A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Người khuyết tật cũng như bao con người trong xã hội, họ sinh ra được sống và được
hưởng trọn vẹn các quyền của con người. Người khuyết tật cũng sử dụng các công trình, dịch
vụ công cộng, nhà chung cư để phục vụ cho đời sống hàng ngày của mình. Tuy nhiên, trong
quá trình sử dụng những công trình, dịch vụ này, người khuyết tật có những thuận lợi hay gặp
những khó khăn nào? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu đề tài: Đánh giá về thực hiện quy định và
kiến nghị của bạn về nhà chung cư và sử dụng các công trình, dịch vụ công cộng đối với
người khuyết tật trên địa bàn Hà Nội để có cái nhìn tổng quan hơn về vấn đề này.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I – Khái quát chung về người khuyết tật
1, Định nghĩa về người khuyết tật
Định nghĩa người khuyết tật dù tiếp cận dưới bất cứ góc độ nào, nhất thiết phải phản
ánh thực tế là người khuyết tật có thể gặp các rào cản do yếu tố xã hội, môi trường hoặc con
người khi tham gia vào mọi hoạt đông kinh tế, chính trị, xã hội. Họ phải được đảm bảo rằng
họ có quyền và trách nhiệm tham gia vào mọi hoạt động đời sống như bất cứ công dân nào
với tư cách là các quyền của con người. Với tư cách tiếp cận đó, có thể đưa ra định nghĩa khái
niệm người khyết tật như sau:
Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận trên cơ thể hoặc bị
suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong việc tham gia của
người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình đẳng với chủ thể khác.
2, Đặc điểm của người khuyết tật
Thứ nhất, đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ kinh tế - xã hội
Người khuyết tật cũng là con người vì vậy, họ mang những đặc điểm chung như tất cả
mọi người khác, họ có đầy đủ các quyền trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, do
những khiếm khuyết do tình trạng khuyết tật gây ra nên, người khuyết tật phải gánh chịu rất
nhiều thiệt thòi trong mọi mặt cuộc sống: khuyết tật là nguyên nhân chính gây ra nhiều khó
khăn cho người khuyết tật trong việc thực hiện các công việc sinh hoạt hàng ngày, trong giáo
dục, việc làm, tiếp cận các dịch vụ y tế, kết hôn, sinh con và tham gia các hoạt động xã hội.
Để khắc phục những khó khăn này, người khuyết tật chủ yếu dựa vào gia đình, nguồn giúp đỡ
1
chính với họ. Những khó khăn ngày càng trầm trọng hơn do thái độ tiêu cực của cộng đồng
đối với người khuyết tật.
Quan niệm của xã hội về người khuyết tật còn tiêu cực, dẫn đến sự kỳ thị và phân biệt
đối xử: Điều này diễn ra dưới nhiều hình thức, ở nhiều bối cảnh khác nhau. Trong cộng đồng,
nhiều dân cư coi người khuyết tật là “đáng thương”, không có cuộc sống “bình thường”, là
“gánh nặng” của xã hội... Về nhận thức pháp luật, nhiều người không hề biết đến quy định
của pháp luật về người khuyết tật. Từ đó, dẫn đến sự kì thị, phân biệt đối xử và nó diễn ra ở
nhiều nơi, nhiều lĩnh vực: Gia đình, nơi làm việc, giáo dục, hôn nhân gia đình, tham gia hoạt
động xã hội, thậm chí sự kì thị từ chính người khuyết tật.
Hoạt động hỗ trợ người khuyết tật còn rất hạn chế, thực tế cho thấy có sự khác biệt lớn
giữa nhu cầu của người khuyết tật và những giúp đỡ mà họ nhận được. Sự hỗ trợ của nhà
nước và cộng đồng mang tính từ thiện nhiều hơn là phát triển con người. Hầu hết người
khuyết tật được hỗ trợ như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, lương thực... nhưng lại ít được trợ
giúp trong việc làm, dạy nghề và tham gia hoạt động xã hội.
Thứ hai, đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ dạng tật và mức độ khuyết tật.
Luật người khuyết tật Việt Nam quy định các dạng khuyết tật bao gồm:
+ Khuyết tật vận động: là những người có cơ quan vận động bị tổn thương, biểu hiện
dễ nhận thấy là khó khăn trong ngồi, nằm, di chuyển, cầm nắm... Do đó, người khuyết tật vận
động gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá nhân, vui chơi, học tập và lao động. Người
khuyết tật vận động cần được sự hỗ trợ về phương tiện đi lại và đặc biệt là không gian cần
thiết, thuận tiện, phù hợp để di chuyển.
+ Khuyết tật nghe, nói: Người khuyết tật nghe, nói là người có khó khăn đáng kể về
nói và nghe, dẫn đến hạn chế về đọc, viết, từ đó dẫn đến những hạn chế trong sinh hoạt, làm
việc, học tập, hòa nhập cộng đồng. Để giảm bớt khó khăn, họ cần dùng phương tiện trợ giúp,
ngôn ngữ ký hiệu trong giao tiếp tổng hợp. Người khuyết tật nghe, nói thường rất khó khăn
trong việc thể hiện ngôn ngữ và tiếp nhận thông tin từ cộng đồng, bởi ngôn ngữ của họ là
ngôn ngữ kí hiệu.
+ Khuyết tật nhìn (khuyết tật thị giác, khiếm thị): là những người có tật về mắt làm
cho họ không nhìn thấy hoặc nhìn không rõ ràng. Họ có hai giác quan thường rất phát triển:
thính giác và xúc giác. Đối với người khiếm thị công cụ hỗ trợ di chuyển là chiếc gậy trắng
2
(hoặc các loại gậy thông thường) chữ nổi Braille, các công cụ hỗ trợ thông minh, lối đi thuận
tiện và dễ nhận biết... những người nhìn kém thì môi trường cần thiết với họ là đảm bảo đủ
ánh sáng, dùng những màu tương phản, hợp lý trong sinh hoạt và các hoạt động khác, cung
cấp thiết bị phóng đại hình ảnh.
+ Khuyết tật trí tuệ được xác định khi: chức năng trí tuệ ở dưới mức trung bình (chỉ số
thông minh đạt gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân); bị thiếu
hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số những hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm
sóc, sống tại gia đình, kĩ năng xã hội/cá nhân, sử dụng các tiện ích trong cộng đồng, tự định
hướng, kỹ năng học đường, làm việc, giải trí, sức khỏe và an toàn; Tật xuất hiện trước 18
tuổi. Người khuyết tật về trí tuệ có nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường
của họ và người thân cả về trí tuệ, trí nhớ, về chú ý, về kỹ năng giao tiếp xã hội; cuối cùng là
về hành vi.
Ngoài các nhóm trên còn có những người khuyết tật như: người bị rối loạn hành vi
cảm xúc, người mắc hội chứng tự kỉ, người bị rối loạn ngôn ngữ, người đa tật...
II - Quy định của pháp luật về nhà chung cư và sử dụng các công trình, dịch vụ
công cộng đối với người khuyết tật
Nhằm đảm bảo các công trình xây dựng nói chung, nhà chung cư và công trình công
cộng nói riêng có đủ điều kiện để người khuyết tật có thể tiếp cận, sử dụng, nghĩa là công
trình đó tạo dựng được môi trường kiến trúc mà người khuyết tật có thể đến và sử dụng các
không gian chức năng trong công trình, Bộ xây dựng đã ban hành Bộ quy chuẩn và tiêu
chuẩn xây dựng công trình.
Sau khi Luật NKT được ra đời, các quy định sau đó đã được hoàn thiện hơn với những
nghị định, chỉ thị từ cơ quan nhà nước. Nhà chung cư và việc sử dụng các công trình công
cộng, dịch vụ đối với NKT cũng được đặc biệt chú trọng quan tâm.
Đầu tiên, quy định về nhà chung cư và dịch vụ công cộng cho người khuyết tật được
quy định tại Điều 39, 40 Luật người khuyết tật như sau:
“Điều 39. Nhà chung cư và công trình công cộng
1. Việc phê duyệt thiết kế, xây dựng, nghiệm thu công trình xây dựng mới, cải tạo và
nâng cấp nhà chung cư, trụ sở làm việc và công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã
3
hội phải tuân thủ hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng để bảo đảm người
khuyết tật tiếp cận.
2. Nhà chung cư, trụ sở làm việc và công trình hạ tầng kỹ thuật công cộng, công trình
hạ tầng xã hội được xây dựng trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa bảo đảm các điều
kiện tiếp cận đối với người khuyết tật phải được cải tạo, nâng cấp để bảo đảm điều kiện tiếp
cận theo lộ trình quy định tại Điều 40 của Luật này.”
Điều 40 quy định về lộ trình cải tạo nhà chung cư, công trình công cộng như sau:
“1. Đến ngày 01 tháng 01 năm 2020, các công trình công cộng sau đây phải bảo đảm
điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật:
a) Trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước;
b) Nhà ga, bến xe, bến tàu;
c) Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh;
d) Cơ sở giáo dục, dạy nghề;
đ) Công trình văn hóa, thể dục, thể thao.
2. Đến ngày 01 tháng 01 năm 2025, tất cả nhà chung cư, trụ sở làm việc, công trình hạ
tầng kỹ thuật công cộng, công trình hạ tầng xã hội không thuộc trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều này phải bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật.
3. Chính phủ quy định chi tiết việc thực hiện lộ trình cải tạo đối với từng loại công
trình quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này”.
Tiếp đó, Nghị định Nghị định 28/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật người khuyết tật cũng
quy định về vấn đề này, theo đó:
“Điều 13. Thực hiện lộ trình cải tạo nhà chung cư, công trình công cộng
1. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp, tổ chức và cá
nhân sở hữu, quản lý, khai thác sử dụng công trình là trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước;
nhà ga, bến xe, bến tàu; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở giáo dục, dạy nghề; công trình
văn hóa, thể dục thể thao; nhà chung cư; công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã
hội khác có trách nhiệm rà soát, xây dựng kế hoạch và bảo đảm điều kiện để thực hiện cải
tạo điều kiện tiếp cận đối với NKT theo lộ trình sau đây:
4
a) Đến năm 2015 có ít nhất 50% công trình là trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước;
nhà ga, bến xe, bến tàu; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở giáo dục, dạy nghề; công trình
văn hóa, thể dục thể thao; nhà chung cư bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với NKT;
b) Đến năm 2017 có ít nhất 75% trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước; nhà ga, bến xe,
bến tàu; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở giáo dục, dạy nghề; công trình văn hóa, thể dục
thể thao; nhà chung cư bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật;
c) Đến ngày 01 tháng 01 năm 2020 tất cả trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước; nhà
ga, bến xe, bến tàu; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở giáo dục, dạy nghề; công trình văn
hóa, thể dục thể thao; nhà chung cư bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với NKT;
d) Đến ngày 01 tháng 01 năm 2025, tất cả trụ sở làm việc; nhà chung cư; công trình hạ
tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội khác chưa quy định tại các Điểm a, b và c Khoản 1
Điều này phải bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật.
2. Kinh phí thực hiện quy định tại Khoản 1 Điều này do cơ quan, tổ chức, cá nhân sở
hữu, quản lý, khai thác sử dụng tự bố trí, huy động thực hiện.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Xây dựng và các Bộ, ngành liên quan rà
soát, thống kê đánh giá thực trạng nhà chung cư; công trình công cộng chưa bảo đảm điều
kiện tiếp cận đối với NKT theo từng loại công trình, hướng dẫn phương pháp, chỉ tiêu giám
sát đánh giá việc thực hiện lộ trình cải tạo công trình công cộng”.
Nhằm đảm bảo các công trình xây dựng nói chung, nhà chung cư và công trình công
cộng nói riêng có đủ điều kiện để NKT có thể sử dụng, nghĩa là công trình đó tạo dựng được
một môi trường kiến trúc mà NKT có thể đến và sử dụng các không gian chức năng trong
công trình, Bộ Xây dựng đã ban hành Bộ quy chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng công trình. Theo
Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam (TCXDVN 266:2002), khi xây mới các loại nhà ở phải bảo
đảm cho người khuyết tật vận động và khiếm thị tiếp cận sử dụng, đồng thời khuyến khích áp
dụng cho việc cải tạo, nâng cấp các khu nhà ở cũ có tính đến nhu cầu sử dụng của NKT. Cụ
thể như sau:
* Nhà ở để bảo đảm cho NKT sử dụng được đặt ở các vị trí ưu tiên sau:
- Có vị trí thuận lợi về giao thông, dễ đến cho NKT.
- Gần những nơi có công viên, cây xanh, đường đi dạo.
5
- Gần các trung tâm dịch vụ thương mại, dịch vụ công cộng, gần trung tâm chăm sóc
sức khỏe.
- Trong các khu ở phải thiết kế đường và hè thuận lợi cho NKT sử dụng. Tất cả lối vào
nhà ở phải làm đường dốc, vệt dốc lên vỉa hè cho xe lăn của NKT.
- Trong khu nhà ở phải có biển báo, biển chỉ dẫn cho NKT.
* Bãi để xe và điểm chờ xe:
- Bãi để xe phải bố trí chỗ để xe cho NKT, cứ 100 xe thì phải có 2 đến 3 chỗ để xe cho
NKT. Chỗ để xe cho NKT phải được đặt ngay tại đường dốc hoặc lối ra vào của ngôi nhà và
phải có biển báo hoặc chỉ dẫn.
- Bên cạnh chỗ đỗ xe phải có khoảng không gian thông thủy để NKT đi xe lăn lên và
xuống. Chiều rộng từ 0,9m đến 1,2m, với xe buýt chiều rộng phải là 2,5m.
- Tại các điểm chờ xe phải thiết kế vệt dốc hay đường dốc bảo đảm cho NKT đến được
các phương tiện giao thông và phải được chiếu sáng tối thiểu là 54lux và có mái che.
- Khi thiết kế đường dốc ở lối ra vào nhà ở, phải bảo đảm NKT không gặp sự thay đổi
đột ngột về độ cao, nếu có sự thay đổi độ cao phải thiết kế đường dốc và đường dốc này phải
bảo đảm phẳng, không gồ ghề, có độ nhám. Chiều rộng của đường không được nhỏ hơn 1m.
Hai bên đường dốc phải bố trí tay vịn. Đường dốc cho người khiếm thị có lan can phụ làm
thấp, có tấm lát dẫn hướng và đánh dấu vị trí dẫn tới đỉnh của đường dốc, chiếu nghỉ, chiếu
đợi.
- Nếu không thể thiết kế đường dốc thì phải thiết kế lối ra vào có bậc thuận tiện cho
người đi lại khó khăn như người chống nạng, chống gậy và người khiếm thị, lối ra vào có bậc
phải bảo đảm những yêu cầu sau: chiều cao bậc cho phép từ 0,1m đến 0,16m, bề rộng bậc
cho phép 0,25m đến 0,4m, không dùng bậc thang hở, phải bố trí chiếu nghỉ ở bậc phía trên
cùng. Nếu bậc thềm quá 3 bậc thì phải bố trí tay vịn.
* Sảnh:
- Sảnh phải có kích thước đủ rộng để xe lăn dịch chuyển, đường kính 1,3m. Tiền sảnh
tối thiểu rộng 2,3m x 2,5m. Kích thước giữa hai lớp cửa là 2,5m.
- Nhà chung cư phải có biển báo, biển chỉ dẫn cho NKT ở sảnh.
* Hành lang, lối đi:
6
- Chiều rộng thông thủy của hành lang được lấy như sau: Nếu một xe lăn đi qua, không
nhỏ hơn 1m. Nếu một xe lăn đi qua và một người đi ngược chiều, không nhỏ hơn 1,5m. Hai
xe lăn đi qua, không nhỏ hơn 1,8m.
- Tại chỗ hành lang đổi hướng thì hành lang phải rộng 0,9m và nếu có cửa thì phải rộng
1,2m. Phải bố trí tay vịn ở hai bên hành lang ở độ cao 0,9m. Góc quay ở những chỗ rẽ nên là
mặt tường vòng cung hoặc mặt tường vuông góc.
* Cầu thang, bậc lên xuống:
- Trong nhà chung cư được quy định như sau: không dùng cầu thang hình vòng cung,
xoắn ốc, chiều rộng cầu thang không nên nhỏ hơn 1,2m. Mặt bậc thang phải không trơn trượt
và không làm mũi bậc có hình vuông. Không dùng cầu thang loại bậc hở. Chiều cao của một
đợt thang không được lớn hơn 1,8m và phải bố trí chiếu nghỉ. Chiều rộng chiếu nghỉ không
nhỏ hơn 0,8m. Khoảng cách giữa mặt trên tay vịn với mặt bậc thang đầu tiên và mặt dốc phía
cuối không được lớn hơn 1m theo chiều thẳng đứng. Nếu nhà ở không có thang máy, phải có
hệ thống nâng hoặc hạ xuống bằng các thiết bị chuyên dụng gắn vào lan can hoặc ròng rọc.
Hai bên cầu thang đặt tay vịn cao 0,9m...
* Thang máy
Thang máy là giải pháp giao thông chiều thẳng đứng tốt nhất cho người khuyết tật
(NKT). Bảng điều khiển trong buồng thang máy được lắp đặt ở độ cao không quá 1,2m và
không thấp hơn 0,9m tính từ mặt sàn thang máy đến tâm nút điều khiển cao nhất. Trên các
nút điều khiển phải có các ký tự hoặc tín hiệu cảm nhận được từ xúc giác và hệ thống chữ nổi
Brain dành cho người khiếm thị. Nút điều khiển trước cửa buồng thang máy được lắp đặt ở
độ cao không quá 1,2m và không thấp hơn 0,9m so với mặt sàn. Các nút điều khiển đặt ở mặt
tường bên, cách mặt tường liền kề 0,3m đến 0,5m. Các ký tự nổi và hệ chữ Brain được đặt
ngay bên trái nút mà chúng ký hiệu.
* Lối thoát nạn
Trong nhà ở nhất thiết phải có lối thoát nạn cho NKT khi gặp sự cố. Trên đường thoát
nạn phải có chỗ dành cho NKT ở cùng một độ cao và đầu đường thoát nạn phải có cầu thang
bộ.
* Cửa đi
7
- Cửa đi trong nhà ở thiết kế bảo đảm cho NKT sử dụng, không gây cản trở nguy hiểm,
dễ đóng mở và phải được bố trí ở những nơi đi lại thuận tiện và an toàn.
- Với loại cửa đóng mở tự động cũng phải bảo đảm chiều rộng thông thủy không nhỏ
hơn 0,8m. Trên các cửa tự động phải có biển chỉ dẫn, đồng thời có bề mặt tiếp xúc ở cả hai
mặt cửa để báo hiệu và có tín hiệu âm thanh báo khi đã đi qua cửa cho những người khiếm
thị.
- Các phụ kiện của cửa như tay nắm, tay kéo, ổ khóa, khóa và những chi tiết khác trên
cửa cần bảo đảm cho NKT sử dụng. Những phụ kiện này được lắp đặt ở độ cao cách mặt sàn
hay mặt đất từ 0,8m đến 1,2m. Đối với loại cửa trượt, các phụ kiện cửa phải sử dụng được từ
cả hai phía.
- Cửa ra vào để người khiếm thị sử dụng, điểm khởi đầu và điểm kết thúc của bậc thềm
và trước cửa thang máy, nên lát tấm lát có cảm giác để nhắc nhở.
* Cửa sổ, ban công, logia
- Cửa sổ thiết kế phải bảo đảm an toàn cho NKT. Chiều rộng cửa sổ không nhỏ hơn
1,2m. Bậu cửa sổ đặt ở độ cao cách mặt sàn không lớn hơn 0,7m.
- Cửa sổ trong các buồng, phòng phải bố trí để người ngồi xe lăn có thể quan sát ra bên
ngoài một cách thoải mái. Góc nhìn khi ngồi xe lăn giới hạn từ 27o đến 30o.
- Ban công và logia trong nhà phải có chiều rộng không nhỏ hơn 1,4m để xe lăn có thể
quay được. Chiều cao lan can tại ban công, logia không nhỏ hơn 1m.
* Tay vịn
Tay vịn phải dễ nắm và được liên kết chắc chắn với tường. Nên dùng tay vịn tròn đường
kính từ 25mm đến 50mm và được lắp đặt ở độ cao 0,9m so với mặt sàn. Đối với người ngồi
xe lăn, khoảng cách từ mặt sàn đến tay vịn là 0,75m.
III - Thực hiện các quy định về nhà chung cư và sử dụng các công trình, dịch vụ
công cộng đối với người khuyết tật trên địa bàn Hà Nội.
1, Thành tựu đạt được
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội đã và đang xây dựng cũng như cải tạo nhiều
công trình nhà chung cư, các công trình dịch vụ công cộng đáp ứng tiêu chuẩn để người
khuyết tật có thể dễ dàng tiếp cận. Thực hiện quy định pháp luật, trong những năm qua các
quận, huyện, cơ quan, doanh nghiệp... trên địa bàn Hà Nội đã có những cố gắng vượt bậc
8
trong việc bảo đảm điều kiện tiếp cận công trình công cộng đối với người khuyết tật, như:
ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng công trình công cộng bảo đảm cho người khuyết tật
tiếp cận; cải tạo, sửa chữa các công trình công cộng chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận... Bộ
Xây dựng đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho các đơn vị trong ngành và các đơn vị liên quan
tại Hà Nội sau khi ban hành qui chuẩn. Hai năm qua cho thấy ý thức tiếp cận của các nhà
quản lý xây dựng, nhà đầu tư, tư vấn, nhà thầu xây dựng đã được nâng lên. Ở các đô thị lớn
tại Hà Nội, nhiều công trình công cộng mới được xây dựng đảm bảo các qui định. Có thể thấy
điều này ở các sân vận động, nhà thi đấu phục vụ SEA Games 22, khách sạn, trụ sở hành
chính, nhà văn hóa…
Chúng ta có thể nhận thấy những thiết kế thuận lợi cho người khuyết tật tại các khu nhà
chung cư trên địa bàn Hà Nội thông qua các hình ảnh sau:
Nhà chung cư có lối đi dành cho người khuyết tật
Lối đi có tay vịn cho người khuyết tật
9
Đặc biệt, ở một số trung tâm thương mại - dịch vụ trên địa bàn Hà Nội đã xây dựng
những công trình vệ sinh khá thuận tiện để người khuyết tật có thể sử dụng:
Trên đây là một số hình ảnh về các thiết kế nhà vệ sinh dành cho người khuyết tật ở Hà
Nội. Với lối đi rộng, có tay vịn đây là thiết kế khá hoàn thiện để người khuyết tật có thể sử
dụng một cách dễ dàng.
2, Hạn chế
Tuy nhiên ở Hà Nội, việc xây dựng các công trình nhà chung cư và công trình dịch vụ
công cộng dành cho người khuyết tật vẫn còn tồn tại khá nhiều hạn chế, đó là:
Thứ nhất, tại Hà Nội số lượng những công trình nhà chung cư và công trình dịch vụ
công cộng cho người khuyết tật vẫn còn rất ít. Theo khảo sát mới được tổ chức người khuyết
tật quốc tế công bố chỉ 11% trong 137 công trình công cộng tại quận Hoàn Kiếm và Ba Đình
(Hà Nội) người khuyết tật có thể sử dụng được thuận tiện. Có thể thấy, đây là một khó khăn
rất lớn mà người khuyết tật đã và đang phải đối diện.
Nhiều tòa nhà cao tầng, chung cư mới chưa được các chủ đầu tư quan tâm, xây dựng
các hạng mục hỗ trợ NKT. Các khu văn phòng, tòa nhà tại Hà Nội mặc dù mới được xây
10
dựng nhưng cũng không thấy bóng dáng nhà vệ sinh, lối đi riêng cho NKT. Muốn lên được
các tầng cao, nhiều người khiếm thị phải vất vả vượt qua những bậc thang ở tiền sảnh để vào
được thang máy. Những người đi xe lăn nếu không có sự trợ giúp của người thân thì đành
chịu thua.
+ Thứ hai, vỉa hè Hà Nội chưa thuận tiện cho người khuyết tật. Ở nhiều nước trên thế
giới, vỉa hè được thiết kế không chỉ thuận tiện cho người bình thường mà còn hỗ trợ cả cho
người khuyết tật đi lại dễ dàng. Tuy nhiên, hiện nay ở Hà Nội vẫn còn một số tuyến phố được
thiết kế chưa thực sự thuận tiện cho người khuyết tật.
Ví dụ đầu tiên đó là phố Liễu Giai, đây là một trong rất ít những phố ở Hà Nội được
công nhận là đẹp nhất thủ đô. Hầu như các đường phố tiếp giáp với phố này đều có thiết kế
hiện đại. Lòng đường được phân làn cho ôtô, xe máy, xe đạp tham gia giao thông một cách
khá thuận tiện. Nhưng hạ tầng cơ sở của các phố này đều chưa phù hợp với người cao tuổi,
các cháu nhỏ và nhất là người khuyết tật sử dụng xe lăn.
Đến tuyến phố này, rất dễ nhận thấy hai bên vỉa hè phố Liễu Giai đều tương đối cao so
với mặt đường. Các lối lên xuống lại có bó vỉa hè hạ chìm vẫn cao hơn 2cm so với mặt đường
và đường lên dốc chưa đủ độ thoai thoải giúp người khuyết tật sử dụng xe lăn lên xuống dễ
dàng. Các điểm dừng xe buýt, các lối đi qua đường dành cho người đi bộ cũng hầu như chưa
có lối lên vỉa hè đủ bề rộng 1,2m theo tiêu chuẩn.
Đường dành cho người mù đi bộ trên vỉa hè phố Văn Cao - Hà Nội lát sai quy cách với
đường gồ đặt nằm ngang (hình trái). Lối đi bộ trên vỉa hè dành cho người mù tại Bắc Kinh
11
(Trung Quốc) được thiết kế rất đúng tiêu chuẩn phù hợp tạo thuận tiện cho người khuyết tật
khi tham gia giao thông trên đường.
Tương tự như vậy, đường Văn Cao có vẻ khá hơn với vỉa hè lát một hàng gạch có thiết
kế mặt gạch dải gồ lên chỉ hướng đi giúp người khiếm thị di chuyển. Nhưng, những hàng
gạch này thiết kế chưa đảm bảo độ sâu của các dải gồ trên bề mặt. Bên cạnh đó, đáng lẽ các
dải gồ cần được đặt theo chiều dọc của con phố để có tác dụng giúp người khiếm thị có các
thông tin định hướng, thì chúng lại bị đặt nằm ngang.
Ngoài ra, các phiến gạch chỉ đường này lại được lát sát nhà dân nên đường đi luôn có
vật cản do các cửa hàng bày ra, trong khi đáng lẽ đường dẫn cho người khiếm thị cần được
thông thoáng. Theo đúng quy cách thì những tấm gạch lát gần các điểm giao cắt phía trước
đều có các điểm tròn gồ lên để báo hiệu, nhưng đoạn đường này không được lát những phiến
gạch như vậy.
Một đoạn vỉa hè vừa được lát mới trên phố Liễu Giai - Hà Nội nhưng phần đường dành cho
người đi sang đường không có đường dốc dẫn lên vỉa hè (hình trái). Trong khi đó lối đi bộ
trên vỉa hè dành cho người mù tại Bắc Kinh được thiết kế rất phù hợp và tiện lợi.
Mặt khác, các tuyến phố trên nằm tại địa bàn quận Ba Đình có 18.641 người dân sinh
sống (số liệu năm 2005), vì vậy có thể thấy nhu cầu sử dụng vỉa hè và các dịch vụ công cộng
của những người cao tuổi và các gia đình có con nhỏ là rất lớn. Hơn nữa trên địa bàn còn hơn
1.500 người khuyết tật sinh sống lại càng khẳng định nhu cầu về giao thông tiếp cận giúp
người khuyết tật hòa nhập cộng đồng trên địa bàn quận Ba Đình hiện nay rất cấp bách.
Thiết nghĩ, người khuyết tật là một trong những đối tượng đặc biệt rất cần sự giúp đỡ
của toàn xã hội để có thể hòa nhập với cộng đồng. Do đó, việc đi lại dễ dàng cũng là một vấn
đề hết sức cần thiết. Mong rằng các cơ quan chức năng sẽ có những điều chỉnh hợp lí hơn
12
không chỉ ở các tuyến phố nêu trên mà ở cả Hà Nội nhằm mang lại cơ hội hòa nhập hơn nữa
cho những người có hoàn cảnh không may mắn.
+ Thứ ba, Thủ đô Hà Nội của chúng ta tuy không có đầy đủ các điều kiện về hạ tầng để
người khuyết tật có thể tham gia giao thông một cách thuận tiện như các nước phát triển
khác, nhưng thái độ cảm thông của nhân viên các dịch vụ công cộng cũng có thể ít nhiều giúp
vợi đi sự khó khăn, tâm trạng mặc cảm của người khuyết tật.
Mạng lưới xe buýt Hà Nội không được thiết kế bộ phận nâng để xe lăn lên xuống dễ
dàng. Song điều đáng nói hơn là cách ứng xử của nhiều lái xe và nhân viên bán vé. Mở rộng
cửa, cả nghĩa đen và nghĩa bóng, để đón người ngồi trên xe lăn là việc ít nhân viên xe buýt
Hà Nội làm được. Giúp đẩy xe lăn lên xe buýt là điều gần như không tưởng. Không hiếm
nhân viên bán vé “lườm nguýt”, tỏ thái độ phân biệt đối xử một cách thô bạo với người
khuyết tật, thậm chí đòi thu thêm vé “hàng hóa cồng kềnh”.
Đỉnh cao của sự vô cảm đối với người ngồi trên xe lăn là thái độ của nhân viên bán vé
trên chiếc xe mang biển kiểm soát 30F - 7775, tuyến xe buýt 34 theo lộ trình Bến xe Mỹ Đình
- Bến xe Gia Lâm. Nhân viên này kiên quyết không cho anh Sôphiếp, người Khmer khuyết
tật ở An Giang đang lập nghiệp tại Hà Nội, cùng chiếc xe lăn lên xe buýt. Khi anh Sôphiếp và
vợ xếp hàng lên xe buýt thì bị nhân viên bán vé đẩy ra rồi đóng sập cửa lại. Chuyện xảy ra
vào lúc 9 giờ 30 sáng ngày 5/6 trước sự chứng kiến của đông đảo hành khách. Tiếp đó, nhiều
nhân viên bán vé của các chuyến xe buýt tuyến Mỹ Đình - Gia Lâm cũng ứng xử thô bạo như
vậy.
13
Anh Sôphiếp cùng chiếc xe lăn bị các nhân viên xe buýt từ chối phục vụ.
Hay, thời gian gần đây, việc xe buýt Hà Nội thường xuyên từ chối vận chuyển hành
khách đi xe lăn đã gây bất bình trong dư luận. Sự việc càng trở nên trầm trọng hơn khi liên
tiếp hai lần trong một ngày, anh Trần Quang Dũng là người khuyết tật, đồng thời là Chủ tịch
Hội Người khuyết tật Hà Nam bị từ chối phục vụ.
Ảnh minh họa
Trong đơn thỉnh cầu của anh Trần Quang Dũng - Chủ tịch Hội Người khuyết tật Hà
Nam tới Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam cho biết, anh liên tiếp 2 lần bị xe
buýt Hà Nội từ chối vận chuyển, thậm chí là xua đuổi, không cho lên xe: “Tôi bắt chuyến xe
buýt tuyến số 32, BKS 29U-0340 đi Nhổn vào khoảng 19giờ 34 phút ngày 12/12/2010. Biết
thời gian chờ đợi không nhiều, tôi đã nhờ một thanh niên Hà Nội cõng lên xe để tránh phiền
hà cho nhà xe. Khi đã lên xe, tôi bảo anh lái xe chờ thêm chút nữa để bạn thanh niên quay
14
xuống mang giúp tôi xe lăn đã được gấp nhỏ lại lên xe thì anh phụ xe trả lời: Không ai có
thời gian đâu mà chờ đợi, xuống xe nhanh lên!. Tôi bị xua đuổi thẳng thừng và bạn thanh
niên lại cõng tôi xuống lòng đường trước cái nhìn ái ngại của hành khách trên xe”.
Theo ông Dũng, trước đó vào lúc 17h20, ông đến điểm đón xe buýt tuyến 07 để đi từ
Nội Bài về Cầu Giấy, phụ xe và lái xe của xe mang BKS 29T - 8584 cũng không cho lên xe,
mặc dù khi đó xe chưa hề có nhiều hành khách. Ông Dũng không nhận được một lời giải
thích nào ngoài cái lắc đầu, xua tay và đóng cửa xe. Lúc đó ông đã liên lạc với số điện thoại
“nóng” của tuyến xe 07 là 04.38474014 vào lúc 18 giờ 15 phút để hỏi về việc tiếp cận của
mình và nghe quan điểm của Công ty quản lý xe Bus Hà Nội thì được nhân viên trực đường
dây trả lời: “Điều đó còn tùy thuộc vào lái xe và phụ xe???”. Ông Dũng bức xúc: Là một
người khuyết tật nặng, trong cuộc sống tôi đã nỗ lực rất nhiều để vượt khó, nhưng trước sự từ
chối phũ phàng này của “nhà xe”, tôi thực sự cảm thấy “nóng” hơn và không biết phải vượt
khó thế nào! Tôi hiểu, công việc của lái xe và phụ xe, đặc biệt là xe buýt trong thành phố Hà
Nội có nhiều áp lực. Nhưng nếu vì áp lực mà lại tùy tiện đối xử với hành khách khuyết tật
như vậy là vi phạm quyền con người...
Xung quanh vấn đề này, Chủ tịch Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam
Nguyễn Đình Liêu cho rằng thời gian gần đây, có dư luận về việc xe buýt ở Hà Nội thường
xuyên từ chối vận chuyển hành khách xe lăn. Cộng đồng người khuyết tật rất không đồng
tình với thái độ này của lái xe buýt và cho rằng đó là biểu hiện sự kỳ thị, phân biệt đối xử.
Cũng theo ông Liêu thì đây là vấn đề nhạy cảm cần được nghiên cứu, kiểm tra, tránh những
đáng tiếc xảy ra, đặc biệt là khi Luật Người khuyết tật đã có hiệu lực vào ngày 1/1/2011.
IV - Nhận xét, đánh giá về thực hiện các quy định và kiến nghị về nhà chung cư và
sử dụng các công trình, dịch vụ công cộng đối với người khuyết tật trên địa bàn Hà Nội.
1, Những thành tựu đạt được
Với việc tiến tới góp phần giúp đỡ, hỗ trợ NKT có thể bình đẳng cũng như tạo các điều
kiện thuận lợi để họ có thể hòa nhập với cộng đồng 1 cách dễ dàng hơn, các công trình nhà
chung cư cũng như các công trình dịch vụ công cộng đáp ứng điều kiện cho người khuyết tật
có thể sử dụng đang được đẩy mạnh thực hiện. Cùng với lộ trình đó, Đảng và Nhà nước ta
15
cũng đẩy mạnh việc ban hành các chính sách cũng như các văn bản pháp luật quy định về vấn
đề nhà chung cư và việc sử dụng các công trình dịch vụ công cộng đối với người khuyết tật.
Những thành tựu đã đạt được góp phần không nhỏ vào việc nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho người khuyết tật, điều này tạo bước đột phá trong việc xóa bỏ rào cản về vật
chất, xã hội đối với người khuyết tật để họ có điều kiện hòa nhập cộng đồng.
2, Hạn chế
Mặc dù pháp luật qui định rất rõ ràng những ưu đãi dành cho NKT, tuy nhiên, trên thực
tế, NKT vẫn chưa được đảm bảo các quyền của họ.
Theo khảo sát một số tòa nhà, trung tâm mua sắm chúng tôi nhận thấy hầu như tại đây
không có nhà vệ sinh dành cho NKT, còn nhà vệ sinh thông thường lại không có tay vịn hoặc
diện tích không đủ rộng nên những người đi xe lăn không thể vào được. Hầu hết các tòa nhà,
trung tâm mua sắm lớn có lối dẫn lên các tầng bằng cầu thang cuốn nhưng ngay cả những
người lành lặn sử dụng cũng còn nguy hiểm nói gì đến NKT.
Nhiều tòa nhà cao tầng, chung cư mới chưa được các chủ đầu tư quan tâm, xây dựng
các hạng mục hỗ trợ NKT. Các khu văn phòng, tòa nhà mặc dù mới được xây dựng nhưng
cũng không thấy bóng dáng nhà vệ sinh, lối đi riêng cho NKT. Muốn lên được các tầng cao,
nhiều người khiếm thị phải vất vả vượt qua những bậc thang ở tiền sảnh để vào được thang
máy. Những người đi xe lăn nếu không có sự trợ giúp của người thân thì đành chịu thua.
Tại các chung cư không có thang máy còn khốn khổ hơn, NKT muốn lên được các tầng
trên chỉ còn biết trông chờ vào lòng tốt của những người xung quanh. Nhiều NKT phản ánh
họ rất ngại khi được mời tham dự các hội nghị, hội thảo tổ chức tại các tòa nhà cao tầng do
phải rất vất vả mới lên được đến nơi, có những hội nghị kéo dài cả ngày khiến nhiều NKT
phải bỏ về giữa chừng vì họ không thể tìm được chỗ đi vệ sinh dành cho NKT. Tại các cầu
vượt dành cho người đi bộ mới được xây dựng tại Hà Nội, tìm đỏ mắt NKT cũng không thấy
nơi nào dành cho mình…
3, Một Kiến nghị hoàn thiện các quy định về nhà chung cư và sử dụng các công
trình, dịch vụ công cộng đối với người khuyết tật trên địa bàn Hà Nội.
Theo quy chuẩn xây dựng do Bộ Xây dựng ban hành năm 2002, các loại công trình phải
đảm bảo cho NKT tiếp cận sử dụng gồm: công trình y tế, cơ quan hành chính các cấp (trụ sở
UBND, tòa án, viện kiểm sát...), các công trình giáo dục, công trình thể thao, công trình văn
16
hóa, công trình dịch vụ công cộng (khách sạn, nhà ga xe lửa, bến xe, bưu điện, trung tâm
thương mại, chợ...), nhà chung cư, đường và vỉa hè. TCVN:2009 cũng quy định việc xây
dựng đường, hè phố đảm bảo NKT tiếp cận sử dụng. Khi thiết kế đường và hè phố phải đảm
bảo giao thông đường bộ đơn giản, không bị vật cản và đủ rộng cho các xe lăn tránh nhau.
Tại các nút giao thông, các lối vào công trình phải làm đường dốc để NKT tiếp cận
công trình. Lối vào và trục đường chính của đường dạo trong công viên, khu vui chơi - giải
trí, khu du lịch phải thiết kế để NKT đi lại được và phải có biển báo, biển chỉ dẫn NKT tiếp
cận sử dụng. Tại các điểm đỗ xe và điểm chờ xe buýt có tính đến nhu cầu sử dụng của NKT
phải bố trí biển báo, biển chỉ dẫn theo quy ước quốc tế. Các công trình được xây dựng trên
đường và hè phố dành cho người đi bộ như trạm điện thoại công cộng, trạm rút tiền bằng thẻ
tự động, biển quảng cáo, cột điện, cây trồng, các vật treo trên cao không được gây cản trở cho
NKT…
Theo quy định, tại các công trình công cộng, bất cứ nơi nào có bậc lên xuống hoặc cầu
thang thì bắt buộc phải xây kèm theo một đường dốc cho người đi xe lăn. Lối đi cần sử dụng
vật liệu chống trượt, tấm che cống phải thẳng góc với đường đi (tránh gây nạn kẹt bánh xe
lăn), có tay vịn, biển báo chỗ nguy hiểm, đủ ánh sáng... Đường dốc dài quá phải bố trí chiếu
nghỉ từng đoạn. Nhà cao tầng sử dụng thang máy cần đủ mặt bằng cho người khuyết tật đi xe
lăn xoay trở. Mặc dù vậy nhưng điều này ít được các nhà thiết kế, chủ công trình quan tâm,
thậm chí cố tình tránh né.
Nguyên nhân là do các chủ đầu tư sợ tốn kém thêm một phần chi phí và diện tích. Mặt
khác, cơ quan quản lý xây dựng cũng chưa thật nghiêm túc trong việc thanh tra, giám sát.
Ông Nguyễn Văn Dũng - một nhà đầu tư trong lĩnh vực bất động sản tại Hà Nội thừa nhận:
“Khi tham gia xây dựng một số hạng mục công trình công cộng chúng tôi không phải không
chú ý đến đối tượng sử dụng là khuyết tật và trên thực tế tại một số công trình đã có hạng
mục dành riêng cho họ. Tuy vậy, có những nơi trong một thời gian dài không có người khuyết
tật nào sử dụng gây lãng phí”.
Luật NKT đã quy định, NKT có quyền được sử dụng các công trình công cộng như
những người bình thường khác một cách bình đẳng. Đó là quyền lợi chính đáng họ được
hưởng chứ không phải do sự giúp đỡ hay ban ơn của xã hội. Việc NKT chưa được quan tâm
đúng mức là do nhận thức của xã hội nói chung về quyền lợi của NKT chưa đầy đủ và còn
17
nhiều hạn chế. Điều này đã khiến họ thêm mặc cảm, khó hòa nhập với cộng đồng. Do vậy,
trong thời gian tới, các cơ quan chức năng cần tăng cường tuyên truyền, nâng cao ý thức của
mỗi người dân về quyền của NKT, đồng thời, nhà nước nên có chế tài và giám sát chặt chẽ
việc thực hiện các quy định về xây dựng công trình tiếp cận NKT của các chủ đầu tư, tránh
tình trạng quy định chỉ nằm trên giấy!
Hiện tại hầu hết các công trình công cộng trên địa bàn Hà Nội như: bệnh viện, trường
học, chung cư, công viên, siêu thị, nhà chờ xe buýt… có rất ít những hạng mục hỗ trợ lối đi,
cũng như các biển chỉ dẫn dành cho người NKT hoặc nếu có thì lại không đủ chuẩn, chưa tạo
thuận lợi cho người sử dụng. Cũng theo chị Hường, mới đây, chị đã nhận lời làm việc tại một
văn phòng đào tạo ngoại ngữ quốc tế nhưng chỉ làm bán thời gian trong lúc đợi họ cải tạo các
công trình tiếp cận NKT.
Khảo sát một số toà nhà, trung tâm mua sắm chúng tôi nhận thấy hầu như tại đây không
có nhà vệ sinh dành cho NKT, còn nhà vệ sinh thông thường lại không có tay vịn hoặc diện
tích không đủ rộng nên những người đi xe lăn không thể vào được. Hầu hết các toà nhà, trung
tâm mua sắm lớn có lối dẫn lên các tầng bằng cầu thang cuốn nhưng ngay cả những người
lành lặn sử dụng cũng còn nguy hiểm nói gì đến NKT.
Nhiều tòa nhà cao tầng, chung cư mới chưa được các chủ đầu tư quan tâm, xây dựng
các hạng mục hỗ trợ NKT. Các khu văn phòng, tòa nhà mặc dù mới được xây dựng nhưng
cũng không thấy bóng dáng nhà vệ sinh, lối đi riêng cho NKT. Muốn lên được các tầng cao,
nhiều người khiếm thị phải vất vả vượt qua những bậc thang ở tiền sảnh để vào được thang
máy. Những người đi xe lăn nếu không có sự trợ giúp của người thân thì đành chịu thua.
Tại các chung cư không có thang máy còn khốn khổ hơn, NKT muốn lên được các tầng
trên chỉ còn biết trông chờ vào lòng tốt của những người xung quanh. Nhiều NKT phản ánh
họ rất ngại khi được mời tham dự các hội nghị, hội thảo tổ chức tại các tòa nhà cao tầng do
phải rất vất vả mới lên được đến nơi, có những hội nghị kéo dài cả ngày khiến nhiều NKT
phải bỏ về giữa chừng vì họ không thể tìm được chỗ đi vệ sinh dành cho NKT. Tại các cầu
vượt dành cho người đi bộ mới được xây dựng tại Hà Nội, tìm đỏ mắt NKT cũng không thấy
nơi nào dành cho mình…
Ngay cả loại dịch vụ thông dụng nhất như xe buýt cũng được xem như một “rào cản”
đối với NKT.
18
Có thể thấy, Luật người khuyết tật 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành đều đã có
quy định cụ thể về vấn đề giao thông và công trình công cộng cho người khuyết tật, tuy nhiên
trên thực tế lại thi hành chưa được triệt để. Vì vậy, thiết nghĩ vấn đề giao thông và công trình
công cộng cho người khuyết tật cần phải đảm bảo thực hiện một cách triệt để chứ không phải
chỉ trên lí thuyết. Trước hết về cơ sở hạ tầng, tại các điểm dừng, đỗ, nhà chờ, bến, nhà ga phải
có lối vào hoặc thiết bị trợ giúp phù hợp để người khuyết tật tiếp cận sử dụng. Tại các khu
vực ngồi chờ phải bố trí chỗ cho các đối tượng ưu tiên trong đó có người khuyết tật.
Đối với các công trình công cộng trong bến, nhà ga như: khu bán vé, khu dịch vụ, khu
vệ sinh, thang máy, điểm rút tiền, lối thoát nạn phải tính đến nhu cầu sử dụng của người
khuyết tật. Tại lối vào các công trình công cộng phải bảo đảm tiêu chuẩn tiếp cận; khu vực
chỗ dành cho đối tượng ưu tiên phải có ký hiệu, biển báo để người khuyết tật nhận biết, sử
dụng…
Đối với các khu chung cư, Bộ xây dựng đã ban hành Quy chuẩn xây dựng để đảm bảo
cho người khuyết tật sử dụng. Vì vậy, cần áp dụng một cách có hiệu quả để người khuyết tật
có thể sử dụng được các công trình công cộng như những công dân bình thường khác.
Luật NKT đã quy định, NKT có quyền được sử dụng các công trình công cộng như
những người bình thường khác một cách bình đẳng. Đó là quyền lợi chính đáng họ được
hưởng chứ không phải do sự giúp đỡ hay ban ơn của xã hội. Việc NKT chưa được quan tâm
đúng mức là do nhận thức của xã hội nói chung về quyền lợi của NKT chưa đầy đủ và còn
nhiều hạn chế. Điều này đã khiến họ thêm mặc cảm, khó hòa nhập với cộng đồng. Do vậy,
trong thời gian tới, các cơ quan chức năng cần tăng cường tuyên truyền, nâng cao ý thức của
mỗi người dân về quyền của NKT, đồng thời, nhà nước nên có chế tài và giám sát chặt chẽ
việc thực hiện các quy định về xây dựng công trình tiếp cận NKT của các chủ đầu tư, tránh
tình trạng quy định chỉ nằm trên giấy.
Nhà ở chung cư cho người khuyết tật cần đảm bảo các tiêu chuẩn, điều kiện để người
khuyết tật có thể tiếp cận được một cách tốt nhất. Chẳng hạn như, trong các khu nhà ở chung
cư phải có ít nhất một đường ra vào dành cho người khuyết tật ( nhất là người khuyết tật di xe
lăn) đến được các không gian bên ngoài và các công trình... Luật NKT cũng đã quy định về
vấn đề này, tuy nhiên việc thực hiện vẫn chưa đạt được kết quả tốt. Vì vậy, cần phải có biện
19
pháp để đảm bảo một cách tốt nhất quyền lợi của người khuyết tật khi sử dụng nhà ở chung
cư và công trình công cộng.
Thiết nghĩ, Luật người khuyết tật mới ra đời nên vẫn còn nhiều thiếu sót, vì vậy cần bổ
sung và hoàn thiện hơn nữa trong thời gian tới, để luật được đảm bảo thi hành trên thực tế, có
như vậy, người khuyết tật mới có thể đảm bảo được các quyền lợi chính đáng của mình như
những công dân khác.
C.KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Qua những phân tích trên có thể thấy việc xây dựng nhà chung cư và các công trình
công cộng đáp ứng các điều kiện về tiêu chuẩn để người khuyết tật có thể tiếp cận, sử dụng
đang là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Người khuyết tật có
khả năng và có quyền được hưởng các dịch vụ này nhằm phục vụ cho đời sống sinh hoạt, học
tập và lao động của mình.
20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà Nội – Nhà
xuất bản công an nhân dân – 2011.
2, Luật người khuyết tật năm 2010.
3, Luật xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26/11/2003, có hiệu lực từ ngày 01/7/2004.
4, Luật giao thông đường bộ số 23/2008/QH12 ngày 13/11/2008.
5, />6, />
21
MỤC LỤC
Trang
A.ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………………….1
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………………………………………..1
I – Khái quát chung về người khuyết tật………………………………………….1
1, Định nghĩa về người khuyết tật………………………………………………...1
2, Đặc điểm của người khuyết tật…………………………………………………1
II - Quy định của pháp luật về nhà chung cư và sử dụng các công trình, dịch vụ
công cộng đối với người khuyết tật……………………………………………….3
III - Thực hiện các quy định về nhà chung cư và sử dụng các công trình, dịch vụ
công cộng đối với người khuyết tật trên địa bàn Hà Nội…………………………..
1, Thành tựu đạt được……………………………………………………………..8
2, Hạn chế………………………………………………………………………..10
IV - Nhận xét, đánh giá về thực hiện các quy định và kiến nghị về nhà chung cư
và sử dụng các công trình, dịch vụ công cộng đối với người khuyết tật trên địa
bàn Hà Nội……………………………………………………………………….15
1, Những thành tựu đạt được…………………………………………………….15
2, Hạn chế……………………………………………………………………......16
3, Một Kiến nghị hoàn thiện các quy định về nhà chung cư và sử dụng các công
trình, dịch vụ công cộng đối với người khuyết tật trên địa bàn Hà Nội…………16
C.KẾT THÚC VẤN ĐỀ…………………………………………………………20
22