Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Suy thoái kinh tế Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.93 KB, 15 trang )

Pham Thanh Tra - 2007
SUY THOÁI KINH TẾ NHẬT BẢN THẬP KỶ 90
Lời mở đầu:
Cuộc suy thoái kinh tế ở Nhật Bản trong thập kỷ 90 luôn được lấy làm ví dụ
minh họa cho nhiều mô hình và lý thuyết kinh tế học như tỷ giá hối đoái, lãi suất
chiết khấu, chính sách tài khóa và tiền tệ, tiêu dùng, và thậm chí cả sự can thiệp của
chính phủ vào thị trường, một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Tôi chọn đề tài này để
nghiên cứu nhằm hiểu sâu thêm các lý thuyết đó. Việc tập trung tìm hiểu một hiện
tượng kinh tế cụ thể và tiêu biểu như cuộc suy thoái kinh tế Nhật Bản sẽ đem lại
không chỉ một cái nhìn sinh động về kinh tế học mà cả sự gắn kết cho những giả
thuyết, những mô hình vốn được đề cập một cách rời rạc và trừu tượng.
Nghiên cứu này được kết cấu theo trình tự thời gian như sau:
• Sự hình thành nền kinh tế bong bóng (1985-1989)
• Nền kinh tế bong bóng nổ tung (1990-1993)
• Những dấu hiệu mờ nhạt của sự khôi phục kinh tế (1994-1996)
• Giai đoạn khủng hoảng trầm trọng (1997-1999)
Mỗi phần lại bao gồm hai mảng chính là hiện tượng kinh tế và phản ứng của
chính phủ.
***
I. Sự hình thành nền kinh tế bong bóng (1985-1989)
Tháng 9/1985, bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương của
các nước thuộc nhóm G5 (Mỹ, Anh, Pháp, Tây Đức, Nhật) họp tại khách sạn Plaza
ở New York để bàn luận về cách khắc phục cán cân thương mại mất cân bằng giữa
Mỹ, Nhật và Tây Đức, trong đó vấn đề nổi cộm là làm sao để giảm thâm hụt thương
mại của Mỹ. Vào thời điểm này, nước Mỹ đang bị thâm hụt thương mại nặng nề do
chính sách kinh tế của Tổng thống Reagan với đồng USD mạnh và lãi suất cao.
Ngày 22/9/1985, các quốc gia G5 đã đạt được Thỏa ước Plaza, theo đó, đồng
yên và đồng mác sẽ được đánh giá lại và đồng USD sẽ được giảm giá. Lúc đó, đồng
yên trị giá khoảng 240 yên ăn 1 USD, song Nhật cho rằng phạm vi 210-200 yên / 1
USD là có thể chấp nhận được và điều này đã được chấp nhận trên thực tế. Về sau,
1


Pham Thanh Tra - 2007
tỷ giá hối đoái đã phá vỡ mức 200 yên / 1 USD và tiếp tục tăng tới mức 150 yên / 1
USD vào cuối năm 1986. Do đồng yên tăng giá, xuất khẩu của Nhật giảm, khiến
kinh tế Nhật phát triển chậm lại. Năm 1985, tốc độ tăng trưởng kinh tế Nhật ở mức
4,4% nhưng đến năm 1986 chỉ còn 2,2%.
Tháng 2/1987, các nước G6 (thêm Canada) ký thỏa ước Louvre. Mục đích của
thỏa ước này là bình ổn thị trường tiền tệ quốc tế và ngăn chặn sự mất giá liên tục của
đồng USD do tác dụng của thỏa ước Plaza. Tuy nhiên, thỏa ước này có ít tác dụng và
sau một vài tháng chững lại, đồng yên lại tiếp tục tăng giá, đạt 120 yên / 1 USD vào
đầu năm 1988.
Các ngành công nghiệp xuất khẩu của Nhật Bản lâm vào tình trạng khó khăn
do đồng yên lên giá. Những nỗ lực để giải quyết cuộc khủng hoảng này được biểu
hiện dưới nhiều hình thức. Ngoài việc cắt giảm các chi phí sản xuất, các doanh
nghiệp còn chuyển sản xuất ra nước ngoài như một giải pháp thay thế xuất khẩu. Ở
một số sản phẩm như radio, tivi màu và các đồ điện gia dụng khác, tỷ lệ sản xuất ở
nước ngoài đã lên tới đỉnh cao là 50%, trong một số trường hợp còn lên tới 60-70%.
Thái Lan, Malaysia và một vài nơi khác ở châu Á là địa điểm được lựa chọn để sản
xuất các linh kiện, phụ tùng máy móc “made in Japan”. Do đó, tình trạng thất
nghiệp ở Nhật bắt đầu gia tăng.
Để phản ứng lại cuộc suy thoái do tỷ giá hối đoái gây ra, chính phủ Nhật sử
dụng chính sách tiền tệ mở rộng bằng cách giảm lãi suất chiết khấu (Biểu đồ 1).
Trong khoảng thời gian từ năm 1985 đến 1987, lãi suất chiết khấu của Ngân hàng
Nhật Bản (Bank of Japan – BOJ) đã giảm đáng kể, đạt mức thấp chưa từng thấy
trước đó là 2,5%.
Suy thoái đã kéo dài suốt cho đến tháng 3, tháng 4/1987. Tuy nhiên, vào đầu
mùa xuân năm 1987, kinh tế Nhật đã có sự chuyển biến rộng khắp. Giá cả nguyên
vật liệu nhập khẩu giảm rõ ràng đã mang lại lợi nhuận cho các ngành công nghiệp
điện, khí đốt và các ngành khác có nhiệm vụ cung cấp hàng hóa và dịch vụ trong
lãnh thổ nước Nhật. Giá nhập khẩu giảm chủ yếu do ảnh hưởng của sự sụt giảm giá
dầu thô, mặt hàng nhập khẩu quan trọng nhất của Nhật Bản (Biểu đồ 2).Vì giá ở

nước ngoài tương đối ổn định nên các công ty đã không thể chuyển được gánh nặng
của đồng yên mạnh hơn bằng cách tăng giá ở nước ngoài lên được mà phải cắt giảm
giá bằng cách hợp lý hóa các hoạt động của mình và sản xuất nhiều hơn ở nước
ngoài. Việc các hàng chế tạo nhập khẩu từ chỗ chiếm 1/4 tổng kim ngạch nhập khẩu
2
Pham Thanh Tra - 2007
vào năm 1985 đã tăng vọt lên gần một nửa vào năm 1987 (Biểu đồ 3), phản ánh
việc nhập khẩu các linh kiện và phụ tùng tăng mạnh.
Biểu đồ 1
Biểu đồ 2
Giá dầu thô (1865-2005)
Biểu đồ 3
3
Pham Thanh Tra - 2007
Mặc dù giá hàng xuất khẩu có giảm (nhờ giá nguyên vật liệu giảm) song vẫn
không bù đắp được tác động của đồng yên giá cao. Kim ngạch xuất khẩu giảm
mạnh. Tuy vậy, sự phục hồi nhanh chóng của hoạt động đầu tư và của các khu vực
khác của kinh tế Nhật đã khiến cho tăng trưởng kinh tế, từ năm 1985, phải dựa vào
cầu nội địa. Trước năm 1985, cầu nước ngoài tăng liên tục; song từ năm 1986, cầu
nước ngoài đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng và sự phục hồi chỉ do cầu nội địa
thúc đẩy (Biểu đồ 4).
Biểu đồ 4
4
Pham Thanh Tra - 2007
Sự phục hồi này làm cho đầu tư tư bản được mở rộng, không chỉ trong ngành
công nghiệp ô tô và máy điện như dự tính mà còn cả trong các ngành thương mại và
dịch vụ. Một trong những đặc trưng của thời kỳ này là sự tăng vọt đầu tư xây dựng
nhà cửa và các tòa cao ốc văn phòng.
Như vậy, sự phồn vinh và tăng trưởng kinh tế đã xuất hiện trở lại dựa vào
cầu nội địa. Nhưng “con sâu bỏ rầu nồi canh” là chính sách tiền tệ. Như đã nói ở

trên, lãi suất chiết khấu chính thức của BOJ đã giảm xuống tới mức thấp lịch sử vào
cuối giai đoạn 1985-1987. Tuy nhiên, mức lãi suất này còn tồn tại trong suốt hai
năm nữa cho đến tận năm 1989. Tín dụng đã trở nên quá dễ dãi. Bất cứ ai cũng có
thể vay ngân hàng miễn là họ có nhà đất để thế chấp. Về sau, ngay cả những người
không có đủ nhà đất để thế chấp cũng có thể vay được, thậm chí các bà nội trợ còn
vay ngân hàng để mua nhà. Các công ty thì mặc dù có đủ khả năng để đầu tư vào
nhà máy và thiết bị song họ vẫn tiếp tục gây thêm quỹ, chủ yếu nhằm tìm kiếm
những lợi ích về vốn do việc tiến hành đầu tư tài chính mang lại. Tương tự, trong
lĩnh vực bất động sản cũng có tình trạng đầu tư tràn lan. Các khoản lợi nhuận khổng
lồ đã thúc đẩy người dân và doanh nghiệp đua nhau đầu tư. Thậm chí từng cá nhân
cũng có thể mua được xe hơi và các tác phẩm nghệ thuật đắt tiền nhờ các khoản thu
nhập từ đầu tư tài chính và bất động sản. Hầu hết số tiền cho vay của ngân hàng đều
đổ vào lĩnh vực thương mại, bất động sản và các dịch vụ phi ngân hàng, trong khi
các khoản cho vay đối với các ngành chế tạo lại không tăng. Tình trạng này làm cho
giá bất động sản và giá chứng khoán bị đẩy lên rất cao (Biểu đồ 5).
Biểu đồ 5
II. Nền kinh tế bong bóng nổ tung (1990-1993)
5
Pham Thanh Tra - 2007
Chỉ khi nền kinh tế bong bóng đạt tới sự mở rộng tối đa của nó thì BOJ mới
tiến hành thắt chặt tín dụng. Năm 1990 giá chứng khoán bắt đầu giảm nhưng giá bất
động sản còn tiếp tục tăng mạnh cho tới năm 1991. Sự tăng giá bất động sản bắt đầu
ở Tokyo, rồi lan đến Osaka và Nagoya rồi các thành phố khu vực khác; sự giảm giá
bất động sản cũng đi theo con đường đúng như vậy.
Từ năm 1989, việc thắt chặt tín dụng được thực hiện do những quan ngại của
chính phủ về sức nóng của thị trường và về nguy cơ lạm phát do chiến tranh Vùng
Vịnh 8/1990 gây ra. Đến năm 1990, lãi suất chiết khấu đã cao ở mức 6% (Biểu đồ
1). Nền kinh tế bong bóng của Nhật đã đến lúc sụp đổ.
Giá trị chứng khoán và bất động sản bắt đầu giảm xuống, tuy chậm nhưng
liên tục (Biểu đồ 5). Vấn đề là số tài sản này lại được mua bằng tiền đi vay, do đó

sự giảm giá của chúng đã trực tiếp làm giảm giá trị của các công ty trong khi họ vẫn
phải trả lãi suất rất cao cho ngân hàng. Số công ty phải chịu các khoản lỗ tiềm tàng
này ngày càng tăng lên. Có thể nói, cuộc suy thoái này được đặc trưng bởi những
vết thương ngày càng sâu sắc do sự sụt giảm giá trị tài sản và sự gia tăng số nợ khó
đòi. Điều mà Cơ quan Kế hoạch hóa kinh tế (Economic Planning Agency – EPA)
lúc đầu coi là một sự thụt lùi chút ít về kinh tế đã làm người ta ngạc nhiên về độ dài,
tầm ảnh hưởng sâu rộng và mức độ gay gắt của nó.
Những điểm yếu bắt đầu bộc lộ: ngân hàng và các tổ chức tài chính khác đã
cho vay quá dễ dãi trong thời kỳ kinh tế bong bóng, và giờ đây đang phải chịu các
khoản lỗ tiềm ẩn khổng lồ. Các tổ chức tài chính phải thanh toán một lượng đáng kể
các khoản nợ xấu, các công ty chứng khoán lỗ nặng. Cả cá nhân và doanh nghiệp
đều khó đối phó được với những thay đổi về tài sản của mình. Hoạt động đầu tư trở
nên ảm đạm. Thất nghiệp cũng tăng cao, làm giảm mức sống của người dân. Do đó,
cầu tiêu dùng giảm kéo theo sự sụt giảm của giá cả.
Để đối phó với tình trạng đó, BOJ giảm lãi suất chiết khấu từ 6% xuống còn
1,75% (9/1993), chính phủ Nhật đồng thời tăng chi tiêu, nhằm kích thích sự tăng
trưởng của nền kinh tế đang trên đà khủng hoảng.
III. Những dấu hiệu mờ nhạt của sự khôi phục kinh tế (1994-1996)
Chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng của chính phủ như đã trình bày ở trên
không đủ mạnh để đem lại kết quả mong đợi. Kinh tế Nhật Bản vẫn tuột dốc không
phanh.
6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×