Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Bước tiến mới trong hồi sinh tim phổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.58 KB, 3 trang )

BƯỚC TIẾN MỚI TRONG HỒI SINH TIM
PHỔI:
CỨU SỐNG VÀ XA HƠN
Những chọn lựa trong kỹ thuật hồi sinh tim phổi vẫn còn trong giai
đoạn ban sơ. Những hướng dẫn về hồi sinh tim phổi mới có những thay
đổi lớn, bao gồm việc giới hạn sử dụng những thuốc cổ điển như là
lidocaine và procainamide, không dùng bretylium, và người kỹ thuật
viên không cần kiểm tra mạch. Vấn đề cơ bản là vẫn chưa có những
có những bằng chứng khoa học cho những hướng dẫn này.
Bước Tiến Mới Trong Hồi sinh tim phổi: Phóng đại và hy
vọng
“Mặc dù có những nền tảng cơ sở dựa trên thực ngiệm trên động vật
cho hồi sinh tim phổi, nhưng những nghiên cứu trên người vẫn chưa
được chứng minh là có hiệu quả trên những nạn nhân ngừng tim.
Những khuyến cáo ngày nay dựa chủ yếu trên bằng chứng hơn là kinh
nghiệm” ( Peter Kudenchuk, MD, đại học Washington, Settle, Wash).
Mặc dù lidocaine trước đây đã được khuyến cáo là thuốc chống loạn
nhòp trong ngừng tim, nhưng vẫn chưa có thử nghiệm có kiểm chứng
ngẫu nhiên để chứng minh lợi ích của thuốc. Trong một thử nghiệm
hồi cứu trên 700 bệnh nhân ngừng tim trong bệnh viện, lidocain được
đánh giá kéo dài sự sống khoảng 1 giờ. Tuy nhiên, trong những nghiên
cứu đa biến ( điều chỉnh các yếu tố có thể gây nhiễu như tuổi, giới,
nhòp gây ngừng tim, thời gian khử rung, và bệnh lý hô hấp tim mạch
nền), chỉ ra rằng bệnh nhân có dùng lidocain có thể kéo dài sự sống
ngắn hơn 1 giờ so với bệnh nhân không dùng lidocain.
Hai nghiên cứu mù, tiền cứu, ngẫu nhiên kiểm tra vai trò của thuốc
chống loạn nhòp trong điều trò ngừng tim trơ với shock. Cả hai thử
nghiệm đều trên những bệnh nhân ngừng tim ngoài viện do rung thất
hay nhòp nhanh thất vô mạch (VT) và có những can thiệp hồi sinh tim
phổi chuẩn và loạt khử rung. Bệnh nhân nhanh thất mặc dù có trên
hay bằng 3 lần shock điện, được đặt nội khí quản, đặt đường truyền


tónh mạch và epinephrin. Trong nghiên cứu đầu tiên ARREST, bệnh
nhân được chia ngẫu nhiên mù đôi vào nhóm có amiodaron bolus hay
placebo. Trong nghiên cứu thứ hai ALIVE, bệnh nhân được chia ngẫu
nhiên vào nhóm amiodaron 5 mg/kg push tónh mạch hay 1,5 mg/ kg
lidocain. Cả hai thử nghiệm đều được đánh giá dùng tương đối chậm
trễ thuốc chống loạn nhòp và ít nhiều có ảnh hưởng lên tần suất nhập
viện. Nghiên cứu ARREST có khoảng 500 bệnh nhân tỉ lệ hiệu quả ở
nhóm amiodaron cao có ý nghóa so với chứng (44% so với 34%). Tiến
só Kudenchuk lưu ý ‘’ thử nghiệm thứ nhất này đã chứng minh can
thiệp bằng thuốc trong hồi sinh tim phổi có lợi ích nào đó về cải thiện
kết quả ngắn hạn trên bệnh nhân ngừng tim trơ với shock. Tương tự,
kết quả sơ bộ trên 348 bệnh nhân trong thử nghiệm ALIVE gợi ý hiệu
quả về hồi sinh tim phổi của amiodaron gấp hai lần so với lidocain”.
Trong cả hai thử nghiệm trên, amiodaron là yếu tố độc lập dự báo tỉ lệ
sống. Thời gian điều trò là yếu tố hỗ trợ thêm vào. Amiodaron sẽ có
hiệu quả cao hơn ở nếu được dùng sớm trong 15 phút ngừng tim. Hồi
sinh tim phổi hoặc là càng sớm càng tốt hoặc là không còn hy vọng.
Mặc dù đã có những tiến bộ y khoa trong nhiều thập niên gần đây
nhưng kết quả của hồi sinh tim phổi vẫn còn rất xấu. Một phần có thể
là do việc điều trò như là thuốc chống loạn nhòp mà giờ đây đã được
nhận xét là rất ít và hầu như không hiệu quả. Những kỹ thuật mới như
dùng amiodaron cải thiện hồi sinh tim phổi nhưng cần có nghiên cứu
để xác đònh hiệu quả cuối cùng về cải thiện sự sống cho bệnh nhân
ngừng tim. Những tổn thương thần kinh sau ngừng tim cần thiết được
xem như là mục tiêu cuối cùng và là mục đích nhắm tới trong tương
lai.
Cấp cứu điện tim: Tiếp cận thực hành
Bramah MD, PhD, trường y khoa UCLA và trung tâm y khoa VA, LA,
Cali, khuyến cáo về những đặc điểm điều trò VT/VF là phải liên tục,
mặc dù có sự khác nhau giữa các nhóm bệnh nhân. Những rối loạn

nhòp cơ bản là điều trò giống nhau. Tuy nhiên, điều trò cấp cứu ngoại
viện có một vài chi tiết khác so với điều trò nội viện.
Theo Dr Singh, thuốc dùng trong điều trò VT/VF nội viện nên có vài
tiêu chuẩn sau:
 Cho thuốc liên tục đường TĨNH MẠCH hoặc uống
 Hiệu quả nhanh ở đường tónh mạch
 Tác dụng phụ ít
 Không ảnh hưởng lên tử suất
 Có khả năng kéo dài sự sống
 Giá cả hợp lý
Tử suất có thể tăng ở những bệnh nhân dùng quinidin và những thuốc
nhóm I khác gồm cả lidocain tónh mạch. Có sự tăng tử suất lớn ở
những bệnh nhân nhồi máu cơ tim có dùng nhóm IC. Ngược lại,
amiodaron và beta block được chứng minh là cải thiện sự sống. Hơn
thế nữa, amiodaron và beta block là hai chất hoạt động đồng vận trong
điều trò rối loạn nhòp thất và làm giảm tử suất.
Amiodaron có hiệu quả cho cả đường tónh mạch và đường uống.
Không giống như những thuốc chống loạn nhòp khác, amiodaron làm
tăng phân xuất tống máu cải thiện suy tim cho bệnh nhân suy tim và
không suy tim. Mặc dù amiodaron là thuốc điều trò rất tốt cho ngoại
tâm thu thất nhưng vai trò điều trò cấp chưa rõ ràng. Một phân tích
tổng hợp gồm 13 thử nghiệm ngẫu nhiên với amiodaron nhận thấy
amiodaron làm giảm đáng kể đột tử và tỷ lệ tử vong.
Phản ứng phụ có thể gây nên sự khác nhau về tử vong ở các nhóm
thuốc. Ví dụ, hạ huyết áp có ở 16% bệnh nhân dùng amiodaron so với
36% dùng procainamide. Nhòp chậm xảy ra ở 5% bệnh nhân dùng
amiodaron so với 12% dùng pracainamide. Vô tâm thu và phân ly điện
cơ có ở 1,2% dùng amiodaron so với 25% dùng dùng lidocain. Vô tâm
thu và phân ly điện cơ có thể là yếu tố quan trọng làm tăng tử vong
cho bệnh nhân nhồi máu cơ tim được điều trò dự phòng chống loạn

nhòp bằng lidocain.
Dựa trên những nghiên cứu về tác dụng phụ và tỷ lệ tử vong, Dr Singh
đề nghò nên dùng amiodaron tónh mạch hơn là dùng lidocain,
procainamide và bretylium. Nếu rối loạn nhòp tái diễn, ông khuyên
nên dùng hoặc là shock điện thêm hoặc là tăng thuốc amiodaron. ng
nhấn mạnh rằng nghiên cứu ALIVE cho thấy sự vượt trội của
amiodaron so với lidocain.
Nhiều nghiên cứu trên bệnh nhân còn sống sau nhồi máu cơ tim nhận
thấy có sự đồng vận giữa beta block với amiodaron. Điều này là cơ sở
để tìm hiểu liệu có sự đồng vận giữa beta block và amiodaron trong
điều trò VT/VF.
ng kết luận rằng amiodaron có thể là một thuốc điều trò lập tức cho
bệnh nhân ngừng tim hay nhanh thất vô mạch ngoại viện. Cần thêm
những nghiên cứu có kiểm chứng cho điều trò .

×