Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Khổng tử và Khổng giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (37.62 KB, 3 trang )

Khổng tử và Khổng giáo
Dường như lúc này đây là giai đoạn khó khăn nhất trên con đường dài kể từ sau ngày từ giã
cõi trần của vị hiền triết già Châu Á.
Trong suốt gần hai nghìn năm trăm năm ông ngự trị trên tâm trí và lương tri của bộ phận
đông đúc và dày đặc nhất của nhân loại - tôi có hơi phân vân khi nói là trên trái tim họ,
chưa bao giờ ông bị đem ra tranh cãi, phê phán ác liệt như những ngày này, ngay cả so với
thời Trang Tử và các học giả của trường phái Lão giáo chĩa vào ông những mũi tên gay gắt
nhất.
Ông “lão già” bị một đám thanh niên hung dữ coi là lố bịch. Người ta kết tội ông đã là ông
hoàng của những tên thông thái rởm, vua của đám bảo thủ lạc hậu, người cầm đầu của
những kẻ phản động dày dạn, mà ảnh hưởng nguy hại đã là nguyên nhân chính gây ra sự
ngưng trệ của tất cả các dân tộc phải lãnh cái tai họa tự đặt mình dưới lề luật, dưới quyền
uy của vị tổ tiên của những con tốt đen thuộc một thời cổ lỗ.
Làn sóng mất tín nhiệm ập xuống trên đầu của một người mà một vị hoàng đế có học thức
đã tôn vinh là “người thầy của mười nghìn thế hệ”, đã gây ra một tác động nhiều ý nghĩa:
nếu các tin tức được truyền đi gần đây là đúng, thì người hậu duệ của gia đình ông, suốt tất
cả các triều đại Trung Hoa vốn đều được mang tước hiệu Bá và được hưởng các của cải dâng
cúng ở ngôi đền quốc gia được dựng lên để tôn vinh ông tại quê hương ông, làng Khúc Phụ,
thuộc Sơn Đông, vừa bị chính phủ Cộng hoà tước hết mọi đặc ân ấy.
Ở nước Nam, làn sóng mất tín nhiệm này đúng ra là một một làn sóng dửng dưng. Bậc hiền
triết ở Khúc Phụ, mới đây còn đem lại sự sinh động cho toàn bộ đời sống đạo đức và tinh
thần của đất nước này bằng những lời dạy và những châm ngôn của ông, nay trông có vẻ xa
vời, thật xa vời trong không gian và trong thời gian. Và nếu gần đây, một nhà nho nước
Nam, theo gót các đồng nghiệp của ông ta ở nước “Trung Hoa trẻ”, đã thử viết ra bản án
Khổng Tử và Khổng giáo, thì hình như ông ta cũng chẳng mấy khiến độc giả chú ý; chẳng có
ai tán đồng cũng chẳng ai phản đối; và tôi rất nghi rằng các bài báo của ông, tuy được viết
với văn phong và tư liệu khá công phu, cũng có số người đọc ngang với mẩu tin bé tẹo nói
về chiến công của chàng vô địch quần vợt được tất cả báo chí tiến bộ xếp lên hàng anh
hùng dân tộc.
Bậc hiền triết già, từng chứng dự bao nhiêu biến động chính trị và xã hội, bao nhiêu lần các
triều đại và đế chế sụp đổ, và, theo như lời nhà Trung Quốc học Edouard Chavannes, bằng


tầm vóc cao vời vợi của mình đã luôn chế ngự lịch sử của toàn vùng Viễn Đông, giờ đây sẽ
rơi chìm vào quên lãng, là nạn nhân của thời gian mà cho đến nay ông luôn thách thức
chăng?
Vậy mà nếu có một học thuyết cần phải được làm sống dậy mạnh mẽ trong thời kỳ bất an
và hỗn loạn này, hỗn loạn trong tâm trí con người và hỗn loạn trong các thói tục, còn trầm
trọng hơn nhiều so với các xáo động thoáng qua của chính trị hay các cuộc đảo lộn hời hợt
của xã hội, thì đấy chính là học thuyết của bậc hiền triết cổ đại này, người duy trì trật tự vĩ
đại nhất xưa nay. Và cần luôn nhớ rằng thế giới và nền văn minh sẽ rơi vào tình trạng nào,
một bộ phận của thế giới và một phần nền văn minh đã rơi vào đó rồi, nếu ta buông thả tự
do cho những bản năng tệ hại nhất của con người, để mà đánh giá cho đúng giá trị của lời
dạy toát ra từ một học thuyết như vậy.
Nhưng khi sự điên rồ đã tràn ra trong nhân thế, thì đương nhiên là họ lánh xa con người đã
là bậc Hiền nhân cao cả nhất. Đương nhiên là học thuyết của ông sẽ không được hiểu và
giải thích đúng, nó trở thành xa lạ, nó gây chán ghét cho cả những con người coi sự khuấy
đảo là hành động, đảo lộn là tiến bộ, và còn chưa thấy có nhu cầu tĩnh tại và cân bằng.
Ta sẽ có nguy cơ bị coi là phản động và lạc hậu nếu ngày nay ta nghĩ đến chuyện cổ vũ cho
sự trở lại của Khổng giáo. Dẫu thế nào ta cũng sẽ đi ngược lại trào lưu chung lúc này đang
lôi cuốn toàn bộ vùng Viễn Đông đến những số phận vô định.
Tuy nhiên không phải tất cả các lời dạy của Khổng Tử đều lỗi thời. Và cái tinh thần đã tạo
nên sinh khí của nó và gợi cảm hứng cho nó vẫn luôn đúng, luôn sống động như chính chân
lý hay minh triết vậy.
Có thể chăng hãy giữ nguyên lấy cái tinh thần đó trong khi giải thoát nó ra khỏi kích thước
kinh viện bao quanh nó, phủ lên nó, che mờ nó từ nhiều thế kỷ nay.
Bởi tinh thần đó vẫn còn là nơi phát sinh ra lẽ phải và minh triết, và ảnh hưởng của nó có
thể tạo nên một đối trọng tốt lành cho sự xáo động hỗn loạn, sự hối hả cuống cuồng đang
xúi đẩy các thế hệ trẻ quét sạch hết quá khứ và cắm đầu lùi lũi lao tới tất cả những gì là mới
và chưa từng có.
Điều Khổng Tử quan tâm hơn cả, xu hướng cốt yếu trong học thuyết của ông, là gìn giữ trật
tự xã hội và đem lại hoà bình giữa mọi người. Nền hoà bình đó, ông tin có thể tìm thấy
trong một tổ chức phụ quyền của xã hội và Nhà nước, theo mô hình hạt nhân gia đình, tổ

chức hoàn toàn thích hợp với dân tộc mà ông nói đến.
Vậy nên ông hết sức chăm lo điều tiết tổ chức đó trong từng chi tiết nhỏ nhất, phát biểu các
nguyên tắc tỉ mỉ nhằm tăng cường và củng cố nó, chế định các bổn phận cơ bản tạo nên cốt
lõi đạo đức của nó, thậm chí tạo cho nó một nền tảng siêu hình bằng lý thuyết về vị Hoàng
Đế con Trời và quan niệm về thiên chức. Tất cả cái phần xưa cũ trong học thuyết của ông
đương nhiên đã trở nên già cỗi và không còn đáp ứng được với trạng thái ngày nay của các
xã hội hiện đại, ngay cả với các xã hội vừa mới đi ra khỏi giai đoạn phụ quyền như xã hội
nước Nam. Những ý tưởng tạo nên cơ sở của nó đến hôm nay vẫn còn đúng như hai nghìn
năm trước: bất cứ ở đâu con người sống thành xã hội, cuộc sống chung đó phải dựa trên
một trật tự được thiết lập và phát triển trong hoà bình. Bảo vệ trật tự đó, bảo đảm nền hoà
bình đó, là bổn phận chủ yếu của con người, nhất của kẻ có những đức tính tự nhiên, những
tài năng và được giáo dục để có thể dắt dẫn và cai trị những người khác.
Các học thuyết triết học hay tôn giáo khác đề xuất cho con người một lý tưởng hoàn thiện
mình siêu nghiệm cho đến nỗi nếu ai thực hiện được nó toàn bộ thì anh ta sẽ trở thành một
con người tách biệt, ở bên ngoài và bên trên nhân loại thông thường. Khổng giáo, ngược lại,
chỉ nhìn thấy con người trong xã hội của đồng loại với mình; nó chỉ nhìn thấy các thứ hạng
quân, thần, phụ, tử, phu, phụ, huynh, đệ, bằng hữu.
Đấy là một học thuyết nhân văn và xã hội tuyệt vời. Xu hướng chung của nó, điều chăm lo
thường trực của nó, là đào tạo, dạy dỗ, hoàn thiện con người sao cho anh ta có thể đáp ứng
được mục đích thuộc bản chất của anh ta là sống trong xã hội, sống ở đấy một cách hạnh
phúc, hoà hợp và hoà thuận với đồng loại.
Chúng ta đã thấy là khổng Tử quan niệm xã hội ấy duy nhất dưới hình thức phụ quyền và
quan niệm đó không còn thích hợp với sự tiến hoá hiện nay của các xã hội. Nhưng chính
bằng cách phát triển trong con người những xu hướng xã hội và hoà thuận, bản chất của
con người sẽ được cải thiện, và dù xã hội trong đó anh ta phải sống là như thế nào, anh ta
sẽ biết cách ứng xử đúng mực, tránh các xung đột vô ích với những người khác và coi việc
tìm được sự hài hoà và hoà thuận là cao hơn hết.
Khổng giáo đạt đến mục tiêu đó qua một nền giáo dục đạo đức nhằm kìm chế trong con
người những bản năng xấu ích kỷ bằng cách thực hành các đức tính xã hội cao quý, lòng tôn
trọng người khác và phép lịch sự, phát huy những đức tính vị tha, nhất là tính chính trực và

lòng nhân ái. Đúng là những đức tính đó chẳng hề có gì là siêu nghiệm; nó vừa sức với mọi
người; nó không đòi hỏi một nỗ lực gì quá sức con người, một sự quả cảm đặc biệt nào.
Nhưng được thực hành một cách có ý thức, nó đảm bảo sự hoà hợp và hài hoà trong các
quan hệ con người, góp phần duy trì trật tự và yên bình trong xã hội: Khổng Tử chủ yếu
nhằm tới điều đó. Khi cần thiết, để cho đại chúng có thể dễ tiếp thu hơn, người ta điển chế
hoá chúng thành những quy định có tính thể thức có thể áp dụng cho mọi hoàn cảnh ở đời .
Các đức tính tạo thuận lợi cho xã hội đó, khi ta làm cho nó sâu sắc hơn, - và đây là việc của
một tầng lớp ưu tú nắm quyền cai trị phải đưa ra được cho dân chúng những hình mẫu và
những tấm gương, - cũng là những đức tính vô cùng nhân bản. Dưới sự chính trực sẽ có sự
công bằng và dưới lòng nhân ái sẽ là tình người. Tình người và sự công bằng, nhân và
nghĩa, ấy là hai đức tính căn bản của đạo đức Khổng giáo. Khổng Tử, Mạnh Tử, và các đồ đệ
gắn bó nhất của hai ông đã nói rất nhiều về hai khái niệm mà các ông cho là quan trọng
hàng đầu đó. Nhân, theo các ông, có thể tóm lại trong một từ: thương yêu, và nghĩa trong
một từ: tương hợp. Thương yêu người khác như chính mình, và đối xử với người khác cho
đúng cách, nghĩa là đúng như ta muốn người khác đối xử với ta, có phải tất cả đạo đức là
vậy đó thôi? Nhưng đối với quảng đại quần chúng, đối với những người không thể thực hành
toàn vẹn nhân và nghĩa, vì không thể thấu hiểu được hết tinh tuý của chúng, Khổng Tử
khuyên - và qua điều này ông tỏ ra là một nhà tâm lý sâu sắc, - đức tôn kính và lịch sự.
Nếu anh không thể thương yêu mọi người khác như chính mình, thì ít ra phải biết tôn trọng
họ, đúng như anh muốn họ cũng tôn trọng lại anh; và nếu không đạt được hết chữ nghĩa,
thì trong mọi quan hệ cần luôn giữ được các quy tắc của phép lịch sự: như vậy cũng có khi
anh không tránh được tỏ ra bất công, nhưng anh sẽ cần tránh hung bạo và thô lỗ, về mặt
xã hội như thế cũng đã là khá nhiều rồi.
Điều khác biệt của học thuyết này là nó hết sức khôn ngoan, nó tự hạn chế trong lĩnh vực
các quan hệ con người với con người và đặc biệt các quan hệ xã hội mà nó tìm cách quy
định tổ chức theo chiều hướng hài hoà và hoà hợp giữa con người với nhau. Ta nghĩ đến
những hiệu lực tốt đẹp nó vẫn còn có thể tạo ra trong xã hội hiện tại nơi con người không
còn đi tìm chút trật tự và yên bình, hài hoà và hoà hợp nào, nơi các cuộc đấu tranh quyền
lợi, giai cấp, chủng tộc, tư tưởng chia rẽ họ và đưa họ đối mặt chống nhau như những đối
thủ vĩnh cửu và thường khi là những kẻ thù bất cộng đối thiên.

Đương nhiên, học thuyết này, do chính tính chất xã hội và tích cực của nó, không phải là để
thoả mãn toàn bộ các nhu cầu của tâm hồn. Nhưng chớ nên đòi hỏi ở nó những gì nó không
thể cung cấp; phải hiểu mục đích nó đã tự xác định: củng cố trật tự xã hội cơ sở trên sự
công bằng và tình nhân ái và đem lại yên bình cho con người với nhau. Mục đích đó là khá
to lớn khá cao quý để bảo đảm tính bền vững của một học thuyết, dù không phải là một tôn
giáo, đã có sau lưng mình đến hai mươi thế kỷ hoạt động, - một số phận duy nhất từng có
trong suốt lịch sử tư tưởng của nhân loại, - và không phải đã đến lúc sắp kết thúc sự nghiệp
của nó, dầu các hiện tượng bên ngoài có là thế nào.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×