Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Bệnh loại trúng phong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.32 KB, 26 trang )

Nội khoa- Ngoại cảm
LOẠI TRÚNG PHONG
BỆNH LOẠI TRÚNGPHONG
Sở dĩ gọi là loại trúng, là vì chứng trạng của nó với chứng Chân trúng
phong giống nhau, mà thực thời khác nhau rất xa. Nhưng ở trong chứng loại
trúng có khi kiêm cả chứng Chân trúng, về quan điểm này ta phải xem xét cho
tinh vi mới được. Phàm thuộc về chứng Chân trúng tất phải liên quan tới Kinh,
Lạc phần nhiều phát sinh ra chứng mắt xếch, miệng méo, bán thân bất toại…So
với chứng Loại trúng chuyên bởi khí mà gây nên bệnh, tự nhiên không giống
nhau. Nhưng phong nhờ cái thế của Hoả tà thừa hư mà vào, Hànvới Phong cùng
chọi lẫn nhau, Thử với phong cùng hun nhau…và uống ăn cũng gây nên phong,
các biến chứng đó ta thường thấy luôn, cần phải luận chứng cho tinh.
Nếu hẳn là Chân trúng phong thời đã có phương pháp khu phong, Nếu là
Loại trúng phong thời theo phép chữa dưới đây, còn như Chân trúng và Loại
trúng xen lẫn với nhau, thì nên theo cả hai môn mà chọn lọc điều trị, như vậy
mới khỏi sai lầm.
Bệnh Loại trúng phong chia làm 8 loại:
1. Hoả trúng
2. Hư trúng
3. Tháp trúng
4. Hàn trúng
5. Thử trúng
6. Khí trúng
7. Thực trúng
8. Ác trúng
BỆNH HOẢ TRÚNG
63
Nội khoa- Ngoại cảm
LOẠI TRÚNG PHONG
Nguyên nhân: Vì “Ngũ chí” quá cực, khiến cho Tâm hoả bốc mạnh,
nhiệt khí nung nấu, gây nên chứng bỗng dưng ngã lăn, mê man không biết gì


gọi là Hoả trúng.
Bệnh trạng: Bệnh nhân bỗng dưng ngã lăn ra, tâm thần mê man không
biết gì, gân xương không cử động được. Nếu vì Hung cách nhiệt, thời có chứng
Hung cách phiền nhiệt, đại tiện táo, nói mê lảm nhảm, phát cuồng, mạch Huyền
và Đại. Nếu Can đởm có nhiệt thì có chứng “vãng lai hàn, nhiệt”, trong miệng
đắng…Nếu vì Thận thuỷ bất túc mà Thận hoả bốc lên, thì có chứng phát nhiệt,
miệng khát, tiểu tiện nhỏ giọt hoặc vít, khí nghẽn lên,ho đờm rãi, chóng mặt,
váng đầu, mắt hoa, tai ù, họng khô, răng đau, lưng và đùi mỏi, tiện huyết và thổ
huyết…
Biến chứng: Nếu để lâu không chữa thời Hoả càng thịnh, hôn mê
không tỉnh, kinh mạch ngừng trệ, khí huyết không lưu thông, dần dần vít lấp mà
chết.
Phương pháp trị liệu: Dùng An cung ngưu hoàng hoàn để cho khai
thông bỏ sự vít lấp, chờ khi nào tinh thần hơi tỉnh sẽ theo phương pháp dưới đây
mà điều trị:
- Nếu bệnh nhân Hung cách phiền nhiệt, đại tiện táo, nói mê phát cuồng,
mạch Huyền…cho uống bài Lương cách tán.
- Nếu do Can Đởm nhiệt mà phát sinh chứng “vãnglai hàn,nhiệt”, miệng
đắng cho uống bài Tiểu sài hồ thang.
- Nếu do Thận thuỷ bất túc, hư hoả bốc lên, tất phát sinh chứng phát nhiệt
và khát, tiện huyết, thổ huyết…cho uống Lục vị địa hoàng thang.
- Trong khi điều dưỡng nên uống xen “Ngũ trấp ẩm” để giúp thêm sức
thuốc.
64
Nội khoa- Ngoại cảm
LOẠI TRÚNG PHONG
BÀI THUỐC
AN CUNG NGƯU HOÀNG HOÀN
(Xem ở môn Thương phong)
LƯƠNG CÁCH TÁN

(Cục phương)
Liên kiều 4 lạng Đại hoàng 2 lạng
Mang tiêu 2 lạng Cam thảo 2 lạng
Hoàng cầm 1 lạng Bạc hà 1
lạng
Chi tử 1 lạng
Các vị trên tán bột, mỗi lần dùng 3 đ/c, gia thêm Trúc diệp 3 đ/c và 1 thìa
Bạch mật, đun với 3 bát nước, cạn còn 1 bát, bỏ bã, uống 1 lần.
Phương giải: Đây là 1 bài thuốc tả thực hoả ở Thượng và Trung tiêu.
Theo Nội kinh : “nhiệt phạm nhiều ở bên trong chữa bằng những vị có tính chất
hàm hàn, Tá bằng những vị khổ cam” cho nên dùng Hoàng cầm, Liên kiều,
Trúc diệp, Bạc hà tả hoả Thượng tiêu; Dùng Đại hoàng, Mang tiêu là thứ mãnh
dược để tả nhiệt ở Trung tiêu, khiến cho trên thì bốc lên, dưới thời dẫn xuống,
mà ở trong Cách sẽ được trong sạch. Dùng Cam thảo và Bạch mật là vì bệnh ở
Cách, nên dùng vị cam để cho hoãn lại. Nếu chuyên chữa về ôn nhiệt thời hành,
thì dùng Trúc diệp. Nếu trị về chứng cảm mạo thời dùng Thông bạch và Cương
tàm. Trương Khiết Cổ dùng bài này giảm Mang tiêu, Đại hoàng gia Cát cánh
làm con thuyền chở nổi lên, để trị các chứng nhiệt ở Thương tiêu thực là một sự
biến thông rất khéo.
TIỂU SÀI HỒ THANG
(Xem ở môn Thương hàn)
65
Nội khoa- Ngoại cảm
LOẠI TRÚNG PHONG
LỤC VỊ ĐỊA HOÀNG THANG
(Tiền Ất)
Sinh địa 8 đ/c Hoài sơn 4 đ/c
Sơn thù 4 đ/c Đan bì 3 đ/c
Bạch linh 3 đ/c Trạch tả 3 đ/c
Các vị đều tán bột, luyện mật viên bằng hạt ngô, mỗi lần nuốt 30 viên,

tiêu bằng nước muối nhạt. bài này dùng làm thang đun uống cũng được.
Chủ trị: Chữa Thận khí không đủ, hư hoả bốc lên, lưng và gối mỏi yếu,
rức âm ỉ ở trong xương. Xương ở gót chân nóng. Tiểu tiện nhỏ giọt hoặc bí kết,
hoặc bất cấm. Di tinh, mộng tiết tinh, thuỷ khí tràn lên hoá đờm. Tự hãn, đão
hãn, vong huyết, tiêu khát, váng đầu, hoa mắt , tai ù, răng đau và Xích mạch
Hư, Đại.
Phương giải: Thận hư không hay chứa được tinh khiến cho cái hoả ở
Khảm cung chẳng nương tựa vào đâu, mà bốc đi càn. Dưới thời không lấy gì
mà phát triển được sức thăng sinh của Can mộc, trên thời tuyệt mất nguồn sinh
hoá của Phế Kim. Đại hoàng bẩm thụ tính Cam hàn, chế thành Thục địa thời vị
hậu, như vậy là theo đúng nghĩa “Tinh không đủ thời lấy vị để bổ”, nên dùng nó
đại bổ Thận âm, điền bổ tinh tuỷ, làm mạnh cho nguồn gốc của Thuỷ. Dùng
Trạch tả làm sứ, đời hoặc có người e là nó tả Thận mà giảm bỏ đi, song không
biết một âm một Dương là theo cái đạo của trời đất; một đóng một mở là theo
cái cơ động tĩnh. Tinh thuộc về Âm thuỷ, tĩnh mà không tẩu, nó là cái thể của
Thận. Niệu thuộc về Dương thuỷ, động mà không ngừng, nó là cái dụng của
Thận. Thận chủ về năm chất dịch, nếu Âm thuỷ không yên giữ một nơi, thời
Chân thuỷ sẽ bất túc, Dương thuỷ không lưu hành, tà thuỷ sẽ tràn lan, cho nên
dùng Địa hoàng làm Quân, để làm bền kín lại gốc, thời dùng ngay Trạch tả để
khai thông thuỷ đạo cho khỏi trệ. Nhưng Thận hư không bổ ngay từ mẹ, không
khơi cái nguồn trên của nó, thời không sao làm bền vững được căn bản, vì vậy
dùng vị Sơn dược có vị lương để bồi đắp cái nguồn tên ấy. Dùng Phục linh
66
Nội khoa- Ngoại cảm
LOẠI TRÚNG PHONG
đạm-thấm, để khơi con đường chảy của Nhâm thuỷ; lại gia Thù du có khí vị
toan ôn, một là để thu cái hoả của Thiếu dương, hai là để nhuận cái chất dịch
của Quyết âm. Đan bì vị tân hàn để thanh cái hoả của Thiếu âm, rồi giúp thêm
cho cái khí Thiếu dương. Hoá nguyên đã thấm nhuần, tinh khí đã được bồi bổ,
do đó Thiên quý sẽ yên nơi ở của mình. Còn như giảm thuỷ chế hoả, chẳng qua

là đứng về một phương diện mà thôi.
NGŨ TRẤP ẨM
(Xem ở Ôn bệnh)
BỆNH HƯ TRÚNG
Nguyên nhân: Bệnh nhân vì làm lụng quá độ, thương tới Tỳ khí; hoặc
Tỳ, Vị vốn hư, vì hư sinh đờm, vì đờm sinh ra úng khí, gây nên thành bệnh hư
trúng, hoặc có khi vì phòng lao quá độ thương tới Thận khí; hoặc do Thận khí
vốn hư, hư hoả bốc lên, gây nên bệnh hư trúng.
Bệnh trạng: Bệnh hư trúng sắc mặt vàng úa, tinh thần tiều tuỵ, bỗng
dưng ngã lăn, tâm thàn hôn mê, mạch án vào Hư, Nhuyễn. Nếu vì Trung hư thời
kiêm cả chứng đại tiện lỏng nát và Trung khí hạ hãm. Nếu vì Thận hư bệnh tất
phải kiêm chứng lưng đau, đùi đau mỏi, váng đầu, chóng mặt,,,
Biến chứng: Bệnh hư trúng để lâu không chữa, thời bệnh nhân ngày
càng hư, hơi thở gấp mồ hôi lạnh toát ra, mạch nhỏ như sợi tơ, đó là thời kỳ khí
chân gnuyên sắp thoát. Nếu lại tiểu tiện không biết, tứ chi quyết lãnh, mạch đến
lúc mau lúc thưa, đó là thời kỳ sắp tuyệt. Đều là những chứng hậu rất nguy
hiểm.
Phương pháp trị liệu: Bệnh hư trúng: Nếu là Trung hư mà đại tiẹn
lỏng và khí hư hạ hãm…uống bài Bổ trung ích khí thang, bài lục quân tử cũng
nên uống. Nếu là Thận hư dùng bài Sinh mạch bổ tinh thang hoặc bài Lục vị địa
hoàng hoàn.
67
Nội khoa- Ngoại cảm
LOẠI TRÚNG PHONG
Nếu tới thời kỳ thở gấp, mồ hôi lạnh toát ra, mạch như sợi tơ…kíp cứu
huyệt “Quân nguyên” để cho đỡ sự nguy hiểm dã, rồi cho uống bài Sâm- phụ
thang. Nếu tiểu tiện không biết, tay chân giá lạnh dùng bài Tứ nghịch thang.
BỔ TRUNG ÍCH KHÍ THANG
(Lý Đông Viên)
Hoàng kỳ 1,5 đ/c Bạch truật 1,5 đ/c

Nhân sâm 1,5 đ/c Cam thảo 1 đ/c
Trần bì 0,5 đ/c Đương quy 1 đ/c
Thăng ma 0,5 đ/c Sài hồ 0,5 đ/c
Sinh khương 2 lát Đại táo 2 quả
Đun với 3 bát nước cạn còn 1 bát, bỏ bã, uống làm 1 lần.
Chủ trị: Chữa Âm hư nội nhiệt, nhức đầu, miệng khát, phù nhiệt, tự
hãn, không chịu được Phong hàn, mạch Hồng Đại, Tâm phiền không yên, tứ chi
mỏi mệt, nói năng bợt bạt, không thể vận động thời thành ra thở xuyễn.
Phương giải: Ông Trọng Cảnh có hai phương pháp là Kiến trung và
Lý trung. Nếu phong Mộc phạm vào Trung khí thời dùng Cam thảo, Di đường,
Đại táo để bồi Thổ chế ngự Mộc, Can khương, Quế chi, Bạch thược để bình
Mộc, khu phong cho nên gọi Kiến trung. Hàn thuỷ ngưng đọng ở Trung khí thời
dùng Sâm, Truật, Cam thảo để bồi Thổ chế thuỷ, Can khương làm Tá để sinh
Thổ ngự hàn, cho nên gọi là Lý trung. Đến như vì mỏi mệt, hình khí hao mòn
do Âm hư mà sinh ra nội nhiệt, các chứng trạng hiện ra ngoài Biểu cũng giống
như Ngoại cảm. Chỉ có Lý Đông Viên biết là do sự mỏi mệt làm thương đến Tỳ,
cốc khí không dủ năng lực phát triển, khiến cho Dương khí hãm vào trong Âm
mà phát nhiệt. Đặt ra phương pháp Bổ trung ích khí, cho là Phong hàn bên
ngoài làm thương đến hình, thuộc về hữu dư; Tỳ, Vị thương bên trong thời đó là
bất túc. Theo Nội kinh “Bị lao thời dùng phép ôn, bị tổn dùng phép ích…” rất
kiêng kỵ vị khổ hàn, lựa những vị cam ôn làm cho Dương khí bốc lên, để dạt
68
Nội khoa- Ngoại cảm
LOẠI TRÚNG PHONG
cái mục đích thăng-sinh của khí dương Xuân. Phàm Tỳ, Vị một khi bị hư, thời
Phế khí bắt đầu tuyệt; cho nên dùng Hoàng kỳ đạt ra ngoài bì mao mà vít lấp
tấu lý, khiến cho khỏi chứng tự hãn, vì Nguyên khí bất túc nên nói năng bợt bạt,
hơi thở Suyễn, nên dùng Nhân sâm để bổ, lại dùng vị cam của Cam thảo để tả
thực hoả mà trừ chứng phiền do đó sẽ bổ thêm cho Tỳ mà sinh khí. Ba vị trên là
thánh dược để trị chứng phiền nhiệt. Dùng Bạch truật làm Tá để kiện Tỳ;

Đương quy để hoà huyết, vì khí loạn ở trong Hung khiến cho thanh trọc lẫn lộn
với nhau, nên dùng Trần bì để phân chia cho khỏi lẫn lộn và làm tan cả tính trệ
của các vị cam dược kia. Vì thanh khí trong Vị hãm xuống cho nên dùng vị
Thăng ma, Sài hồ là hai thứ khí thanh mà vị bạc, để dẫn cho Vị khí bốc lên trở
về bản vị, do đó phát triển được đầy đủ công năng sinh trưởng. Trong bài thuốc
Bổ trung mà dùng những vị phát Biểu, khiến cho bên trong sẽ được yên. Trong
bài thuốc ích khí mà dùng những vị thanh- khí, nhờ vậy mà khí được bồi bổ
thêm, đó là một phương pháp dùng thuốc giúp ích lẫn nhau. Ta có thể dùng nó
để bổ Tỳ khiến cho địa đạo ở thấp dẫn hành lên trên. Cũng có thể dùng nó để bổ
Tâm, Phế, vì Phế bị tổn thì nên ích khí, mà Tâm bị tổn nên diều hoà Doanh Vệ.
Ta lại có thể dùng nó để bổ Can, vì Mộc uất có thể làm cho nó đạt ra. Riêng
không nên dùng với chứng bệnh thuộc về Thận, vì Âm hư ở dưới thì không nên
làm cho thăng, mà Dương hư ở dưới thì càng không nên làm cho thăng vậy.
Phàm những bài thuốc chữa về Tỳ, Vị của Đông Viên đều là ích khí. Như bài
này giảm bỏ Đương quy, bạch truật mà gia Mộc hương, Xương truật tức là bài
Điều trung; gia thêm Mạch đông. Ngũ vị tức là bài thanh thử…xem đó nghề
làm thuốc không cần phải theo đúng phương, mà lúc nào cũng cần có phương
để làm khuôn mẫu.
Triệu Hiến Khả nói: “Hậu thiên Tỳ thổ nếu không nhờ được cái khí của
Tiên thiên thời không thể lưu hành. Khí đó vì sự nhọc mệt mà hãm xuống bộ vị
Thái âm, khiến cho thanh khí không thăng lên, trọc khí không igáng xuống, cho
nên dùng Thăng, Sài để giúp Sâm, Kỳ, đó tức là phương pháp bổ ích Tiên thiên
trong Hậu thiên vậy. Phàm chứng Tỳ, Vị bất túc, ưa cam mà ghét khổ, ưa bổ mà
69
Nội khoa- Ngoại cảm
LOẠI TRÚNG PHONG
ghét công, ưa ôn mà ghét hàn, ưa thông mà ghét trệ, ưa thăng mà ghét giáng, ưa
táo mà ghét thấp…bài này theo đúng được phương pháp đó…”.
SINH MẠCH BỔ TINH THANG
(Băng Ngọc Đường)

Nhân sâm 1 đ/c Mạch môn 1 đ/c
Ngũ vị 1 đ/c Thục địa 8 đ/c
Đương quy 1 đ/c Lộc nhung 1 đ/c
Đun với 4 bát nước cạn còn 1 bát, bỏ bã, uống làm 1 lần.
Phương giải: Bài này dùng Nhân sâm, Mạch đông để bổ khí, Đương
quy để bổ huyết. Thục địa, Lộc nhung để bổ tinh, Ngũ vị để liễm khí. Phàm
bệnh hư trúng nếu vì Thận hư, tất phải sinh ra chứng lưng đau, gối mỏi, váng
đầu, hoa mắt…nên kíp uống bài này để đại bổ Thận khí sẽ chóng được bình
phục.
SÂM PHỤ THANG
(Thế- y)
Nhân sâm 5 đ/c Phụ tử 4 đ/c
Chủ trị: Chữa về chứng Âm, Dương khí huyêt bạo thoat…
Phương giải: Trước khi có thân hình mà sinh ra thời gọi là Tiên thiên,
sau khi có thân hình mà sinh ra thời gọi là Hậu thiên. khí của Tiên thiên bởi
Thận, do từ cha mẹ phú bẩm cho, khí Hậu thiên của Tỳ do thuỷ cốc hoá sinh.
Khí của Tiên thiên là cái “thể” của khí, “thể” thời chủ tĩnh, cho nên khi con còn
trong thai nhờ hơi thở của mẹ để nuôi chính khí, nhờ vậy nên Thần tàng mà cơ
tĩnh. khí Hậu thiên là cái “dụng” của khí, dụng chủ động, cho nên sau khi đã có
thân hình thời nhờ cái khí của thuỷ cốc để nuôi thân thể, nhờ vậy nên tinh thần
phấn phát sinh ra vận động. Trời với Người cùng hợp đức, hai khí công dụng
lẫn cho nhau, cho nên khí của Hậu thiên nhờ khí của Tiên thiên thời sẽ sinh ra
mẫi mãi không ngừng. Khí của Tiên thiên nhờ khí của Hậu thiên thời sẽ hoá ra
70
Nội khoa- Ngoại cảm
LOẠI TRÚNG PHONG
mãi chẳng hết. Nếu sự khởi cư không cẩn thận sẽ làm thương đến Thận, Thận bị
thương thì khí Tiên thiên tất phải hư. Ăn uống không điều độ làm thương đến
Tỳ, Tỳ bị thương thì khí Hậu thiên phải bị hư, muốn bổ cho khí Hậu thiên
chẳng gì hơn Nhân sâm, muốn bổ cho khí Tiên thiên chẳng gì hơn Phụ tử. Ấy

bài Sâm phụ thang sở dĩ đặt ra là theo nguyên lý đó. Ta nên nhận xem Tạng nào
hư hơn, thời sẽ lượng suy dùng vị nào làm Thần, hai vị đó cùng giúp ích lẫn
nhau, thời chỉ trong phút chốc, sẽ hoá được khí từ nơi không đâu, mà sinh ngay
được Dương khí từ trong Mệnh môn, công hiệu rất chóng.
Nếu Biểu hư tự hãn, thời đem Hoàng kỳ thay Phụ tử gọi là Nhân sâm
Hoàng kỳ thang, vừa bổ khí lại kiêm cả chỉ hãn. Nếu thất huyết Âm vong đem
Sinh địa thay Phụ tử gọi là Nhân sâm Địa hoàng thang vừa bổ khí lại kiêm cả
cứu Âm…Nếu vì hàn thấp mà kiêm quyết lãnh, tự hãn thời lấy Bạch truật để
thay Nhân sâm gọi là Kỳ- Phụ thang, vừa bổ Dương lại kiêm cố Biểu…Đó đều
là bài Sâm phụ biến hoá ra. Y giả nếu biết suy cho rộng, thời biến hoá càng hay,
không biết thế nào mà lượng trước được.
TỨ NGHỊCH THANG
(Trọng Cảnh)
Cam thảo 2 đ/c Can khương 1,5 đ/c
Phụ tử 1 củ
Đun với 3 bát nước, cạn còn 1 bát, uống nóng làm 1 lần
Phương giải: Bài này đặt tên là tứ nghịch là chủ trị ở Thiếu âm, trong
ngoài đều hàn, tay chân quyết nghịch. Dùng vị Cam thảo khí vị cam ôn làm
Quân để nuôi ấm lại Dương khí Dùng vị Khương, Phụ khí vị tân ôn làm Thần
để giúp Dương thắng hàn. Cam thảo nhờ Khương, Phụ cổ võ Thận dương, làm
ấm lại khí lạnh bên trong, có công năng “thuỷ trung noãn thổ”; Khương, Phụ
nhờ được Cam thảo suốt ra quan tiết, chạy tới tứ chi, có công năng “trục âm hồi
Dương”. Thận dương đã được cổ vũ, âm hàn đã được tiêu tan, Dương khí sẽ đạt
ra bên ngoài, mạch sẽ hiện ra, tay chân sẽ ấm lại.
71
Nội khoa- Ngoại cảm
LOẠI TRÚNG PHONG
BỆNH THẤP TRÚNG
Bệnh này về phương Nam phát sinh rất nhiều, vì khí đất ẩm thấp, thấp
sinh đờm, do đờm sinh nhiệt, do nhiệt sinh phong rồi gây nên chứng đầu nặng,

thân thể nặng nề, hôn mê không biết gì, gọi là bệnh thấp trúng. Cũng có khi vì
ăn nhiều các thức sống lạnh, hoặc rượu ngon, các thức ngon, khiến thuỷ thấp ứ
đọng ở Tam tiêu, rồi dẫn ra ngoài cơ nhục, gây nên bệnh Thấp trúng, đó là bệnh
thấp phát từ trong ra. Hoặc vì đường sá xa xôi, gặp phải sơn lam chướng khí,
hoặc nằm ngồi lâu ở nơi ẩm thấp khiến cho thấp khí phạm vào, cũng gây nên
bệnh Thấp trúng, như vậy là chứng Thấp trúng từ ngoài trúng vào.
Bệnh trạng: Bệnh nhân bỗng dưng ngã lăn, mê man không biết gì, đầu
nặng không cất lên được, mình nặng không tự đi được, mắt rức không mở được,
ăn uống không biết mùi ngon, đại tiện lỏng nất, tiểu tiện vàng đỏ. Nếu Thấp khí
nặng mà lại kiêm cả phong thời khắp mình đau rức, bụng, chân, đầu gối sưng
đau, thân thể nặng nề mà phù thũng.
Biện chứng: Nếu để lâu không chữa, thấp khí yểm- nhiễm mãi không
đi, ẩn náu ở gân xương, khiến gân xương mắc bệnh không thể cử động được rất
là khổ sở. Nếu lại kiêm cả hàn tà, hàn thấp hợp nhau mà tàn lan khắp Tam tiêu,
Tỳ dương không còn cơ năng vận chuyển khiến mặt mắt, tay chân đều biến sắc
vàng, đó là biến thành bệnh Âm hoàng.
Phương pháp điều trị: Bệnh thấp trúng cho uống bài “Thấm thấp
thang” hoặc uống bài “Hành thấp lưu khí tán”. Nếu thấp mà kiêm cả Phong, gây
nên chứng đầu nặng khắp mình đau rức, hoặc toàn thân phù thũng…cho uống
bài “Trừ thấp khương hoạt thang”. Nếu hư cho uống bài “Độc hoạt ký sinh
thang”. Nếu tới thời kỳ hàn thấp cùng hợp tràn lan khắp Tam tiêu mà biến thành
chứng Âm hoàng, cho uống bài “Nhân trần lý trung thang” hoặc bài Nhân trần
72

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×