ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG VĂN QUẾ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LAI
CHÂU
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)
HÀ NỘI - 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG VĂN QUẾ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LAI
CHÂU
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380101.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THU HIỀN
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Hoàng Văn Quế
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP
XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM ........... 7
1.1.
Một số vấn đề về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ............. 7
1.1.1. Người khuyết tật – đối tượng cần nhận được sự trợ giúp nhất từ
xã hội ..................................................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ........................... 10
1.1.3. Nguyên tắc cơ bản của trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ........ 12
1.2.
Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở Việt Nam ......... 15
1.2.1. Chính sách trợ cấp xã hội đối với người khuyết tật ............................ 15
1.2.2. quy định trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở cộng đồng và
cơ sở trợ giúp xã hội............................................................................ 21
1.2.3. Hỗ trợ, tạo điều kiện cho người khuyết tật hòa nhập cộng đồng ........ 24
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 29
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ
GIÚP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH LAI CHÂU ............................................................ 30
2.1.
Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật ............................................................. 30
2.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội .................................................................... 30
2.1.2. Hệ thống quy phạm pháp luật về trợ giúp xã hội ................................ 31
2.1.3. Mô hình tổ chức trợ giúp xã hội.......................................................... 31
2.1.4. Năng lực của những người làm công tác người khuyết tật ................. 32
2.2.
Những kết quả đạt được về thực hiện pháp luật về trợ giúp
xã hội đối với người khuyết tật ........................................................ 33
2.2.1. Về thực hiện các chính sách trợ cấp xã hội đối với người khuyết tật ...... 36
2.2.2. Về thực hiện các quy định trợ giúp xã hội đối với người khuyết
tật ở cộng đồng và cơ sở trợ giúp xã hội ............................................. 38
2.2.3. Về thực hiện các quy định pháp luật về hỗ trợ, tạo điều kiện cho
người khuyết tật hòa nhập cộng đồng ................................................. 41
2.3.
Một số tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc .......................... 43
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 48
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT
TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LAI CHÂU ...............................................49
3.1.
Yêu cầu bảo đảm thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối
với người khuyết tật .......................................................................... 49
3.1.1. Thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
phải đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam ..... 49
3.1.2. Thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân ................................ 51
3.1.3. Thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
cần nhận thức là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
liên quan .............................................................................................. 51
3.1.4. Thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
phải đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính ở nước ta hiện nay ........... 53
3.2.
Một số giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Lai Châu .............. 54
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật .................................................................................. 54
3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật ................................................... 59
3.2.3. Đẩy mạnh xã hội hoá, huy động nguồn lực của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật ............................................................................................. 60
3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan
và hiệu quả hoạt động của Ban Công tác người khuyết tật ................ 62
3.2.5. Tăng cường công tác giám sát , thanh tra, kiểm tra đối với hoạt
động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật .................................... 64
3.2.6. Nâng cao trình độ, năng lực của những người làm công tác
người khuyết tật .................................................................................. 65
3.2.7. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án về người
khuyết tật trên địa bàn tỉnh Lai Châu .................................................. 66
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 72
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo đảm quyền con người là nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước
ta, trong đó điểm nhấn quan trọng là “Mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội” [31, Điều 16]. Đối với những người khuyết tật, với tư cách
là những người dễ bị tổn thương, chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống xã hội,
thì họ không chỉ cần được bảo đảm quyền bình đẳng trong tiếp cận, thực hiện
các quyền về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của mình mà còn cần có sự trợ
giúp từ xã hội, cộng đồng. Vì vậy, trong thời gian qua, thực hiện các cam kết
quốc tế về bảo đảm quyền con người, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều định
hướng, chính sách, pháp luật về người khuyết tật, đặc biệt là với vai trò chủ
đạo của Nhà nước, hoạt động trợ giúp người khuyết tật đã có những chuyển
biến tích cực không chỉ với chính những người khuyết tật mà còn về nhận
thức của xã hội, giúp cho người khuyết tật khắc phục khó khăn, sự mặc cảm
để tự tin, phát huy năng lực và hòa nhập tích cực hơn vào các hoạt động trong
đời sống xã hội.
Ở tỉnh Lai Châu, trong thời gian qua, công tác trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật đã có những chuyển biến tích cực. Hoạt động trợ giúp xã hội
đối với người khuyết tật đã thu hút sự quan tâm, phát huy trách nhiệm của các
cấp, các ngành, tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư, từng bước giảm dần
những rào cản, cải thiện một bước việc đáp ứng các nhu cầu, quyền lợi của
người khuyết tật, tạo động lực để họ phát huy năng lực, vươn lên hòa nhập
với xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác chăm sóc,
trợ giúp người khuyết tật vẫn còn một số khó khăn, bất cập như: nhiều người
1
khuyết tật là người dân tộc thiểu số còn chưa tiếp cận đầy đủ được với các
chính sách trợ giúp, ưu đãi của Nhà nước về y tế, giáo dục, dạy nghề, việc
làm… vì thiếu những thông tin liên quan; đời sống của nhiều người khuyết tật
còn gặp khó khăn, thuộc hộ nghèo; một bộ phận cán bộ, công chức và người
dân còn chưa nhận thức đẩy đủ về vấn đề người khuyết tật, xem công tác
người khuyết tật thuộc trách nhiệm của ngành Lao động –Thương binh và Xã
hội, xem việc trợ giúp người khuyết tật chỉ là hoạt động từ thiện, nhân đạo từ
cộng đồng; cơ sở vật chất tại các cơ sở trợ giúp người khuyết tật còn thiếu
thốn, nhất là trang thiết bị y tế phục hồi chức năng phù hợp cho người khuyết
tật, thiếu các dịch vụ trị liệu tâm lý…
Thực trạng trên đòi hỏi phải có những phương hướng, giải pháp để
khắc phục tồn tại, khó khăn và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp xã hội
cho người khuyết tật, góp phần vào việc bảo đảm quyền của người khuyết
tật và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lai Châu. Vì
lý do trên, em chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Lai Châu" làm đề tài cho luận văn thạc
sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến vấn đề thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật đã có một số công trình nghiên cứu với những góc độ tiếp
cận khác nhau. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
- “Để nâng cao khả năng thực hiện pháp luật về việc làm và dạy nghề
đối với người tàn tật” của tác giả Nguyễn Đức Hoán đăng trên Tạp chí Lao
động và Xã hội, (308), 2007, tr.2-5.
- “Định hướng phát triển chính sách đối với người khuyết tật trong giai
đoạn tới” của tác giả Lê Bạch Hồng đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội,
(333), 2008, tr.14-29.
2
- “10 năm công tác trợ giúp người tàn tật và những vấn đề đặt ra”
của tác giả Nguyễn Hữu Hải đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội, (333),
2008, tr.16-18.
- “Những vấn đề đặt ra trong thực hiện dịch vụ xã hội đối với người
khuyết tật và một số khuyến nghị” của tác giả Lý Hoàng Mai đăng trên Tạp
chí lao động và xã hội, (370), 2009, tr.37-41.
- "Quyền con người và người tàn tật” của tác giả Vũ Ngọc Bình, Nxb
Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2011.
- “Để người khuyết tật hòa nhập cộng đồng” của tác giả Phùng Thủy
đăng trên
- “Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động dưới góc độ pháp luật
lao động” của tác giả Đỗ Minh Nghĩa, Luận văn Thạc sĩ Luật học, tr.6, Trường
Đại học Luật Hà Nội, 2012.
- “Pháp luật về bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật tại Việt Nam Thực tiễn và một số kiến nghị” của tác giả Nguyễn Hiền Phương đăng trên
Tạp chí Luật học năm 2013.
- “Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật” của tác giả Hồ Thị
Trâm, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013.
- “Thực trạng an sinh xã hội ở Việt Nam và phương hướng hoàn
thiện” của tác giả Lê Thị Hoài Thu đăng trên trên Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, (1), 2014.
- “Thực trạng công tác dạy nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật và
một số nhiệm vụ thời gian tới” của tác giả Hồng Phượng đăng trên Tạp chí
Lao động và Xã hội, (487), 2014, tr.50-51.
Ngoài ra, liên quan đến đề tài còn một số công trình nghiên cứu được
công bố trên các báo, tạp chí, trang web…
Qua việc nghiên cứu các đề tài đã công bố, có thể thấy các công trình
3
nghiên cứu trên đã đề cập đến một số vấn đề về thực hiện pháp luật về trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật như: khái niệm, đặc điểm, nội dung trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật; vấn đề bảo đảm về việc làm cho người
khuyết tật... Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, chưa có công trình nào nghiên
cứu chuyên sâu liên quan đến thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở Việt Nam; đánh giá thực trạng
pháp luật và đưa ra một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về trợ giúp
xã hội đối với người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Lai Châu trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật và pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Lai Châu;
- Phân tích một số quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo
đảm thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên địa
bàn tỉnh Lai Châu trong thời gian tới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật có thể
được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ
bảo đảm quyền của người khuyết tật, tác giả tập trung nghiên cứu thực trạng
thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật từ khi có Luật
người khuyết tật năm 2010 đến nay.
4
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết
học Mác-Lênin; kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng
hợp, so sánh thống kê, tổng kết thực tiễn. Cụ thể là:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng chủ yếu tại Chương 1
để nêu và phân tích cơ sở lý thuyết của vấn đề nghiên cứu, từ đó khái quát hóa
thành những luận điểm, quan điểm làm cơ sở cho việc nghiên cứu các nội
dung khác trong luận văn.
- Phương pháp phân tích, so sánh được áp dụng nhằm làm rõ những nội
dung của Chương 2. Đây là chương đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về
trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật, qua đó nhận diện những ưu điểm,
hạn chế và đề xuất các giải pháp ở Chương 3.
- Phương pháp phân tích, chứng minh được sử dụng chủ yếu ở
Chương 3 nhằm làm rõ những yêu cầu, giải pháp đảm bảo thực hiện pháp
luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật nói chung, trên địa bàn tỉnh
Lai Châu nói riêng.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu cơ bản, tương đối có hệ thống về
cơ sở lý luận , thực tiễn thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với
người
khuyết tật.
- Luận văn đã chỉ ra những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của thực
trạng thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên địa
bàn tỉnh Lai Châu.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t ; nâng cao hiê ̣u quả thực
hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật nói chung và trên
địa bàn tỉnh Lai Châu nói riêng trong thời gian tới.
5
- Kết quả nghiên cứu luận văn có thể sử dụng tham khảo phục vụ
công tác giảng dạy, đào tạo có liên quan đến người khuyết tật và cá nhân,
tổ chức quan tâm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật và
pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
Chương 3: Một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
1.1.1. Người khuyết tật – đối tượng cần nhận được sự trợ giúp nhất
từ xã hội
Trong đời sống xã hội, mỗi con người được sinh ra đều mong muốn có
sự bình thường về thể chất về tinh thần, tuy nhiên thực tế ở những điều kiện
nhất định (chiến tranh, bão lụt, hạn hán, bệnh tật...), có những người phải chịu
những khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần làm suy giảm khả năng thực
hiện các hoạt động, lao động, sinh hoạt hàng ngày... và họ rất cần sự hỗ trợ,
giúp đỡ để đảm bảo cuộc sống và hòa nhập cộng đồng. Vì vậy, với trách
nhiệm đảm bảo và chăm lo đời sống cho các thành viên xã hội, Nhà nước đều
xác định trách nhiệm ở các mức độ, phạm vi nhất định đối với việc bảo đảm
cho người khuyết tật có được cuộc sống đầy đủ về sức khỏe và phúc lợi cho
họ và gia đình ở mức có thể.
Tuy nhiên, trong một thời kỳ dài, quan niệm về người khuyết tật chưa
được đề cập chính thức trong văn kiện quốc tế cũng như văn bản quy phạm
pháp luật mà xã hội chỉ nhìn nhận họ là những người tàn tật (Disable persons),
là đối tượng phúc lợi xã hội. Chỉ đến những năm 80 của thế kỷ XX, nhận thức
về người khuyết tật đã có sự thay đổi và việc sử dụng thuật ngữ “Người
khuyết tật” đã thể hiện sự coi trọng đến nhóm người thiệt thòi này. Tuy vậy,
tùy vào điều kiện kinh tế, văn hóa- xã hội của mỗi nước, quan niệm về người
khuyết tật cũng có sự khác nhau.
7
Có quan niệm cho rằng: Người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể
chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan
trọng trong cuộc sống [16].
Có quan điểm khác cho rằng: Người khuyết tật là một trong những người
bị bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng tâm lý hay
sinh lý, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ hoặc một
phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách bình thường [21].
Cũng có quan điểm cho rằng: Người khuyết tật là người có khiếm
khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác
với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và
trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác [5]…
Ở nước ta, trước đây trong các văn bản pháp luật chưa sử dụng thuật
ngữ "Người khuyết tật” mà sử dụng thuật ngữ “Người tàn tật” để chỉ người
mà khả năng lao động bị suy giảm từ 21% trở lên do tàn tật được hội đồng
giám định y khoa xác định [6], hay là người khiếm khuyết một hay nhiều bộ
phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau làm suy
giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều
khó khăn [14]. Chỉ đến khi Quốc hội ban hành Luật Người khuyết tật năm
2010 thì thuật ngữ “Người khuyết tật” chính thức được nhận diện đầy đủ, sử
dụng chính thức trong đời sống xã hội và phù hợp với quan niệm chung của
các nước trên thế giới , theo đó: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết
một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện
dưới dạng tật khiế n cho lao đô ̣ng , sinh hoa ̣t , học tập gặp khó khăn”. Đồng
thời, để có cơ sở thực hiện các biện pháp, chính sách đối với người khuyết tật,
Luật Người khuyết tật cũng quy định rõ các dạng tật
(khuyết tật vận động ;
khuyết tật nghe , nói; khuyết tật nhìn ; khuyết tật thần kinh , tâm thầ n ; khuyết
tật trí tuệ) và mức độ khuyết tật (khuyết tật đặc biệt nặng; khuyết tật nặng và
khuyết tật nhẹ).
8
Người khuyết tật trước hết là những con người nên họ mang những đặc
điểm chung về mặt kinh tế - xã hội, đặc điểm tâm sinh lý như mọi người khác
trong xã hội. Tuy nhiên, với những đặc điểm riêng về từng dạng khuyết tật
nên nhóm người khuyết tật nói chung lại có những nét đặc thù so với nhóm
người không khuyết tật.
Dưới góc độ kinh tế - xã hội, người khuyết tật là nhóm người đặc biệt
phải chịu thiệt thòi nhiều nhất về mặt kinh tế - xã hội và nhân khẩu học.
Những gia đình có người khuyết tật thường là những gia đình nghèo nàn, thu
thập nhất, trình độ học vấn thấp. Ngoài ra, người khuyết tật từ 15 tuổi trở lên
rất khó có việc làm, hầu hết người khuyết tật hoặc chưa bao giờ đi làm hoặc
đã từng đi làm nhưng lại bị thất nghiệp.
Theo ước tính của Tổ chức lao động quốc tế, có khoảng hơn 386 triệu
người trên thế giới trong độ tuổi lao động bị khuyết tật. Tỉ lệ thất nghiệp của
người khuyết tật ở một số quốc gia lên đến hơn 80%. Mặt khác, do bị khuyết
tật, người khuyết tật phải gánh chịu rất nhiều thiệt thòi trong cuộc sống xã
hội. Khuyết tật là nguyên nhân chính gây ra nhiều khó khăn cho người khuyết
tật trong việc thực hiện các công việc sinh hoạt hằng ngày, trong học tập, tiếp
cận dịch vụ chăm sóc y tế… Để khắc phục những khó khăn này, người khuyết
tật chủ yếu dựa vào gia đình – nguồn giúp đỡ chính đối với họ. Hoạt động hỗ
trợ cho người khuyết tật còn rất hạn chế. Thực tế cho thấy có sự khác biệt lớn
giữa nhu cầu của người khuyết tật và những giúp đỡ mà họ nhận được. Sự hỗ
trợ từ phía Nhà nước và cộng đồng thời gian qua mang tính từ thiện nhiều hơn
là phát triển con người. Người khuyết tật được hỗ trợ về bảo hiểm y tế, bảo
hiểm xã hội, thực phẩm… nhưng lại ít được trợ giúp trong việc làm, dạy nghề
và tham gia hoạt động xã hội.
Từ sự phân tích trên, có thể thấy rằng người khuyết tật phải chịu những
khó khăn, thiệt thòi nhất định trong sinh hoạt cá nhân, học tập, lao động; thực
9
hiện các quyền, hưởng các dịch vụ xã hội một cách đầy đủ và hòa nhập cộng
đồng như những người bình thường khác, nhất là trong trường hợp gia đình
người khuyết tật không có đủ điều kiện kinh tế, nhân lực để chăm sóc, hỗ trợ
người khuyết tật. Vì vậy, để khắc phục những khó khăn này, người khuyết tật
rất cần sự trợ giúp của xã hội và dưới góc độ bảo đảm quyền con người, có
thể nói rằng trợ giúp xã hội là một yêu cầu khách quan đòi hỏi trách nhiệm
của Nhà nước và sự chung tay của cộng đồng để bảo đảm cho người khuyết
tật hạn chế thấp nhất những khó khăn, thiệt thòi cũng như tham gia, thực hiện
tốt nhất các quyền của mình được pháp lu khuyết tật nói riêng không chỉ thể hiện ở kết quả áp dụng
các chế độ trợ cấp xã hội, tạo điều kiện cho người khuyết tật được tiếp cận các
dịch vụ chăm sóc, nuôi dưỡng… mà còn thể hiện qua kết quả tuyên truyền,
nâng cao ý thức pháp luật, tạo niềm tin của người khuyết tật đối với các cơ
quan thực hiện công tác người khuyết tật. Vì vậy, để đạt được đầy đủ các mục
đích nêu trên, ngoài vai trò của những người làm công tác người khuyết tật,
đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phải thực hiện đúng nghĩa vụ,
trách nhiệm, quyền hạn của mình để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trợ giúp xã
52
hội, trong đó quan trọng nhất là trách nhiệm phối hợp trong thực hiện pháp
luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. Điều này được minh chứng
trong thực tiễn trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật thông qua sự phối hợp
huy động các nguồn lực, nâng cao chất lượng các dịch vụ trợ giúp cho người
khuyết tật; phối hợp trong việc kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật…
3.1.4. Thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
phải đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính ở nước ta hiện nay
Vấn đề cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ
quan nhà nước, trong đó có các cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ trợ giúp
xã hội, được coi là một trong những nội dung quan trọng trong cải cách thể
chế tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Nhà nước, trong đó có cải
cách hành chính trong trợ giúp xã hội nói chung, trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật nói riêng.
Công tác trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật là một nội dung công
việc của Nhà nước nên hoạt động trợ giúp xã hội đối với Người khuyết tật có
mối quan hệ mật thiết đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, nhất là hoạt
động của các cơ quan quản lý nhà nước về người khuyết tật, cơ quan, tổ chức
thực hiện công tác người khuyết tật nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp
pháp của người khuyết tật. Do đó, việc bảo đảm hiệu quả trợ giúp xã hội đối
với người khuyết tật cũng đòi hỏi phải đáp ứng những yêu cầu cải cách hành
chính, nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin nhằm giảm thiểu các chi phí
tuân thủ các thủ tục hành chính trong hoạt động trợ giúp xã hội cũng như đảm
bảo tính công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện pháp luật về trợ giúp
xã hội đối với người khuyết tật, nhất là việc giải quyết các chính sách, chế độ
đối với người khuyết tật.
53
3.2. Một số giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Lai Châu
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về trợ giúp xã hội đối
với người khuyết tật
Hiệu quả trợ giúp xã hội nói chung, trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật nói riêng phụ thuộc rất lớn vào quy định của pháp luật. Thực tế cho
thấy rằng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở nước ta thời
gian qua mặc dù đã được hoàn thiện nhưng cũng còn những vướng mắc, bất
cập trước những yêu cầu bảo vệ người khuyết tật và điều kiện phát triển kinh
tế đất nước. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật là cần thiết, theo đó cần tập trung vào những nội dung cơ bản sau:
Một là, hoàn thiện hơn nữa các quy định về cơ sở bảo trợ xã hội đối
với người khuyết tật theo hướng sau:
- Khuyến khích thành lập cơ sở bảo trợ xã hội tư nhân, cơ sở bảo trợ
dành riêng cho người khuyết tật.
- Quy định cụ thể điều kiện cơ sở vật chất, kĩ thuật, trình độ và các tiêu
chí về đạo đức, nghề nghiệp của cán bộ, nhân viên thực hiện việc chăm sóc
người khuyết tật; việc cấp giấy hành nghề công tác xã hội; tiêu chuẩn dịch vụ
trợ giúp xã hội, khung giá dịch vụ trợ giúp xã hội…
- Quy định bổ sung các hình thức nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết
tật gắn với cộng đồng như cho phép cá nhân, hộ gia đình nhận nuôi dưỡng,
chăm sóc người khuyết tật, đặc biệt là trẻ em khuyết tật, nhằm tạo điều kiện
cho người khuyết tật hòa nhập tốt hơn trong cộng đồng.
- Đổi mới cơ chế tài chính các đơn vị sự nghiệp công theo quy định tại
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ theo đó ngân
sách nhà nước đảm bảo chi hoạt động thường xuyên của cơ sở bảo trợ xã hội
công lập theo cơ chế đặt hàng cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội công; đối với
54
cơ sở ngoài công lập, Nhà nước chi trả dịch vụ theo khung giá dịch vụ cho
các cơ sở trợ giúp xã hội nuôi dưỡng và chăm sóc các đối tượng bảo trợ xã
hội theo danh mục dịch vụ trợ giúp xã hội được sử dụng ngân sách nhà nước
nhằm đảm bảo cho người khuyết tật hưởng lợi hơn trong việc tiếp cận các
dịch vụ chăm sóc, nuôi dưỡng. Đồng thời, rà soát, hoàn thiện cơ chế khuyến
khích, huy động nguồn lực từ người dân và cộng đồng xã hội cho công tác trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật; đổi mới hình thức hỗ trợ tiền mặt có
điều kiện cho nhóm đối tượng người khuyết tật theo hướng chuyển từ phương
thức cấp phát trực tiếp cho đơn vị sự nghiệp công sang cấp phát cho đối tượng
thụ hưởng dịch vụ công.
Hai là, các tiêu chí xác định người khuyết tật cần trợ giúp xã hội.
- Việc xác định người khuyết tật cần theo các tiêu chí như: dạng khuyết
tật; mức độ khuyết tật; mức độ khó khăn của người khuyết tật trong việc độc
lập, tự chủ cuộc sống cá nhân và khả năng lao động; nhu cầu của người
khuyết tật; độ tuổi và giới tính của người khuyết tật…
Trên cơ sở các tiêu chí được xây dựng, trong thời gian tới cần quy định
mở rộng phạm vi đối tượng người khuyết tật được hưởng trợ giúp xã hội so
với Luật Người khuyết tật hiện hành. Thực tế cho thấy rằng trong nhiều năm
qua, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đã không ngừng mở rộng
các đối tượng người khuyết tật được hưởng trợ giúp xã hội nhưng phạm vi đối
tượng người khuyết tật được hưởng trợ giúp xã hội còn hạn chế. Vì vậy, trước
yêu cầu cần mở rộng phạm vi đối tượng, tăng mức trợ cấp và các hỗ trợ khác
cho người khuyết tật với tương quan về khả năng đáp ứng của điều kiện kinh
tế - xã hội cho thấy không thể ngay lập tức bổ sung đối tượng hưởng trợ giúp
xã hội mà cần có lộ trình cụ thể theo từng giai đoạn, phù hợp với điều kiện
thực tế, đảm bảo tính khả thi. Trước mắt, có thể tính đến việc bổ sung một số
đối tượng người khuyết tật được hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên đối với
55
những người mắc bệnh tâm thần, bệnh tự kỷ, bệnh trầm cảm; người khuyết tật
nhẹ nhưng thuộc hộ gia đình nghèo, không nơi nương tựa, gặp khó khăn trong
lao động mà đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi; bổ sung đối
tượng người khuyết tật nặng không nơi nương tựa, không tự lo liệu được cuộc
sống được tiếp nhận vào nuôi dưỡng, chăm sóc tại các cơ sở bảo trợ xã hội
(theo quy định hiện nay chỉ tiếp nhận người khuyết tật đặc biệt nặng).
- Cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về xác định mức độ khuyết
tật, cấp giấy xác nhận mức độ khuyết tật nhằm đảm bảo tính chính xác và chặt
chẽ. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn
việc xác định mức độ khuyết tật cụ thể hơn để Hội đồng giám định cấp xã tổ
chức tốt việc xác định chính xác, đúng đối tượng người khuyết tật được
hưởng trợ cấp xã hội.
Bai là, về trợ cấp xã hội đối với người khuyết tật
Cần hoàn thiện quy định của pháp luật về trợ cấp xã hội thường xuyên
và đột xuất với người khuyết tật theo hướng sau:
- Rà soát sửa đổi, bổ sung chính sách trợ giúp xã hội đối với các đối
tượng bảo trợ xã hội nói chung, người khuyết tật nói riêng theo hướng quy
định tăng mức trợ giúp xã hội cho phù hợp với tình hình biến động của giá cả,
đảm bảo đáp ứng mức sống tối thiểu của người khuyết tật và gia đình.
Pháp luật cần tăng mức trợ cấp xã hội đối với người khuyết tật bởi vì so
với mặt bằng sống hiện nay, mức trợ cấp này còn thấp so với mức sống cơ
bản của mỗi cá nhân, không đủ để đối tượng người khuyết tật đáp ứng nhu
cầu sống tối thiểu nên khả năng để vượt qua hoàn cảnh, vươn lên hòa nhập
cộng đồng là vô cùng khó khăn.
- Quy định hình thức trợ cấp xã hội và hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng
tháng theo hướng linh hoạt, đa dạng và phong phú hơn. Thậm chí ngay
trong nhóm đối tượng người khuyết tật với dạng tật khác nhau, pháp luật
56
cũng cần có các quy định cụ thể về hình thức hỗ trợ người khuyết tật,
không chỉ dừng lại ở hình thức hỗ trợ bằng tiền mặt mà cần đa dạng các
hình thức trợ giúp khác như đào tạo nghề cho người khuyết tật, đào tạo kĩ
năng hoà nhập cộng đồng.
- Tăng mức trợ cấp đột xuất để đảm bảo bù đắp được những thiệt hại
xảy ra đối với người khuyết tật và gia đình.
- Quy định việc chuyển đổi phương thức chi trả chính sách trợ giúp xã
hội hàng tháng cho người khuyết tật cũng như các đối tượng bảo trợ xã hội
khác thông qua hệ thống bưu điện, giảm áp lực công việc cho cơ quan quản lý
nhà nước, tăng hiệu quả chi trả, tránh việc chi trả nhầm lẫn, sai đối tượng và
lợi dụng chính sách; đồng thời quy định thủ tục hành chính để hưởng chế độ
trợ giúp đối với người khuyết tật theo hướng đơn giản, thuận lợi hơn (ví dụ
như trong thời gian tới cần quy định giảm thời gian nhận được quyết định
hưởng trợ cấp còn 5 ngày).
- Bổ sung quy định cụ thể về việc thống kê, rà soát lại đối tượng người
khuyết tật được hưởng trợ giúp xã hội.
Việc thống kê, rà soát đối tượng hưởng trợ giúp xã hội cần được quy
định là trách nhiệm thường xuyên của cán bộ cấp xã trực tiếp làm công tác trợ
giúp xã hội, bởi lẽ họ là những cán bộ nắm bắt được tình hình của nhân dân
địa phương một cách rõ ràng và chính xác, đồng thời chính những cán bộ này
cũng chính là chủ thể trực tiếp thực hiện công tác xét duyệt hồ sơ, thẩm định
thương tật của người khuyết tật, đề xuất phương án để người khuyết tật hưởng
chế độ phù hợp theo quy định của pháp luật, do đó họ có thể nắm vững số
lượng cũng như tình trạng của từng đối tượng khuyết tật.
- Xây dựng các chính sách trợ giúp cho người khuyết tật hướng đến
mục tiêu tăng cường hỗ trợ sinh kế phù hợp với đặc điểm sức khỏe và nhu
cầu của đối tượng người khuyết tật. Trong thiết kế chính sách, cần đổi mới
57
quan điểm tiếp cận đối với người khuyết tật phải dựa trên quyền bình đẳng
của công dân, coi người khuyết tật là công dân bình đẳng với mọi công dân
khác chứ không chỉ là đối tượng chăm sóc của xã hội, nhất là khi Việt Nam
đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của người khuyết tật.
Ví dụ như: trong vấn đề bảo hiểm y tế, hoạt động văn hóa, du lịch, cần thực
hiện chế độ miễn phí những người khuyết tật nói chung mà không có sự
phân biệt mức độ khuyết tật.
Bốn là, ban hành quy định về thành lập quỹ trợ giúp xã hội dành cho
người khuyết tật thống nhất từ Trung ương đến địa phương để thống nhất,
điều hòa việc sử dụng quỹ trợ giúp xã hội.
Hiện nay nước ta chưa xây dựng được quỹ trợ giúp xã hội theo đúng
nghĩa mà chỉ thực hiện cấp phát trợ cấp từ ngân sách trung ương và ngân sách
địa phương, trong đó ngân sách địa phương là chủ yếu. Vì vậy, số lượng đối
tượng người khuyết tật được hưởng trợ giúp xã hội chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong
tổng số đối tượng cần trợ giúp. Nguồn kinh phí cho hoạt động trợ giúp xã hội
phụ thuộc vào quỹ dự phòng vì thế ngân sách chi cho hoạt động trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật phụ thuộc vào quỹ dự phòng mà không phụ thuộc
vào nhu cầu thực tế cần được trợ giúp của người khuyết tật cũng như các đối
tượng trợ giúp. Chính vì vậy việc thành lập quỹ trợ giúp xã hội dành cho
người khuyết tật sẽ đảm bảo nguồn kinh phí cho hoạt động trợ giúp xã hội đối
với người khuyết tật.
Năm là, sửa đổi, bổ sung các quy định về việc thanh tra, kiểm tra, khen
thưởng, xử lý vi phạm trong công tác trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
Hiện nay, chế tài áp dụng với các hành vi vi phạm hoạt động bảo trợ xã
hội đối với người khuyết tật chưa đầy đủ nên chưa đảm bảo tính răn đe. Do
đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu quy định rõ chế tài
xử phạt, đặc biệt là đối với các hành vi ngược đãi, phân biệt đối xử, kỳ thị đối
58
với người khuyết tật hoặc không thực hiện quy định của pháp luật liên quan
đến nhu cầu và quyền của người khuyết tật.
3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về
trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật nói riêng có ý nghĩa quan trọng để
đảm bảo hiệu quả trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. Ý nghĩa của
công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được thể hiện qua kỹ
năng vận động, thuyết phục của những người làm công tác người khuyết tật
để qua đó không chỉ người khuyết tật và gia đình họ hiểu, nhận thức đúng
về quyền của mình để chủ động bảo vệ những quyền, lợi ích hợp pháp của
người khuyết tật, đồng thời qua đó tạo sự ủng hộ của dư luận xã hội đối với
công tác trợ giúp xã hội.
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật phải làm rõ được bản chất của
hoạt động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật không phải là sự ban ơn,
nhân đạo của Nhà nước mà là trách nhiệm của Nhà nước, của cộng đồng đối
với những người khuyết tật để từ đó khích lệ, động viên, tạo điều kiện cho
người khuyết tật phấn đấu khắc phục khó khăn và tích cực hòa nhập cộng
đồng, đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Từ đó, trong từng hoạt động
trợ giúp xã hội, đòi hỏi người làm công tác người khuyết tật phải chủ động,
linh hoạt trong việc lựa chọn, giải thích các quy định pháp luật được áp dụng
để không chỉ người khuyết tật hiểu, nhận thức đúng mà trong nhiều trường
hợp ngay chính cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cũng nhận thức rõ trách
nhiệm phối hợp để giải quyết phù hợp những vướng mắc, khó khăn trong quá
trình trợ giúp xã hội. Tuy nhiên, để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật, đòi hỏi người
làm công tác xã hội phải nghiên cứu, đánh giá cụ thể từng trường hợp, hoàn
59
cảnh của người khuyết tật để có sự lựa chọn, phối hợp đúng với các cơ quan,
tổ chức cá nhân liên quan trong hoạt động trợ giúp, đảm bảo các chế độ, chính
sách đối với người khuyết tật và ngăn ngừa sự kỳ thị, phân biệt đối xử với
những người khuyết tật.
Việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về trợ giúp xã hội đối
với người khuyết tật cần tập trung vào việc tuyên truyền, phổ biến các Công
ước của Liên Hợp Quốc về quyền của người khuyết tật và các văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam liên quan đến người khuyết tật. Đặc
biệt cần tập trung lồng ghép vào việc thực hiện các chương trình, đề án, dự án
truyền thông; xây dựng tài liệu tuyên truyền; tổ chức đào tạo, tập huấn công
tác truyền thông đối với người khuyết tật về thái độ, cách ứng xử đối với
người khuyết tật, nhu cầu hỗ trợ người khuyết tật, luật pháp, chính sách và các
chương trình liên quan đến người khuyết tật trên phạm vi toàn quốc nói
chung, trên địa bàn tỉnh Lai Châu nói riêng. Đồng thời, nêu gương người tốt,
việc tốt trong công tác trợ giúp người khuyết tật và những người khuyết tật tự
phấn đấu vươn lên trong cuộc sống, những hoạt động có hiệu quả trong việc
trợ giúp người khuyết tật hòa nhập cộng đồng để động viên, khích lệ các hoạt
động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trong cộng đồng. Ví dụ như:
tuyên truyền cho đội ngũ lái xe, phụ xe về việc hỗ trợ hành khách là người
khuyết tật; tiếp sóng các chương trình truyền thanh, truyền hình có phụ đề và
dịch thủ ngữ phục vụ người khiếm thính, các phương tiện báo chí có khả năng
tiếp cận với người khiếm thị..
3.2.3. Đẩy mạnh xã hội hoá, huy động nguồn lực của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
Xã hội hoá là chủ trương chung của Đảng và nhà nước ta được khuyến
khích trong công tác trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. Để thực hiện
chủ trương này, Nhà nước cần phải có chiến lược cụ thể và khả thi với mục
60
tiêu là khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân trong và
ngoài nước tài trợ, giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật tham gia hoạt động trợ
giúp người khuyết tật với các hình thức phù hợp.
Ở phạm vi quốc gia, để thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật, Nhà nước cần huy động các nguồn lực
từ các thành phần kinh tế trong hoạt động chăm sóc người khuyết tật, trong đó
đặc biệt quan trọng là phát hiện sớm và can thiệp sớm đối với người khuyết
tật. Thực tế cho thấy trong những năm qua, nhiều tổ chức quốc tế cũng đã
tham gia hỗ trợ bước đầu trong công tác sàng lọc trẻ sơ sinh nhằm hạn chế các
nguy cơ xảy ra khuyết tật, nhiều trẻ em đã thoát khỏi tình trạng khuyết tật khi
được can thiệp sớm. Vì vậy, trong lĩnh vực y tế, cần chú trọng xã hội hóa hoạt
động phát hiện sớm và can thiệp sớm để đảm bảo cho các cơ sở y tế chuyên
khoa phụ sản thực hiện đầy đủ hoạt động xét nghiệm ban đầu với tất cả các trẻ
sơ sinh, nhất là các vùng nông thôn, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa có
nhiều dân tộc thiểu số dưới 10.000 người sinh sống để giảm tỷ lệ khuyết tật
bẩm sinh đang chiếm tỷ lệ tương đối cao.
Trong lĩnh vực giáo dục, cần nghiên cứu mô hình giáo dục hoà nhập
phù hợp với khả năng và đặc điểm của từng dạng khuyết tật. Để thực hiện
công việc này đòi hỏi chủ trương xã hội hoá cao trong công tác nghiên cứu
mô hình trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục. Nhiệm vụ của trung tâm là
phát hiện sớm và can thiệp nhằm lựa chọn phương thức giáo dục phù hợp, tư
vấn tâm lý tình cảm giáo dục hướng nghiệp và cung cấp chương trình, nội
dung, thiết bị tài liệu phù hợp đặc thù của từng dạng trẻ khuyết tật cũng như
mức độ khuyết tật.
Ở phạm vi địa bàn tỉnh Lai Châu, để thực hiện công tác xã hội hóa hoạt
động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật, các cơ quan có thẩm quyền cần
khuyến khích việc áp dụng và mở rộng mô hình trung tâm bảo trợ xã hội tư
61