PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do viết đề tài:
Khi đất nước bước vào thời kỳ hội nhập để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém
phát triển thì giáo dục và đào tạo phải gánh vác một trách nhiệm vô cùng to lớn đó là phải
đào tạo cho đất nước một đội ngũ nhân lực hùng hậu để đáp ứng nhu cầu phát triển và hội
nhập … đó là điều mà tất cả những người làm công tác trong nghành giáo dục nói chung
và bản thân tôi nói riêng cũng trăn trở và suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng
học sinh, giúp các em nắm được kiến thức cơ bản ngay từ đầu lớp Một , giúp các em học
tốt và thích học nhất là giúp các em có một nền móng vững chắc trong học tập , bởi lớp
Một là nền móng cho sự phát triển của các em sau này ở các lớp kế tiếp, mà người ta
thường nói “ Cấp một là nền, lớp Một là móng” vì thế móng có chắc thì nền mới vững.
Ở lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói, đọc, viết. Và kỹ năng
đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các em nó sẽ
giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái
đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu , đoạn văn , bài văn mình vừa
đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác ở lớp Một các em
được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học
vững vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn nếu kết quả
học tập của các em đạt khá - giỏi. Năm học 2017 – 2018, tôi được phân công dạy lớp
1A2. Trong quá trình giao tiếp các em thường mắc các lỗi phát âm như sai về âm, vần,
tiếng, từ; không hiểu hết nghĩa của từ (hoặc hiểu sai) nên thường dùng sai từ để biểu đạt;
các em thường mắc phải lỗi phát âm như bỏ bớt một âm trong tiếng…Chính vì những lý
do đó nên tôi đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu “Rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1A2
Trường Tiểu học Lê Lợi năm học 2017 - 2018” làm sáng kiến kinh nghiệm để nghiên
cứu và ứng dụng vào thực tiễn trong quá trình giảng dạy của chính mình.
2.Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
- Giúp học sinh:
+ Hình thành, rèn luyện và vận dụng được kiến thức vào thực hành.
+ Đọc chuẩn các âm, vần, tiếng, từ, câu và đọc trơn thành thạo.
1
+ Có thể “đọc – hiểu” được kiến thức của tất cả các môn học.
+ Đọc thông viết thạo.
+ Giao tiếp tốt.
3.Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 1A2 trường Tiểu học Lê Lợi – Thị Xã Buôn Hồ.
- Nghiên cứu các lỗi sai mà học sinh thường mắc phải.
- Các biện pháp rèn đọc cho học sinh.
4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
- Phân môn học vần lớp 1.
- Một số tài liệu tham khảo khác.
5.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp hỏi đáp.
- Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh.
- Nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp thực nghiệm khoa học.
- Phương pháp nhận xét nêu gương.
-Phương pháp tổ chức các trò chơi.
- Phương pháp học nhóm.
PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
a. Cơ sở tâm lí học :
- Đi học lớp 1 là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ. Từ đây hoạt động
chủ đạo của trẻ sẽ chuyển từ hoạt động vui chơi ở giai đoạn mẫu giáo sang một loại hoạt
động mới đó là hoạt động học tập. Sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo này có tác động lớn
đến tâm lý của trẻ. Những thay đổi về tâm sinh lý của trẻ lớp 1 là hình thành khả năng tư
duy bằng tín hiệu những tín hiệu này thay thế ngữ âm. Ở độ tuổi 6-7 tuổi khả năng phân
2
tích, tổng hợp ở trẻ khá hoàn chỉnh, từ đây các em có khả năng tập tách từ thành tiếng,
thành âm và chữ .
b. Cơ sở ngôn ngữ học của việc rèn kỹ năng đọc .
- Kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1 rất quan trọng, đó cũng là sự phản hồi của kết quả
tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ,
các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng,
và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một bài thơ ngắn…
- Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu không
những thế các em còn phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm
chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của
tiếng, từ, câu , bài mà các em viết.
c. Cơ sở nghiên cứu
- Tôi thường nghiên cứu các giáo trình Phương Pháp Dạy Học Tiếng Việt 1. Các tài
liệu liên quan: Sách Giáo Viên, Sách Giáo Khoa lớp 1, Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1
. Các ấn phẩm: để học tốt, dạy tốt môn tiếng việt lớp Một . Sách báo , Các loại sách tham
khảo, bổ trợ Tiếng Việt lớp 1 . . .
2. Thực trạng của vấn đề rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1:
Vào đầu năm học khi được phân công dạy lớp 1A2 tôi đã nghiên cứu và nhận thấy
được những mặt thuận lợi có thể giúp các em học Tiếng Việt tốt như:
-Ở độ 6 -7 tuổi của học sinh lớp 1. Các em đa số còn rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời cô
giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng ….
- Có được sự quan tâm về việc học tập của con em mình của một số phụ huynh có ý thức
trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường cho giáo viên, và cùng với giáo viên trong
việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập,thường
xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà.
- Học sinh trong lớp luôn tích cực thi đua để học tốt như thường xuyên phát biểu xây
dựng bài, các em luôn chủ động nói lên ý kiến của mình trong giờ học.
-Hầu như các em đã học qua lớp mẫu giáo.
3
- Hệ thống sách giáo khoa cụ thể, chi tiết từng nội dung bài học, kênh hình, kênh chữ đẹp,
sinh động.
- Có sự đồng thuận giữa các đoàn thể trong và ngoài trường của các giáo viên bộ môn và
của hội cha mẹ học sinh.
- Ngoài ra chính quyền địa phương cũng rất quan tâm đến học sinh trong trường như
thường xuyên trao tặng các suất quà cho các em nghèo học giỏi để động viên khích lệ các
em.
Bên cạnh những thuận lợi mà tôi đã nêu trên thì vẫn còn một số mặt hạn chế như:
- Ở mẫu giáo hoạt động chủ yếu của các em là vui chơi, hầu hết các em chưa được làm
quen với bảng chữ cái Tiếng Việt. Chính vì thế vào đầu năm học khi tôi thực hiện khảo
sát bảng chữ cái của các em trong lớp thì thu được kết quả như sau:
- Tống số học sinh trong lớp: 17 em
• Học sinh không biết chữ cái nào
: 3 em
• Biết 6 – 10 chữ cái
: 5 em
• Nhận biết hết bảng chữ cái
: 6 em
• Nhận biết âm hai chữ cái
: 3 em
-Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, học tốt, tiếp
thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường
kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.
- Đa số phụ huynh trong lớp là dân làm vườn không, chưa quan tâm đúng mức đến việc
học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm cặp con em mình học bài, đọc
bài ở nhà.
- Một số trường hợp cha mẹ các em khoán trắng việc học hành cho người giáo viên và
nhà trường nên phần nào cũng ảnh hưởng đến việc học tập của các em.
- Vừa bước vào lớp 1 ở trường tiểu học nên các em còn rất nhiều rụt rè, bỡ ngỡ. Việc làm
quen với vần, tiếng, từ đối với các em thật khó khăn. Vì các em chưa học vần, tiếng, từ
nên việc phát âm chuẩn cho các em rất khó. Các em không hiểu rõ nghĩa của từ nên trong
4
quá trình diễn đạt các em khó nói rõ được ý của mình hoặc dùng từ chưa phù hợp với câu
muốn nói.
- Giáo viên nhà ở xa nên thời gian rất ít để rèn đọc cho các em.
- Sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh không được thường
xuyên, liên tục.
- Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên còn tự làm thêm
đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất thời gian đầu tư.
-Đèn chiếu , máy tính trang bị trong phòng học chưa có , mỗi lần dạy phải kết nối mất
nhiều thời gian .
- Là một địa phương thuần nông nên điều kiện kinh tế còn khó khăn chính điều đó làm
cho các em ít có điều kiện để tiếp xúc với sách, báo, truyện … làm cho các em ít có cơ
hội đọc Tiếng Việt.
- Trên đây là thực trạng về vấn đề đọc Tiếng Việt của học sinh lớp tôi. Với sự hiểu biết
của bản thân tôi mong muốn đem những kiến thức và kinh nghiệm của mình vào việc rèn
đọc cho học snh yếu lớp 1 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong lớp.
3. Giải pháp, biện pháp:
- Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề
nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn
học.
- Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà của
con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, các phát âm chữ cái,
cách đánh vần vần, đánh vần tiếng …để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên
kèm cặp con em mình ở nhà.
- Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy
học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình vật thật để tiết dạy vui,
sinh động. Đồng thời tăng cường vận dụng Ứng dụng công nghệ thong tin trong dạy
học , qua những hình ảnh động cũng góp phần gây hứng thú giúp các em hưng phấn
trong luyện đọc .
5
- Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau.
- Giáo viên có thể cho học sinh học yếu, đọc yếu để ngồi gần với nột học sinh
đọc giỏi. Bạn giỏi sẽ giúp bạn yếu khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần, đọc tiếng và
giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng.
- Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm
giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức giỏi, khá, trung
bình, yếu.Đối với các học sinh trung bình yếu. Các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc
chưa biết đủ 24 chữ cái đơn giản, giáo viên nên dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho
đối tượng này, ôn và dạy lại 24 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ
bản.
*Phần học các nét cơ bản:
- Giáo viên nên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học
sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo
gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh.Dựa vào các nét cơ
bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo
giống nhau.
Ví dụ: Các nét chữ cơ bản và tên gọi: Nét sổ thẳng , Nét ngang, Nét móc dưới, Nét móc
hai đầu, Nét xiên phải , Nét xiên trái, Nét cong hở phải, Nét cong hở trái, Nét cong kín,
….
* Phần học âm:
- Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách
vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái.
- Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép
các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với
nhau tạo thành từ, thành câu.
- Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ cái và
nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác nhau hay gặp trong
sách báo như chữ a, chữ g thi tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó cũng là chữ
6
a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo trẻ dễ hiểu, dễ đọc không bị
lúng túng.
Ví dụ: Âm a, g
+ Âm gồm 2 nét: Nét cong kín nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải.
a cũng có 2 nét : Nét cong kín bên trái và nét móc ngược bên phải.
+ Âm gồm 2 nét : Nét cong kín và nét cong phải.
g gồm 2 nét : Nét cong kín và nét khuyết dưới
Từ việc học kỹ cấu tạo âm bởi những nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ như trên sẽ
giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cất tạo và tên gọi của 4 âm sau:
Ví dụ:
+ Âm d: gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng ở bên phải. Đọc là :
“ dờ”
+ Âm b :gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên phải, nét sổ thẳng nằm ở bên trái. Đọc là :
“bờ”.
Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm
có âm h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống nhau và khác nhau của các âm
đó.
Ví dụ:
+ Các âm ghép:
ch
-
c
nh
-
n
th
-
t
kh
-
k
gh
-
g
ph
-
p
ngh -
ng
+ Còn lại các âm : gi,tr, qu,ng tôi cho học kỹ về cấu tạo
+ Phân từng cặp : ch - tr , ng - ngh, c - k, g – gh để học sinh phát âm chính xác và viết
chính tả.
7
- Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau) đa số học sinh chậm trong lớp
rất nhanh quên cách đọc của những âm này nên trong các bài ôn tập tôi luôn cho học
sinh đọc , ghép , viết , nhiều giúp các em ghi nhở tên âm .
- Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn tìm đủ cách để kiểm tra phát hiện sự tiến bộ
của trẻ thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ….. từ đó củng cố thêm kiến thức
cho học sinh.
- Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các
em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
Ví dụ: - Chữ này là chữ gì? ( chữ a, o,b,c, d….)
- Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào?( chờ- anhchanh). Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ nhàng,
tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu.Hãy ôn tồn dẫn dắt học sinh từng bước
một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng, từng câu trong mỗi ngày.
*Phần học vần
-Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm quen với
các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận biết các kiểu chữ
hoa một cách chính xác để các em đọc đúng.
-Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen:nhận diện, phân tích cấu tạo
của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững.
Ví dụ:
Học vần ay :
1/ Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần ay : vần ay gồm 2 âm: âm a và âm y đứng
sau .Vị trí âm trong vần: âm a đứng trước, âm y đứng sau.
2/ Đánh vần vần ay :
-Hướng dẫn học sinh: âm a đứng trước , ta đọc a trước, âm y đứng sau ta đọc y sau
: a- y - ay .
- Đọc trơn vần: ay
-Kết hợp dùng bộ chữ học vần tiếng vần dành cho học sinh sử dụng bộ thực hành ghép
chữ dành cho lớp Một để học sinh tìm và ghép âm , thanh , tiếng mới trong mỗi bài Học
vần .
8
Ví dụ : Yêu cầu các em: chọn đúng hai âm : a và y
Ghép đúng vị trí
: a trước y sau
Nếu các em đã ghép đúng giáo viên hướng dẫn cách đánh vần và đọc trơn vần như
trên các em sẽ nhận biết và đọc được vần ay
Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh như thế , nếu
được áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kỹ năng
phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ dàng và
thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt. Trong các bài dạy vần, sách giáo
khoa tiếng việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ ứng dụng và các câu thơ, câu văn ngắn để
học sinh luyện đọc.Muốn cho học sinh đọc được các từ và câu
ứng dụng trong bài giáo viên cho học sinh nắm chắc các vần sau đó cho các em ghép chữ
cái đầu với vần vừa học để đọc tiếng, đọc từ của bài.
Luôn đưa ra cho học sinh so sánh vần đã học với vần hôm nay học để học sinh so
sánh .
Ví dụ: dạy vần ay cho học sinh so sánh với vần ai , từ đây học sinh tìm ra âm giống nhau
âm nào , khác nhau âm nào ? Rồi so sánh cả hai vần trong bài học : ay / ây .Từ đây giúp
các em có kỹ năng so sánh đối chiếu và khắc sâu các vần trong phân môn Học vần .
Ví dụ: dạy vần ay có từ máy bay .
Sau khi học sinh nắm vững vần ay, nhìn và đọc được vần ay một cách chắc chắn.
Giáo viên đưa ra từ máy bay và giúp học sinh nhận biết: Âm gì đứng trước vần ay (âm b)
thanh gì ở trên vần ay(thanh ngang) vậy ta có thể ghép và đánh vần : bờ - ay– bay- bay ,
đọc trơn : bay , ghép từ :máy bay .
- Giáo viên có thể sử dụng tranh minh họa để cho học sinh hứng thú được nhìn vào
tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật để gợi trí tò mò, ham học hỏi của học sinh giúp các
em chủ động trong giờ học.
*/ Phần tập đọc:
- Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh trung bình,
yếu. Học sinh khá- giỏi đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào bài là
các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết tốt. Còn học
9
sinh trung bình, yếu các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác vần nên ghép tiếng
rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế đối với
các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội
tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. giáo viên tránh
nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động
của học sinh. Giáo viên nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh
vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại
đọc trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ.
Ví dụ: Dạy bài tập đọc Trường Em (sách giáo khoa Ttiếng Việt 1)
1/ Học sinh chưa đọc được tiếng trường, giáo viên nên cho các em đánh vần tiếng
trường bằng cách phân tích như sau:
GV: Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì?
HS: Tiếng trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền.
GV: Vậy đánh vần tiếng trường thế nào?
HS: trờ - ương – trương – huyền – trường.
GV: Đọc trơn tiếng này thế nào?
HS: Trường.
Rồi cho học sinh đọc nối tiếp:
trường em.
2/ Học sinh yếu không đọc được tiếng trường
GV nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường.
GV: Vần ương gồm có mấy âm?
HS: Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng.
GV: Vị trí các âm trong vần thế nào?
HS: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau.
GV: Đánh vần và đọc trơn vần ương.
HS: ươ- ngờ- ương/ ương
GV: Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương.Ta đánh vần, đọc
trơn tiếng thế nào?
HS: Trờ - ương – trương- huyền – trường / trường
10
và sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đành vần nhiều lần để khắc
sâu vào trí nhớ học sinh.
*/ Rèn cho học sinh các hình thức : đọc thầm, đọc hiểu, đọc thành tiếng.
- Đọc thầm: Học sinh nhìn liếc mắt đọc và phân tích cấu tạo vần , đọc trong trí nhớ. Tôi
yêu cầu học sinh nào đọc xong trước thì giờ tay để giáo viên kiểm tra tốc độ đọc của học
sinh.
- Đọc hiểu: Hướng dẫn học sinh kỹ năng nhận biết từ mới, từ khó hiểu chia một số từ
thành hai cột đảo lộn trật tự cho học sinh đọc và ghép lại để từ có nghĩa.
-Đọc thành tiếng: Rèn cho học sinh cách phát âm tự tin, biết lấy hơi khi đọc , đọc to, rõ
vừa đủ cho cả lớp nghe. Rèn cho các học sinh phương pháp đọc cá nhân, nối tiếp theo
dãy bàn, đọc nhóm cả lớp.
*/ Dạy đọc mẫu của giáo viên:
- Việc đọc mẫu của giáo viên giữ một vai trò quan trọng. Người thầy đầu tiên đặt nền
móng, trang bị cho học sinh về chuẩn ngôn ngữ của lời nói, nhất là khi dạy phần học vần
lớp Một. Giáo viên luyện đọc phát âm đúng cho học sinh, học sinh sẽ bắt chước rất
nhanh khi đọc âm, vần, tiếng từ mới. Vì thế giáo viên sửa phát âm phần âm ,vần, tiếng thì
không mấy khó.
- Khi đọc câu, để đọc đúng và hay, giáo viên phải có lòng ham muốn đọc hay và tự biết
điều chỉnh đọc đúng hơn và hay hơn. Vì thế, trước khi dạy cho học sinh đọc tôi phải
chuẩn bị cho mình một giọng đọc phù hợp với bài và nội dung bài, nhằm sau khi đọc mẫu
học sinh sẽ đọc đúng và hay hơn. Khi đọc mẫu tôi kết hợp giải nghĩa từ, để học sinh hiểu
và dễ nhớ thì sẽ đọc tốt hơn.
*/ Dạy đọc giúp học sinh dễ nhớ:
- Đọc âm: Khi cho học sinh đọc một âm, vần nào đó, nếu học sinh không nhớ. Tôi cho
học sinh nêu cấu tạo âm vần.
Ví dụ: Âm “ ch” học sinh nêu các âm ghép thành “ ch” , nếu học sinh vẫn chưa nhớ thì
tôi có một gợi ý về một đồ vật, con vật hoặc một việc làm,… có chứa tiếng “ chờ” khi đó
học sinh sẽ nhớ và đọc được ngay.
11
-Đọc vần: Khi học sinh đọc một vần nào đó xong, tôi có thể yêu cầu học sinh phân tích,
nêu cấu tạo và vị trí các âm tạo nên vần đó và yêu cầu học sinh phát âm cho đúng.
- Đọc tiếng: Khi yêu cầu học sinh đọc tiếng nào đó, tôi cho học sinh nêu cấu tạo tiếng.
Ví dụ: tiếng “ đào” gồm có âm đ đứng trước , vần ao đứng sau, dấu huyền trên a.
-Đọc câu: Đối với học sinh lớp Một, thực tế cho thấy các em thường đọc theo kiểu đọc
vẹt, nhưng phần lớn chưa nhớ được mặt chữ. Khi giáo viên yêu cầu đọc một chữ nào đó
thì học sinh không đọc được. Để học sinh nhận và nhớ được mặt chữ đọc đúng và nhanh,
khi học sinh đọc xong câu. Tôi cho học sinh phân tích tiếng nào đó hoặc che đi một số
chữ và yêu cầu học sinh đọc lại các chữ còn lại. Sau đó tôi có thể cho học sinh đọc câu
mới đã đảo lộn trật tự nhưng vẫn giữ nguyên nội dung câu vừa đọc. Với cách làm như
vậy tránh được học sinh đọc vẹt giúp học sinh đọc them từ mới câu mới.
Ví dụ: “ Sau cơn mưa, cả nhà cá bơi đi bơi lại bận rộn.” – Tách thành từ, cụm từ: bận
rộn / bơi đi bơi lại bận rộn/ cả nhà cá bơi đi bơi lại bận rộn. Sau cơn mưa, cả nhà cá bơi đi
bơi lại bận rộn.
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia.
Ví dụ: Trò chơi Đọc nhanh – Đọc đúng
Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc
nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi thường hay chọn các học
sinh trung bình, yếu để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo
cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
Hay trò chơi Chỉ nhanh – Chỉ đùng
Tôi gọi một nhóm 3 học sinh lên bảng 1 em (là học sinh khá, giỏi ) đọc cho hai học
sinh yếu chỉ vào âm, vần , tiếng , từ do bạn đọc .Trò chơi này học sinh rất thích và lớp
học cũng sôi nổi .
Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều
vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh trung bình – yếu để giúp các em cố
gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn giỏi trong lớp.
Và tôi đã cũng đọc với các bạn nhỏ trung bình – yếu ấy, nhằm giúp đỡ khả năng đọc
bài, cũng như giúp các em phân tích tiếng, cách đọc một tiếng, cách đọc sao cho nhanh
12
như: nhẩm âm đầu → nhẩm vần → ghép âm đầu với vần → ghép dấu thanh thành
tiếng…
-Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm, đọc
yếu để gọi các em thường xuyên đọc bài . Đối với học sinh giỏi – khá tôi thường khích lệ,
khen ngợi để các em phấn khởi hơn. Còn đối với học sinh trung bình – yếu tôi nhẹ nhàng
an ủi động viên: “ Cố lên, rồi các em sẽ đọc tốt như các bạn nếu các em cố gắng đọc bài
nhều ở lớp cũng như ở nhà.” Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi mời
các em đọc yếu, trung bình lên bàn giáo viên để cùng đọc bài với cô.Tôi giành nhiều thời
gian cho đối tượng này hơn. Cùng đọc bài với các em trong giờ ra chơi ( nhưng vẫn để
cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi). Khi các em có biểu hiện tiến bộ tôi thường
khen thưởng các em bằng những phần quà nhỏ như cuốn vở, viên phấn màu, cây bút đẹp
… để các em thích thú và cố gắng hơn.
4/ Kết quả thu được qua vấn đề nghiên cứu:
Qua việc rèn đọc cho học sinh với những biện pháp nêu trên, giúp cho học sinh lớp tôi
đạt được kết quả như sau:
Tổng
số học
sinh
17
Đầu năm học
Đọc được Đọc chưa
Cuối Học kì I
Đọc được Đọc chưa
được
17
14
Giữa học kì II
Đọc được Đọc chưa
được
3
16
được
1
17
0
Tất cả học sinh đều tích cực học tập, đọc có nhiều tiến bộ, rõ rệt so với thời điểm
đầu năm. Bây giờ, có nhiều em đọc theo ý muốn, đọc diễn cảm, to rõ ràng phát âm chính
xác. Giáo viên cần có sự đầu tư tốt hơn và thời gian nhiều hơn thì việc rèn đọc cho học
sinh đọc đến cuối năm mới đạt kết quả cao.
13
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.Kết luận:
-Trên đây là những biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp Một. Tôi đã áp dụng
dạy cho học sinh lớp của tôi trong năm học 2017 – 2018 và đã trở thành kinh nghiệm của
bản thân. Cụ thể đến cuối năm không có học sinh nào chưa biết đọc, nhận thấy các em
đọc ngày một tốt hơn, càng về sau chất lượng đọc của các em đạt kết quả tốt. Tôi nghĩ
rằng, những biện pháp trên không chỉ áp dụng riêng cho lớp tôi, mà còn có thể áp dụng
rộng rãi cho tất cả giáo viên đã và đang giảng dạy lớp Một.
- Mặc dù với những kết quả đạt được tốt nhưng tôi nghĩ các biện pháp trên cũng còn
có mặt hạn chế và còn nhiều sai sót mà tôi chưa thấy được. Rất mong được sự đóng góp ,
bổ sung của các đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo nhà trường để tôi có những biện pháp tốt
hơn trong việc rèn đọc cho học sinh lớp Một.
2. Kiến nghị:
Để cuối năm hạn chế được tối đa số học sinh đọc yếu ở lớp 1 tôi có một số kiến nghị
như sau:
- Đối với nhà trường: cần bổ sung thêm nhiều tranh ảnh minh họa cho môn Tiếng Việt
để giúp giáo viên có phương tiện dạy học tốt hơn .
- Đối với giáo viên:
+ Chúng ta cần phải thực sự quan tâm yêu thương, gần gũi và tạo không khí vui
tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em ham học học, và yêu thích môn học.
+ Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho các em
sự tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập
- Về phía học sinh: Có đầy đủ đồ dùng học tập .Có ý thức tự giác trong học tập .
- Về phía phụ huynh học sinh: Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học
bài đọc bài ở nhà của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc,
các phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng …để phụ huynh nắm rõ cách dạy
học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà. Giữ liên lạc thường xuyên với giáo
viên chủ nhiệm để kịp thời nắm được tình hình học tập của con em mình.
14
Trên đây là một số kiến nghị của bản thân. Rất mong các cấp lãnh đạo quan tâm giúp
đỡ tạo điều kiện để thầy và trò lớp Một dạy và học tốt hơn.
Ea sien, ngày 02 tháng 12 năm 2017
Người viết
H JUL BUÔN KRÔNG
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK và SGV môn Tiếng Việt lớp 1 NXB - GD.
2. VBT Tiếng Việt (tập 1,2) lớp 1 NXB – GD.
3. Thiết kế bài giảng môn Tiếng Việt lớp 1 (tập 1,2) NXB – HN 2004...
4. Sách bổ trợ Tiếng Việt lớp 1.
5. Một số tài liệu khác của NXB – GD.
16
17