Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Nguyễn Thị Như Nguyệt - Bài thu hoạch hồ sơ diễn án dân sự - Lao động số 09 (Autosaved)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.9 KB, 16 trang )

I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN:
1/ Nguyên đơn: TRẦN THỊ THU

Năm sinh: 1985

Số CMND: 031156XXX
Nơi ĐKHKTT: Số 6xx, Phố Đ, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hồng Bàng,
T.Hải Phòng.
Chỗ ở: Số 6xx, Phố Đ, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hồng Bàng, T.Hải
Phòng.
2/ Bị đơn: CÔNG TY TNHH YD VIỆT NAM (Công Ty YD)
Trụ sở: Lô 12xx khu công nghiệp NM – Hải Phòng, TP. Hải Phòng
Người đại diện theo pháp luật: Ông Shuhei – Chức vụ: Giám đốc
Nội dung sự việc như sau:
Ngày 17/10/2008, bà Trần Thị Thu và Công ty TNHH YD Việt Nam (sau
đây gọi tắt là Công ty YD) thoả thuận với nhau ký kết hợp đồng lao động không
xác định thời hạn với công việc là nhân viên văn phòng.
Quá trình làm việc, hai bên đều thực hiện đúng theo nội dung hợp đồng
lao động đã ký. Ngày 09/6/2015 đến hết ngày 08/12/2015 bà Thu nghỉ thai sản
theo quy định. Ngày 09/12/2015, khi quay trở lại làm việc theo quy định của
pháp luật, bảo vệ công ty cho biết lãnh đạo công ty không cho vào làm việc và
thông báo yêu cầu ngày 15/12/2015 bà Thu phải có mặt tại công ty để làm việc
một số sai phạm kế toán.
Ngày 15/12/2015, tại buổi làm việc với các lãnh đạo công ty, Công ty cho
rằng bà Thu có những sai phạm cá nhân trong quá trình làm việc, gây thiệt hại
cho công ty, lãnh đạo công ty cho biết sẽ tiến hành kỷ luật đối với bà Thu.
Ngày 25/12/2015, Công ty YD tiến hành họp hội đồng kỷ luật bà Thu với
lý do tìm thấy những sai phạm của bà Thu trong quá trình làm công việc kế toán
(có đầy đủ thành phần theo luật định), bà Thu đã ký vào biên bản này. Đến ngày
30/12/2015, Công ty YD ban hành Quyết định S008-14/QĐ bố trí bà Thu làm
công việc làm kế toán phụ trách quản lý kho rác từ ngày 05/01/2016 với công


việc chính là theo dõi, thống kê, kiểm đếm về tình trạng rác theo từng loại, trông
1


coi sắp xếp vệ sinh kho rác, chuẩn bị cân đo khi bán rác; địa điểm làm việc tại
kho rác của công ty.
Do không đồng ý với nội dung Quyết định chuyển vị trí làm việc, bà Thu
đã không tới làm việc và ký hợp đồng đồng dịch vụ pháp lý với Công ty Luật K
để bảo vệ quyền lợi cho mình. Công ty Luật K đã nhiều lần có văn bản gửi Công
ty YD yêu cầu giải quyết quyền lợi của bà Thu, nhưng phía Công ty YD không
có phản hồi. Ngày 12/3/2016, Công ty Luật K tiếp tục có văn bản đề nghị Công
ty YD hoà giải tranh chấp cá nhân nhưng vẫn tiếp tục không có phản hồi từ phía
Công ty YD.
Ngày 20/3/2016, Công ty YD họp và lập biên bản xử lý vi phạm kỷ luật
lao động tuy nhiên thành phần cuộc họp không có sự tham gia của bà Thu, nội
dung biên bản thống nhất kỷ luật bà Thu hình thức sa thải với lý do Công ty YD
đã gửi thông báo 03 lần cho bà Thu về việc yêu cầu bà Thu trở lại làm việc
nhưng quá thời hạn 05 ngày (theo nội quy lao động) bà Thu vẫn không đến.
Căn cứ văn bản đề nghị hoà giải tranh chấp của Công ty Luật K, ngày
14/5/2016 Công đoàn Khu kinh tế Hải Phòng đã tiến hành làm việc, hoà giải
giữa các bên. Tại buổi làm việc, bà Thu yêu cầu Công ty chấm dứt hợp đồng lao
động và bồi thường số tiền 128 triệu cho bà. Phía Công ty YD cho biết sẽ có văn
bản trả lời cho về yêu cầu của bà Thu chậm nhất ngày 22/5/2016, nếu hết thời
hạn trên Công ty YD không trả lời thì hai bên có quyền đưa vụ việc ra Toà án để
giải quyết.
Hết thời hạn theo biên bản làm việc trên, Công ty YD không có văn bản
phản hồi, do đó bà Thu đã nộp đơn khởi kiện Công ty YD tại Toà án nhân dân
huyện AD với yêu cầu giải quyết các nội dung bồi thường thiệt hại do hành vi sa
thải bà Thu trái pháp luật, cụ thể:
- Yêu cầu Công ty YD thanh toán tiền nợ lương từ ngày 09/7/2016 với

mức lương 21.733.600 đồng/ tháng.

2


- Yêu cầu Công ty YD thanh toán các khoản tiền trợ cấp thôi việc theo
quy định.
- Yêu cầu Công ty YD chốt sổ bảo hiểm xã hội ngay và trả sổ bảo hiểm
cho bà Thu.
Do hồ sơ khởi kiện tranh chấp còn thiếu Quyết định sa thải của người bị
kiện và các tài liệu liên quan đến việc xác định tiền lương để làm căn cứ yêu cầu
bồi thường, ngày 09/7/2016 Toà án có thông báo yêu cầu bà Thu phải bổ sung
chứng cứ. Ngày 14/08/2016 Công ty YD tổ chức họp xử lý vi phạm kỷ luật lao
động (cuộc họp vắng mặt bà Thu), nội dung buổi họp giống với phiên họp kỷ
luật ngày 20/3/2016 với kết quả cuộc họp là sa thải bà Thu vì lý do tự ý bỏ việc
quá 05 ngày. Tiếp đến ngày 15/8/2016, Công ty YD ban hành Quyết định số: 02QĐ/HĐKL về việc sa thải bà Trần Thị Thu. Bà Thu đã dùng Quyết định này nộp
bổ sung chứng cứ cho Toà án.
Ngày 14/10/2016, Toà án nhân dân huyện AD ban hành thông báo thụ lý
vụ án. Quá trình giải quyết, Toà án đã thực hiện hoà giải giữa các bên vào ngày
27/4/2017 và ngày 02/8/2017, tuy nhiên, việc hoà giải không mang lại kết quả.
Ngày 22/8/2017, Toà án nhân dân huyện AD ban hành Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số: 01/2017/QĐST-LĐ về việc tranh chấp về xử lý kỷ luật theo hình
thức sa thải giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Thu và bị đơn là Công ty TNHH YD
Việt Nam.
II. VỀ VẤN ĐỀ TỐ TỤNG
Qua nghiên cứu hồ sơ thấy rằng việc nguyên đơn khởi kiện là đủ điều
kiện và đúng quy định của Bộ luật tố tụng hiện hành, xin chứng minh:
1. Về thời hiệu khởi kiện:
Thời điểm xảy ra tranh chấp là tháng 12/2015, thời điểm này Luật chuyên
nghành áp dụng là Bộ luật lao động năm 2012 (BLLĐ). Căn cứ khởi kiện của

người khởi kiện xác định việc quyền lợi của mình bị xâm phạm là biên bản xử lý
vi phạm kỷ luật lao động ngày 20/3/2016 của Công ty YD với nội dung sa thải
3


bà Trần Thị Thu. Do đây là tranh chấp lao động cá nhân liên quan đến việc xử lý
kỷ luật theo hình thức sa thải nên không cần thông qua thủ tục hòa giải (điểm a
khoản 1 Điều 201 BLLĐ), vì vậy căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 202 Bộ luật
Lao động, thời hiệu khởi kiện là 01 năm, tính từ ngày bà Thu phát hiện hành vi
vi phạm của Công ty YD và cho rằng việc sa thải đó xâm phạm quyền lợi của
mình. Do đó, việc bà Thu khởi kiện không quá thời hiệu khởi kiện.
2. Về tư cách của chủ thể khởi kiện:
Nguyên đơn bà Trần Thị Thu là cá nhân có năng lực và hành vi dân sự
theo quy định đồng thời có quyền khởi kiện theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2
Điều 68 BLDS 2015. Việc bà Thu ủy quyền cho bà Nguyễn Thu Hà là luật sư
của Văn phòng luật sư K và tôi là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho nguyên
đơn là phù hợp quy định của pháp luật.
3. Về thẩm quyền của Tòa án:
Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35 và điểm a
khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết vụ việc trên
thuộc Toà án nhân dân huyện AD, thành phố Hải Phòng, do đó, bà Thu khởi kiện
tại Toà án nhân dân huyện AD là đúng quy định pháp luật.
4. Về thủ tục tiền tố tụng:
Ngày 14/5/2016 Công đoàn Khu kinh tế Hải Phòng đã tiến hành làm việc,
hoà giải giữa các bên. Tuy nhiên, do đây là tranh chấp lao động cá nhân về việc
xử lý kỷ luật hình thức sa thải thì theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 201 của
Bộ luật Lao động thì tranh chấp trong tình huống này không bắt buộc phải thông
qua thủ tục hoà giải mới được khởi kiện tại Toà án. Do đó, việc bà Thu khởi kiện
tại Toà án trong tình huống này mà không cần thông qua thủ tục hoà giải trước
phiên toà là phù hợp.

5. Quan hệ tranh chấp:
Căn cứ vào Hợp đồng lao động số YC-S008/PLHĐ-2008 ngày
17/10/2008 giữa nguyên đơn và bị đơn thì đây là Hợp đồng lao động hợp pháp.
4


Căn cứ các tài liệu, chứng cứ do bên nguyên đơn cung cấp, Công ty YD đã họp
kỷ luật hình thức sa thải đối với người lao động trong công ty là bà Trần Thị
Thu, như vậy, quan hệ tranh chấp trong tình huống này là quan hệ “tranh chấp
về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải.”
6. Nghiên cứu về các chứng cứ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho
nguyên đơn gồm có:
- Hợp đồng lao động số YC-S008/PLHĐ-2008 ngày 17/10/2008.
- Quyết định bố trí công việc số S008-14/QĐ ngày 30/12/2015.
- Biên bản họp kỷ luật ngày 25/12/2015.
- Biên bản xử lý vi phạm kỷ luật ngày 20/3/2016 và ngày 14/8/2016.
- Biên bản làm việc ngày 14/5/2016.
- Quyết định xử lý kỉ luật lao động với hình thức sa thải số 02-QĐ/HĐKL
ngày 15/8/2016.
- Các phụ lục hợp đồng về việc tăng lương hàng năm của Công ty YD với
bà Trần Thị Thu.
- Nội quy lao động của Công ty TNHH YD Việt Nam.
III. NỘI DUNG KHỞI KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN
Nguyên đơn - bà Trần Thị Thu đề nghị Toà án giải quyết các nội dung
sau:
1. Buộc Công ty YD huỷ bỏ các biên bản xử lý kỷ luật đối với nguyên
đơn từ thời điểm 09/12/2015 đến nay và huỷ bỏ quyết định sa thải đối với
nguyên đơn.
2. Buộc Công ty YD khôi phục mọi quyền lợi của nguyên đơn theo
hợp đồng lao động đã ký ngày 17/10/2008 gồm các khoản:


5


- Thanh toán tiền nợ lương từ ngày 09/12/2015 đến thời điểm hiện tại
(ngày xét xử là 12/9/2017, tổng cộng là 21 tháng với mức lương 20.393.000
đồng/ tháng, tổng cộng là 428.253.000 đồng)
- Bồi thường 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động theo quy
định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động tổng cộng là 40.786.000 đồng.
- Bồi thường 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động theo quy
định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động tổng cộng 40.786.000 đồng.
- Thanh toán các khoản tiền trợ cấp thôi việc theo quy định, cụ thể thời
gian đóng bảo hiểm là từ tháng 7/2006 đến hết tháng 12/2008 là 2,5 năm tương
ứng với số tiền (2,5 x 20.393.000)x 0.5 = 25.491.250 đồng (theo Điều 48 Bộ luật
dân sự).
Như vậy, tổng số tiền nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải bồi thường
và thanh toán là: 535.316.250 đồng.
IV. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA
1. Hỏi bị đơn:
- Công ty YD căn cứ vào đâu để thực hiện việc kỷ luật, bố trí công việc
khác sau đó sa thải bà Thu?
- Công ty cho rằng bà Thu có sai phạm trong quá trình làm kế toán
trưởng, vậy có chứng cứ gì không? Có thiệt hại xảy ra chưa?
- Khi thực hiện việc kỷ luật, công ty có biết bà Thu đang nuôi con dưới
12 tháng không?
- Tại sao lại điều chuyển bà Thu sang làm những công việc tại kho rác,
nơi có tính chất nặng nhọc và độc hại?
- Tại sao khi hoà giải do Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng, khi bà Thu
yêu cầu bồi thường, đại diện công ty nói sẽ có phản hồi nhưng sau đó sao lại
không phản hồi?

6


- Tại sao ngày 20/3/2016 Công ty đã họp hội đồng kỷ luật rồi mà đến
14/8/2016 lại lập 01 biên bản tương tự để sa thải bà Thu và tại sao Quyết định sa
thải phải đến 15/8/2016 mới ban hành?
2. Hỏi đại diện Công đoàn công ty:
- Với vai trò là tổ chức bảo vệ quyền lợi ích của người lao động, anh
chị có biết thời điểm họp xét kỉ luật bà Thu thì bà Thu đang nuôi con dưới 12
tháng hay không? Tại sao trong biên bản họp xét kỉ luật anh chị không có ý kiến
về viêc này?
- Tại sao bà Thu được chuyển sang làm tại kho rác anh chị không can
thiệp vì đây là công việc nặng nhọc độc hại, gây ảnh hưởng không tốt cho phụ
nữ, nhất là phụ nữ mới sinh nở?
3. Hỏi nguyên đơn:
- Bà cho biết khi xử lý kỷ luật bà, Công ty có nói rõ hay đưa ra chứng
cứ nói lên bà có sai phạm hay không?
- Khi công ty bố trí bà làm công việc tại kho rác, bà có ý kiến gì với
lãnh đạo công ty ko? Tại sao sau đó bà không đến làm việc?
- Khi công ty họp hội đồng kỷ luật bà, bà có nhận được thông báo
tham gia họp hay không? Buổi họp bà không tham gia thì các biên bản kỷ luật
và Quyết định kỷ luật tại sao bà có?
V. BẢN LUẬN CỨ
Thưa Hội đồng xét xử, thưa Vị đại diện Viện kiểm sát và toàn thể quý
vị có mặt tại phiên tòa ngày hôm nay. Tôi là Luật sư Nguyễn Thị Như Nguyệt –
là luật sư của Văn phòng luật sư A thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa. Nhận
được lời mời của thân chủ tôi là bà Trần Thị Thu, tôi có mặt tại phiên tòa ngày
hôm nay để tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bà Trần Thị Thu –
nguyên đơn trong vụ án “Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức
sa thải.”

7


Bà Trần Thị Thu và Công ty TNHH YD Việt Nam (sau đây tôi xin
được phép gọi tắt là công ty YD) ký kết hợp đồng lao động không xác định thời
hạn vào ngày 17/10/2008. Sau khi nghỉ thai sản, bà Thu quay trở lại làm việc thì
Công ty đã làm việc với bà Thu và cho rằng bà Thu có sai phạm trong quá trình
làm kế toán tại Công ty. Sau đó, Công ty YD tiến hành họp kỷ luật bà Thu và bố
trí công việc mới cho bà Thu tại kho rác (trước đó bà Thu là Kế toán trưởng của
công ty YD). Do nhận thấy công việc độc hại, gây ảnh hưởng cho sức khoẻ nên
bà Thu không đồng ý làm và yêu cầu gặp lãnh đạo công ty để nêu ý kiến nhưng
do bảo vệ công ty không cho vào nên sau đó, bà Thu không quay trở lại làm
việc. Sau đó, nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu phía Công ty tham gia giải quyết
nội dung vụ việc nhưng không nhận được phản hồi từ phía công ty. Liên tiếp
thời gian sau đó, Công ty YD đã thực hiện họp hội đồng xét xử kỉ luật hình thức
sa thải bà Thu và ban hành Quyết định sa thải bà Thu.
Tôi xin khẳng định rằng việc Công ty TNHH YD Việt Nam sa thải bà
Trần Thị Thu là trái pháp luật và hoàn toàn không có cơ sở, xin được chứng
minh như sau:
Thứ nhất: Các căn cứ để xác lập hình thức kỷ luật sa thải là không
hợp lý, Công ty YD không đưa ra được chứng cứ có giá trị để chứng minh
cho việc sa thải của mình là đúng đã vi phạm quy đinh tại điểm a khoản 1
Điều 123 Bộ luật lao động
Đối với việc Công ty YD cho rằng nguyên đơn đã có nhiều sai phạm
trong thời gian làm việc ở Công ty trước khi nghỉ thai sản, theo các hồ sơ biên
bản, chứng cứ mà Công ty YD nộp thì không có bất cứ tài liệu nào chứng minh
bà Thu sai phạm và cũng không xác định được lỗi cụ thể là lỗi gì. Mặt khác, tại
Khoản 1 Điều 3 Hợp đồng lao động ngày 17/10/2008 có nội dung hàng năm sẽ
tiến hành đánh giá năng lực nghiệp vụ của người lao động, như vậy nếu Công ty
YD cho rằng bà Thu sai phạm thì tại sao trong hồ sơ không có các quyết định về

việc đánh giá năng lực để chứng minh năng lực và nghiệp vụ bà Thu chưa tốt.
Tại các quyết định của Công ty YD từ năm 2011 đến năm 2014, các phụ lục hợp
8


đồng đều chứng tỏ năng lực nghiệp vụ của bà Thu là tốt và được xét tăng lương
hàng năm.
Như vậy, việc Công ty YD cho rằng bà Thu có sai phạm trong công
việc chuyên môn là không có cơ sở, vi phạm quy đinh tại điểm a khoản 1 Điều
123 Bộ luật lao động khi không chứng minh được lỗi của người vi phạm.
Thứ hai: Công ty YD căn cứ vào Khoản 3 Điều 126 Bộ luật lao
động để áp dụng hình thức kỷ luật sa thải đối với bà Trần Thị Thu là hoàn
toàn không có cơ sở
Công việc mà nguyên đơn đảm nhận từ trước đến nay là Kế toán
trưởng và làm việc tại Văn phòng. Sau khi nghỉ sinh, quay lại làm việc thì Công
ty bố trí cho bà Thu làm phụ trách quản lý kho rác, tiếp xúc với nhiều chất độc
hại, đặc biệt trong công việc được giao còn có việc cân đo, kiểm đếm rác … là
những việc rất nặng nhọc, phải mang vác trong khi bà Thu vừa mới sinh con,
sức khở còn yếu nên việc bà Thu không nhận công việc mới là có cơ sở. Đặc
biệt Công ty YD đã vi phạm nghiêm trọng về pháp luật lao động khi áp dụng
hình thức sa thải đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 12 tháng (căn cứ Điểm d
Khoản 4 Điều 123 Bộ luật lao động.
Mặt khác, tại Điều 158 Bộ luật lao động đã quy định rằng trường hợp
việc làm cũ không còn thì người sử dụng lao động phải bố trí việc làm khác cho
họ với mức lương không thấp hơn mức lương trước khi nghỉ thai sản. Như vậy,
Công ty YD đã vi phạm Điều 158 khi bố trí việc làm khác cho bà Thu nhưng
mức lương bà Thu nhận được chỉ bằng 85% mức lương cũ trước khi nghỉ thai
sản.
Với những sai phạm của Công ty YD như trên thì việc bà Trần Thị Thu
không chấp nhận công việc mới và không làm việc là hoàn toàn hợp lý và vì vậy

việc Công ty YD căn cứ vào Khoản 3 Điều 126 Bộ luật lao động để áp dụng
hình thức kỷ luật sa thải đối với bà Trần Thị Thu là trái pháp luật.

9


Thứ ba: Công ty YD đã thực hiện không đúng trình tự, thủ tục xử
lý kỷ luật lao động theo Điều 30 Nghị định 05/2015 ngày 12/01/2015
Tại khoản 1 Điều 30 Nghị định 05/2015 quy định trình tự xử lý kỷ luật
là phải gửi thông báo bằng văn bản về việc tham dự cuộc họp xử lý kỷ luật lao
động cho Ban chấp hành công đoàn cơ sở mà ở đây là Ban quản lý Khu kinh tế
Hải Phòng, Công đoàn Khu kinh tế Hải Phòng. Các thông báo về việc họp xử lý
Công ty YD chỉ gửi cho người lao động là bà Trần Thị Thu.
Tuy Công ty YD có đưa ra thông báo gửi cho bà Thu và họ khai rằng
gửi cho bà Thu 03 lần nhưng thực tế bà Thu không nhận được. Công ty YD đưa
ra các biên lai bưu điện chứng minh việc họ đã gửi thư thông báo cho bà Thu
nhưng các biên lai này không thể hiện nội dung thông báo việc gì và người nhận
ghi tên trên biên lai không phải là bà Thu, do đó không thể xem là căn cứ chứng
minh họ đã gửi thông báo đến cho bà Thu.
Mặt khác, Công ty YD cho rằng họ không ra quyết định xử lý kỷ luật vào
ngày 20/03/2016 mà đến ngày 15/8/2016 họ mới ra quyết định và quyết định sa
thải đó không vi phạm vào điều 123 Bộ luật lao động. Tại thời điểm Công ty YD
tiến hành họp xử lý kỷ luật ngày 20/03/2016 thì bà Thu vẫn đang trong thời gian
nuôi con nhỏ dưới 12 tháng nên việc Công ty này họp kỷ luật sa thải bà Thu là
trái với quy định của pháp luật. Việc bà Thu không đến họp là hoàn toàn hợp lý.
Thứ tư: Công ty YD cho rằng Công ty chưa ra quyết định sa thải
ngày 20/03/2016 mà ngày 15/08/2016 mới ra quyết định và việc ra quyết
định là đúng pháp luật.
Tôi cho rằng quan điểm này của Công ty YD là hoàn toàn sai bởi lẽ:
Tại bản ghi quá trình đóng bảo hiểm của bà Trần Thị Thu đã ghi nhận việc

Công ty YD chỉ đóng bảo hiểm cho bà Thu đến tháng 12/2018. Điều này mâu
thuẫn với việc Công ty YD cho rằng đến tháng 8/2016 họ mới có quyết định
chính thức sa thải bà Thu. Nếu đến tận tháng 8/2016 họ mới ra quyết định sa
thải, vậy tại sao từ tháng 1/2016 họ lại báo giảm lao động, chốt sổ bảo hiểm,
10


ngưng cung cấp các quyền lợi của bà Thu như trả lương, phụ cấp, bố trí công
việc phù hợp ..v…v… Điều này chứng tỏ Công ty YD đã sa thải bà Thu vào thời
điểm tháng 12/2015.
Ngoài ra thì việc Công ty YD tiến hành họp xử lý kỷ luật từ ngày
20/03/2018 nhưng chưa ra quyết định kỷ luật mà chờ đến tận ngày 15/08/2016
mới ra quyết định sa thải là một việc làm mập mờ, không rõ ràng.
Tóm lại: Từ những phân tích trên đây, tôi khẳng định Công ty YD đã vi
phạm nghiêm trọng việc xử lý kỷ luật bằng hình thức sa thải đối với người lao
động là bà Trần Thị Thu để rồi lấy đó làm căn cứ bố trí công việc khác không
phù hợp với sức khoẻ người lao động để làm cho bà Thu chán nản, ép bà Thu tự
nghỉ việc, từ đó lấy cớ bà Thu nghỉ quá 05 ngày để ra quyết định sa thải bà Thu,
như vậy, công ty sẽ không phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người lao
động.
Về phía nguyên đơn bà Trần Thị Thu cũng không đồng ý quay trở lại làm
việc tại công ty YD bởi lẽ bà nhận ra Công ty YD đã không còn muốn bà làm
việc tại công ty nữa, những mâu thuẫn giữa hai bên thời gian qua sẽ gây khó
khăn cho cả hai, không mang lại hiệu quả và lợi ích của công việc. Vì vậy,
nguyên đơn không yêu cầu Công ty YD nhận lại làm việc và đề nghị hai bên
chấm dứt hợp đồng lao động.
Từ căn cứ và lập luận nêu trên, tôi đề nghị quý Tòa như sau:
1. Tuyên buộc Công ty YD huỷ bỏ các biên bản xử lý kỷ luật đối với
nguyên đơn bà Trần Thị Thu từ thời điểm 09/12/2015 đến nay và huỷ bỏ quyết
định sa thải đối với bà Thu.

2. Tuyên buộc Công ty YD khôi phục mọi quyền lợi của nguyên đơn
theo hợp đồng lao động đã ký ngày 17/10/2008 gồm các khoản:
- Thanh toán tiền nợ lương từ ngày 09/12/2015 đến thời điểm hiện tại
(ngày xét xử là 12/9/2017, tổng cộng là 21 tháng với mức lương 20.393.000
đồng/ tháng, tổng cộng là 428.253.000 đồng)

11


- Bồi thường 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động theo quy
định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động tổng cộng là 40.786.000 đồng.
Ngoài ra do nguyên đơn không muốn quay trở lại làm việc, do đó yêu
cầu Công ty YD phải:
- Bồi thường 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động theo quy
định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động tổng cộng 40.786.000 đồng.
- Thanh toán các khoản tiền trợ cấp thôi việc theo quy định, cụ thể thời
gian đóng bảo hiểm là từ tháng 7/2006 đến hết tháng 12/2008 là 2,5 năm tương
ứng với số tiền (2,5 x 20.393.000)x 0.5 = 25.491.250 đồng (theo Điều 48 Bộ luật
dân sự).
Trên đây là bản luận cứ bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho nguyên đơn Trần
Thị Thu, tôi xin cảm ơn hội đồng xét xử và toàn thể quý vị đã lắng nghe. Tôi tin
tưởng vào sự công minh trong phán quyết của Hội đồng xét xử.

VI. NHẬN XÉT DIỄN ÁN:
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
12


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
13


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
14


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
15


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

16



×