cái tôn giáo truyền thống thuở ấy. Theo ông, cái mà người ta gọi
là tôn giáo chẳng qua là cuộc đổi chác núp bóng sự hiến tế. Người ta cúng quá nhiều lễ vật
cho tổ tiên và quỉ thần chẳng qua là trông cậy vào sự độ trì của người khuất mặt. Khổng
Tử có tin tưởng rằng người đã chết có thể độ trì người sống không? Chúng ta không rõ điều
ấy, dường như ông không tin như vậy.
Chúng ra cần lưu tâm rằng, giới thống trị đều có hàm ý tôn giáo vào chức năng lèo lái quốc
gia của họ. Vua thì được gọi là Thiên Tử (con Trời). Giới quí tộc thì cho rằng nhờ phúc ấm tổ
tiên mà họ có địa vị ăn trên ngồi trốc trong xã hội. Tổ tiên cao quý của họ ở trên trời đầy
quyền lực và độ trì cho con cháu. Quan niệm này đã bảo vệ cái đặc quyền đặc lợi cố hữu
của giới quý tộc. Khổng Tử không tấn công quan niệm lâu đời này, ông không phê phán gì
nó, mà chỉ khẳng định rằng yếu tố quyết định ngôi vua chính là tài đức và sự giáo dục chứ
không phải là thành phần xuất thân. Ông từng khen một môn đệ có đủ tài đức để làm vua,

×