Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

8 cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.43 KB, 6 trang )

8 cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử Mỹ
(Thứ Năm, 04/12/2008 - 2:13 PM)
Cường quốc kinh tế số một thế giới không lạ lẫm với cụm từ suy thoái vì từ sau
thế chiến thứ nhất tới nay, đã 8 lần người dân nước này sống trong tình cảnh
này.
1. Suy thoái đầu năm 2000
Được châm ngòi bởi sự đổ vỡ của "khủng hoảng chấm com", vụ tấn công khủng
bố 11/9, và scandal kiểm toán, cuộc suy thoái kinh tế tại Mỹ trong 3 năm từ 2001
tới 2003 không chỉ ảnh hưởng lớn đến kinh tế Mỹ, mà còn tới nhiều quốc gia
châu Âu.
Sự đổ vỡ của các tập đoàn công nghệ trong cuộc khủng
hoảng chấm com đã châm ngòi cho giai đoạn suy thoái
đầu thế kỷ 21. Ảnh: wordpress.com.
Theo Cục Nghiên cứu
Kinh tế Quốc gia (NBER) sau 10 năm phát triển, quãng thời gian mở rộng dài
nhất của kinh tế Mỹ, việc nước Mỹ bước vào suy thoái vào đầu những năm 2000
đã được dự báo trước. Mọi chuyện được châm ngòi bởi sự đổ vỡ hàng loạt của
các công ty trong cuộc "khủng hoảng chấm com", tạo ra một làn sóng phá sản
của các công ty công nghệ và tin học. Kinh tế Mỹ tiếp tục bị giáng một đòn mạnh
khi vụ khủng bố 11/9/2001 nổ ra, từ đó khiến chỉ số công nghiệp Dow Jones và
các chỉ báo chính của thị trường chứng khoán trải qua tuần tồi tệ nhất trong lích
sử.
Dự đoán trước diễn biến tại Mỹ, các nước châu Âu đã giới thiệu đồng tiền chung
euro vào ngày 1/1/1999. Tuy nhiên, suy thoái vẫn khiến đồng euro giảm mạnh và
cho đến tận năm 2001, đây vẫn là một đồng tiền yếu, và chỉ mạnh trở lại sau
năm 2002.
2. Suy thoái cuối thập kỷ 90
Ngày thứ hai đen tối, tháng 9/1987, đà sụt giảm chưa từng có 22,6% trên chỉ số
Dow Jones là phát súng báo hiệu thời kỳ suy thoái tồi tệ nước Mỹ. Chỉ trong ba
năm, sự sụp đổ của thị trường tín dụng, và cho vay đã đe dọa tiền tiết kiệm của
hàng triệu người dân. Một loạt cường quốc chịu nhiều ảnh hưởng của Mỹ như


Canada, Australia, Nhật, hay Anh cũng bị cuốn theo vòng xoáy suy thoái.
Dù thị trường chứng khoán hồi phục khá nhanh nhưng thị trường bất động sản,
lao động, giá năng lượng, cán cân thương mại và GDP của Mỹ và một số quốc
gia khác vẫn đi xuống cho tới 2 năm sau khủng hoảng.
Không chỉ gây ảnh hưởng về kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp cao khiến các vẫn đề xã
hội trong những năm suy thoái, dưới thời Tổng thống George Bush "cha", như
nghiện rượu, ma túy cũng tăng theo.
3. Suy thoái đầu những năm 1980
Cuộc cách mạng tại Iran đã đẩy giá dầu thế giới tăng với tốc độ chóng mặt trong
thập niêm 70. Đây chính là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kéo dàn 30 tháng tại
Mỹ và được coi là lần suy thoái tồi tệ nhất kể từ đại khủng hoảng 1930. Giá năng
lượng đi lên kéo theo lạm phát gia tăng, đạt đỉnh 13,5% trong năm 1980, đã
buộc Cục Dự trữ Liên bang (FED) phải thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ.
Không chỉ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng một cách đáng lo ngại với từ
mức 5,6% của tháng 5/1979 lên 7,5% một năm sau đó. Bất kể kinh tế bắt đầu
hồi phục trong năm 1981, tỷ lệ thất nghiệp vẫn được duy trì ở mức cao kỷ lục
7,5% và đạt mức lịch sử 10,8% trong năm 1982.
Hậu quả của suy thoái lên ngành công nghiệp xe hơi, nhà đất, và sản xuất thép
tồi tệ đến nỗi các ngành trên liên tục sụt giảm trong 10 năm sau, cho tới tận khi
cuộc khủng hoảng tiếp theo kết thúc.
Đây cũng là lần suy thoái kéo dài qua hai nhiệm kỳ tổng thống, ông Jimmy Carter
từ 1977 đến 1981, và Ronald Reagan, từ 1981 tới 1989.
4. Khủng hoảng dầu mỏ những năm 1973
Bắt đầu vào ngày 15/9/1975, khủng hoảng dầu mỏ là hậu quả của việc các thành
viên OAPEC, gồm tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC và hai nước Ai Cập và
Syria, thực hiện cấm vận dầu mỏ với Mỹ và các quốc gia ủng hộ Israel trong
cuộc chiến với Ai Cập và Syria.
Trước đó vào năm 1971, việc Mỹ rút khỏi Chế độ tiền tệ Bretton Woods, hệ
thống quy định chung giữa các cường quốc, trong đó giá vàng chỉ được neo giữ
duy nhất vào đôla với giá 35 đôla một ounce, và tiến hành thả nổi đồng đôla là

tiền đề cho cuộc khủng hoảng. Lý do là hệ thống Bretton Woods đã giới hạn hoạt
động chi tiêu của nước Mỹ và thế giới do lượng vàng của là có hạn trong khi nhu
cầu sử dụng tiền lại lớn hơn rất nhiều. Việc Mỹ in tiền phục vụ cho việc tài trợ
cho Chiến tranh Việt Nam hoặc viện trợ cho các nước khác đã khiến đôla mất
giá, và tăng lạm phát.
Trong giai đoạn khủng hoảng dầu mỏ, tại nhiều bang
mỗi người dân chỉ được phép mua một lượng xăng dầu
nhất định. Ảnh: waidev2.com.
Để xóa bỏ sự bất hợp
lý trên, vào tháng 8/1971 Tổng thống Nixon đã phải rút hẳn khỏi hệ thống Bretton
Woods và tiến hành thả nổi đồng tiền. Điều chỉnh trên khiến thu nhập của các
nước xuất khẩu dầu giảm sút và các nước này buộc phải có điều chỉnh để tăng
giá dầu.
Hậu quả của việc cấm vận dầu lửa là giá dầu tại thị trường thế giới đã bị đội lên
gấp 5 lần từ dưới 20 đôla một thùng vào 1971 lên 100 đôla một thùng vào 1979,
giá xăng trung bình tại Mỹ cũng tăng 86% chỉ trong 1 năm từ 1973-1974. Cuộc
khủng hoảng đồng thời tác động xấu đến thị trường tài chính, chứng khoán toàn
cầu, vốn đã chịu nhiều áp lực sau sự sụp đổ của Chế độ Bretton Woods. Thị
trường chứng khoán Mỹ bốc hơi 97 tỷ đôla, số tiền khổng lồ vào thời điểm đó,
chỉ sau một tháng rưỡi. Suy thoái và làm phát diễn ra tràn lan gây ảnh hưởng tới
kinh tế Mỹ và nhiều quốc gia khác cho tới tận thập niên 80.
Không dừng lại ở đó, khủng hoảng dầu mỏ đã tạo ra thay đổi lớn trong chính
sách của phương tây, trong đó chú trọng tìm kiếm và bảo tồn năng lượng tự
nhiên, cũng như đặt ra các quy định tiền tệ chặt chẽ hơn để chống lạm phát.
Trái lại, biến cố trên góp phần thay đổi đáng kể vị thế chính trị, kinh tế của các
nước xuất khẩu dầu, đặc biệt các quốc gia Ả-rập tại khu vực Trung Đông.
5. Suy thoái năm 1958
Trong 2 năm trước khi khủng hoảng diễn ra, chính sách thắt chặt tiền tệ và cắt
giảm đầu tư tại Mỹ khiến tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Tại Detroit, trái tim của ngành
công nghiệp xe hơi, tỷ lệ thất nghiệp đạt mức 20% trong tháng 4/1958 . Doanh

số bán xe giảm tới 31% trong năm 1957, và biến năm 1958 thành năm tồi tệ nhất
cho các nhà sản xuất xe kể từ sau kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần II. Nhu cầu
nhập khẩu tại Mỹ vẫn cao trong khi châu Âu lại giảm nhập khẩu từ Mỹ khiến
thâm hụt thương mại leo thang.
Tệ hơn nữa, thay vì mặt bằng giá giảm, điều thường xảy ra khi suy thoái, giá cả
trong giai đoạn 1957 đến 1959 lại leo thang. Thực tại trên đã gây không ít hoang
mang cho các nhà kinh tế trong quãng thời gian này.
Nhiều quốc gia chưa phát triển sống dựa vào xuất khẩu tài nguyên như vật liệu
thô, khoáng chất, hoặc sản phẩm nông nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn do nhu
cầu sụt giảm tại Mỹ và châu Âu.
6. Suy thoái năm 1953
Dù chỉ kéo dài trong 10 tháng, bắt đầu từ quý II /1953 tới quý I/1954, cuộc suy
thoái năm 1953 vẫn gây thiệt hại ước tính lên tới 56 tỷ đôla cho nước Mỹ.
Nguyên nhân suy thoái bắt đầu từ một số biến động chính trị, kinh tế những năm
đầu thập niên 50. Trong đó, lạm phát leo thang bắt đầu từ 1951, sau chiến tranh
Triều Tiên, khiến lãnh đạo FED dự đoán năm 1952 lạm phát sẽ còn cao hơn.
Trước tình hình đó, FED đã áp dụng chính sách tài khóa thắt chặt, thể hiện ở
việc cắt giảm chi tiêu Chính phủ, tăng thuế, lãi suất, và tích lũy dự trữ. Chính các
biện pháp mạnh tay trên đã tạo ra sự bi quan trong người dân, dẫn đến việc
giảm chi tiêu tăng tiết kiệm, gây suy giảm tổng cầu của nền kinh tế.
7. Suy thoái năm 1947
Lần suy thoái này của nước Mỹ bắt nguồn từ những bước tiền thần tốc của giai
đoạn hồi phục kinh tế sau chíến tranh thế giới. Tính tới đầu năm 1947, nước Mỹ
chiếm tới 50% tổng sản lượng nông nghiệp toàn thế giới, trước chiến tranh thế
giới con số này chỉ là 30%, tỷ lệ thất nghiệp của nước Mỹ cũng ở mức thấp kỷ
lục khi gần như 100% người lao động có việc làm. Năm 1947 chính là giai đoạn
kinh tế Mỹ đạt đỉnh của chu kỳ tăng trưởng sau chiến tranh. Cũng từ thời điểm
này, ngoại trừ lương thực, nhu cầu tiêu thụ hàng hóa nói chung của nước Mỹ đã
trở nên bão hòa do hàng hóa được sản xuất nhiều tới mức thừa mứa.
Dù Tổng thống Truman cũng như nội các của ông đã dự đoán được rủi ro từ lạm

phát cũng như những bất ổn kinh tế, nhưng lãnh đạo nước Mỹ lại không tính tới
lạm phát gia tăng tại phần còn lại của thế giới. Dù hậu quả của cuộc suy thoái
1947 là không quá tồi tệ nhưng nó cũng đủ gây trì trệ kinh tế, khiến nhiều doanh
nghiệp phá sản cũng như tỷ lệ thất nghiệp leo thang.
8. Đại suy thoái năm 1930
Cuộc đại suy thoái hay còn gọi là đại khủng hoảng diễn ra cách đây đã gần 8
thập kỷ nhưng vẫn ghi dấu ấn là giai đoạn suy sụp kinh tế tồi tệ nhất trong lịch
sử hiện đại. Bắt đầu vào năm 1929 và kết thúc vào thởi điểm chuyển giao giữa
hai thập niên 30 và 40, cuộc suy thoái có sức ảnh hưởng hủy diệt với kinh tế
toàn cầu, cả các nước phát triển và đang phát triển. Mọi khía cạnh của nền kinh
tế từ sản xuất, tiêu dùng, thương mại, thu nhập cá nhân, hoạt động tiêu dùng, thị
trường lao động, lạm phát đều chịu ảnh hưởng xấu. Các nước phụ thuộc nhiều
vào công nghiệp chịu tác động sâu sắc nhất. Ngoài ra khu vực nông nghiệp cũng
điêu đứng khi giá ngô, một trong những nông sản chính tại phương tây, giảm tới
60%.
Bức ảnh nổi tiếng của Nhiếp ảnh gia
Dorothea Lange về một bà mẹ di cư
được coi là hình ảnh tiêu biểu cho
khó khăn của người dân trong giai
đoạn đại khủng hoảng. Ảnh:
blogs.zdnet.com.
Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân
cho cuộc suy thoái, chẳng hạn như sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng hay
thị trường chứng khoán, được đánh dấu bằng "ngày thứ ba đen tối" 29/10/1929,
hay suy giảm giao dịch quốc tế do Mỹ tăng thuế. Tuy nhiên, ý kiến chung được
nhiều nhà kinh tế đồng thuận, trong đó có cả đương kim Chủ tịch FED, ông Ben

×