VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN ĐIỆN TỬ BOLERO
I.KHÁI NIỆM VẬN ĐƠN ĐIỆN TỬ
1. Khái niệm:
Vận đơn đường biển điện tử là một thông điệp điện tử có nội dung và cấu
trúc theo những tiêu chuẩn thống nhất được chuyển từ nơi này sang nơi khác thông
qua hệ thống điện tử viễn thông mà không có sự can thiệp của phương thức lưu
chuyển cơ học để thay thế cho vận đơn giấy trong hoạt động vận tải. Trên thế giới
đã từng có 3 loại vận đơn đường biển điện tử: SEADOCS- Seaborne trade
Documentation System- hệ thống chứng từ thương mại hàng hải; vận đơn đường
biển điện tử theo qui tắc của CMI (Comité Maritime International: Uỷ ban hàng hải
quốc tế); và vận đơn Bolero. Tuy nhiên hiện nay hầu hết các vận đơn đường biển
điện tử được sử dụng là vận đơn Bolero do hai loại vận đơn trên có một số nhược
điểm vẫn chưa được khắc phục. Vận đơn Bolero ban đầu hình thành là để sử dụng
giữa các nước Châu Âu với nhau, song hiện tại đã được Bắc Mĩ và Nhật Bản.
2. So sánh với vận đơn truyền thống:
Chứng từ vận tải điều chỉnh mối quan hệ giữa người gửi hàng và người
chuyên chở trong phương thức thuê tàu chợ truyền thống là vận đơn đường biển.
Khi thực hiện phương thức thuê tàu chợ trong thương mại điện tử thì người gửi
hàng được cấp một vận đơn đường biển điện tử thông qua mạng. Vận đơn đường
biển điện tử có giá trị pháp lý và chức năng như vận đơn truyền thống. Tuy nhiên,
vận đơn đường biển điện tử có một số điểm khác biệt về hình thức, nội dung và
nguồn luật điều chỉnh so với vận đơn truyền thống như sau:
So sánh vận đơn truyền thống và vận đơn đường biển điện tử
(VĐTT) Vận đơn truyền thống
(VĐ ĐT) Vận đơn đường biển điện tử
Hình thức VĐTT thường được các công ty vận tải in sẵn theo mẫu riêng gồm hai
mặt. Một bộ vận đơn thông thường bao gồm 3 bản vận đơn gốc và các bản copy VĐ
ĐT là một thông điệp điện tử, do vậy nó không có khái niệm mặt trước, mặt sau.
VĐ ĐT chỉ có một bản chứ không phát hành 3 bản gốc như VĐTT.
Nội dung Mặt thứ nhất của VĐTT ghi các thông tin về người gửi hàng, người
chuyên chở, tàu chuyên chở và hàng hóa được chuyên chở. Mặt thứ hai in các điều
khoản chung qui định quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan VĐ ĐT có đầy đủ
nội dung của một vận đơn đường biển mặc dù nó không chia thành mặt trước, mặt
sau. Những qui định chung về quyền và nghĩa vụ của các bên được qui định riêng
tại mục “Điều khoản và điều kiện” tách rời bản ghi nội dung của VĐ ĐT
Ngoài ra, VĐ ĐT còn có một số yếu tố khác như mật khẩu, mã khoá v.v…nhằm
đảm bảo an toàn và tính bảo mật của VĐ ĐT . Nguồn luật điều chỉnh Hiện nay tồn
tại 3 nguồn luật điều chỉnh VĐTT:
1. Công ước Brussel 1924 và 2 nghị định thư sửa đổi vào năm 11968 và vào năm
1979
2. Công ước Hamburg 1978
3. Quy tắc Hage-Visby
4. Luật điều chỉnh hoạt động chuyên chở hàng hoá của các nước. Tuỳ thuộc vào loại
VĐ ĐT mà có nguồn luật điều chỉnh, tuy nhiên trên thực tế có 3 nguồn luật điều
chỉnh:
5. Incoterms 2000
6. Qui tắc CMI
7. Qui tắc về vận đơn Belero
8. Luật điều chỉnh hoạt động chuyên chở hàng hoá của các nước.
+ Nội dung của Vận đơn Bolero (B.B/L): có nội dung cơ bản giống như vận đơn
truyền thống do người chuyên chở cấp cho người gửi hàng. B.B/L có thể bị ghi chú
sạch hay không sạch (clean or unclean), hàng đã xếp lên tàu hay nhận để xếp phù
hợp với tập quán hàng hải quốc tế. B.B/L có thể bao gồm các điều khoản và điều
kiện chung của người chuyên chở.
+ Điểm khác biệt so với vận đơn truyền thống là B.B/L không có phần ghi tên
người chuyên chở, người gửi hàng, những người được chuyển nhượng khác, đồng
thời người chuyên chở không trực tiếp ký vào B.B/L mà ký bằng chữ ký kỹ thuật số
vào bức thông điệp trong đó có chứa B.B/L khi người chuyên chở gửi đến trung tâm
xử lý B.B/L.
Một số ưu điểm của Vận đơn điện tử
+ Tiết kiệm thời gian : Phương thức lưu chuyển vận đơn truyền thống thường kéo
dài nhiều ngày thậm chí là nhiều tuần, tuỳ thuộc vào khoảng cách địa lý giữa các
bên và tốc độ kiểm tra chứng từ của các ngân hàng. Trong nhiều trường hợp khi
quãng đường chuyên chở hàng hoá không dài cộng thêm việc tốc độ chuyên chở
ngày càng nhanh chóng, hàng hoá đến cảng trước khi vận đơn được chuyển cho
người nhận hàng, do đó người nhận hàng không có vận đơn để nhận hàng từ người
chuyên chở. Với vận đơn đường biển điện tử, việc lưu chuyển chỉ mất vài giờ, do
vậy, người nhận hàng luôn được đảm bảo vận đơn đến trước hàng hoá. Trong thời
đại ngày nay, việc tiết kiệm thời gian là vô cùng quan trọng, nhất là đối với các mặt
hàng mang tính mùa vụ nên việc sử dụng vận đơn đường biển điện tử có ý nghĩa rất
quan trọng.
+ Tiết kiệm chi phí: Vận đơn đường biển điện tử là các bản ghi điện tử do đó, việc
tạo lập, sử dụng, lưu chuyển hay xuất trình đều được tiến hành thông qua hệ thống
điện tử viễn thông. Điều này đã giúp người sử dụng vận đơn cũng như những người
liên quan khác tiết kiệm được chi phí in ấn, phát hành và lưu trữ vận đơn.
+ Bảo mật: Khi tạo lập vận đơn đường biển điện tử, người lập sẽ được cấp mă khoá
kép mà chỉ có người chủ sở hữu vận đơn, người chuyên chở và các cơ quan trung
gian trong việc lưu chuyển vận đơn đường biển điện tử là nắm được mã khoá cũng
như nội dung của vận đơn, do vậy đảm bảo được tính bảo mật của vận đơn. Trong
khi đó, những thông tin của vận đơn truyền thống dễ bị lộ hơn nữa khi bị thất lạc,
điều này không bao giờ có thể xảy ra đối với vận đơn đường biển điện tử.
+ Phù hợp với xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật: Cuộc cách mạng khoa học
công nghệ đang bùng nổ trên khắp thế giới đặc biệt là cuộc cách mạng về công nghệ
thông tin với các phương tiện điện tử như Internet, Fax, trao đổi dữ liệu điện tử
EDI. đã và đang tác động và làm thay đổi cuộc sống của con người theo hướng
ngày càng nâng cao điều kiện sống và sinh hoạt. Trong khi đó nếu sử dụng vận đơn
truyền thống sẽ không ứng dụng được những thành tựu của công nghệ tin học. Do
vậy, vận đơn đường biển điện tử ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và
phù hợp với xu thế phát triển khách quan của thời đại. 3.Nguồn luật điều chỉnh :
i.Incoterms2000
ICC đã tiên liệu sự phát triển của EDI và đưa ra các qui tắc diễn giải mới.
Điều 8A và 8B Incoterms 2000 đề cập tới giá trị hiệu lực của thông tin điện tử: “ở
nơi nào người mua và người bán thoả thuận liên lạc bằng điện tử thì có thể dùng
thoả thuận trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange agreement) có giá trị
tương đương thay cho chứng từ thông thường. Vì thế các bên cần phải thoả thuận sẽ
sử dụng các thông điệp điện tử thay thế các chứng từ vận tải thông thường trong đó
bao gồm cả vận đơn truyền thống
.
ii. Qui tắc của CMI đối với vận đơn đường biển điện tử
Điểm đáng chú ý của qui tắc này là áp dụng đối với vận đơn phải được kiểm
tra. Những qui tắc này đã được tổ chức CMI soạn thảo tại Paris vào tháng 6/ 1990.
Và các qui tắc của CMI không mang tính chất bắt buộc. Do vậy, các bên phải thoả
thuận các qui tắc này và trên cơ sở đó thống nhất với hợp đồng chuyên chở. Điều 1
nêu rõ: “ Qui tắc này áp dụng bất kỳ lúc nào các bên chấp nhận.” Nếu các bên quyết
định chuyển từ vận đơn CMI sang vận đơn giấy tờ thì mã khoá riêng sẽ mất hiệu
lực.
Điểm mấu chốt của qui tắc CMI chính là sự ra đời của vận đơn đường biển
điện tử. Các qui tắc này không nhằm mục đích điều chỉnh về EDI nói chung và vận
đơn nói riêng trên cơ sở toàn diện. Do đó, các qui tắc này không nhằm để thay thế
luật thực chất áp dụng cho vận đơn.
iii. Quy tắc BoleroTuỳ thuộc vào loại vận đơn đường biển điện tử mà có nguồn luật
điều chỉnh như khi sử dụng vận đơn Bolero thì sẽ phải theo các qui tắc do Bolero
International Limited đưa ra ( Bolero rulebook - chủ yếu cũng dựa trên qui tắc của
CMI )
II. QUI TRÌNH SỬ DỤNG VẬN ĐƠN ĐIỆN TỬ
1. Đăng kí khách hàng :
Trước khi tiến hành đăng ký thuê khoang tàu thì người gửi hàng phải đăng ký
mã tài khoản khách hàng (Customer ID) với hãng tàu. Sau khi vào trang web của
một hãng tàu mà người gửi hàng muốn thuê lưu cước, chọn nút “ Registry”. Sau đó,
trên trang chủ sẽ hiện ra trang đăng ký khách hàng. Người gửi hàng điền các thông
tin cá nhân vào mẫu đăng ký và gửi nó bằng cách nhấn chuột vào nút “OK”. Sau khi
kiểm tra lại các thông tin đã điền, nhấn chuột vào nút “Submit” để hoàn thành việc
đăng ký. Sau 48 tiếng, hãng tầu sẽ thông báo kết quả đăng ký cùng với hướng dẫn
tải (download) chứng chỉ kỹ thuật số (digital certificate).
2. Đăng kí thuê lưu cước tàu chính :
Sau khi nhập mã tài khoản khách hàng (Customer ID), nhấn chuột vào nút
Bookings. Sau đó, người gửi hàng tiến hành tạo một tờ khai thuê lưu cước mới
thông qua nút “Create Booking”.
- Trang “Create Booking” bao gồm 4 mục:
+ Booking homepage
+ Booking Details (Thông tin trên tờ lưu cước)
+ Cargo Details (Chi tiết về hàng hoá)
+ Finish (Hoàn thành việc đăng ký)
- Người gửi hàng sử dụng các mục: Booking Details, Cargo Details và Finish để
hoàn thành việc gửi giấy thuê lưu cước.
Ngoài những chi tiết cần điền giống như giấy lưu cước trong phương thức thuê tàu
chợ truyền thống, thì những chi tiết trong phương thức này còn bao gồm:
+ Địa chỉ e-mail của các bên
+ Những số tham chiếu (Reference Numbers) do hãng tàu áp cho từng người gửi
hàng và từng lần gửi hàng.
+ Mã con tàu
- Sau khi điền đầy đủ thông tin ở hai mục Booking Details và Cargo Details, người
gửi hàng nhấn chuột vào nút “Finish” để hoàn thành. Sau khi kiểm tra lại các thông
tin đã điền, nhấn chuột vào nút “Send” để gửi giấy thuê lưu cước.
3. Hãng tàu sẽ trả lời yêu cầu thuê lưu cước trong vòng 48 giờ làm việc, cùng
các chi tiết hướng dẫn việc vận chuyển hàng ra cảng.
4. Người gửi hàng theo đúng hướng dẫn của hãng tàu, vận chuyển hàng ra
cảng và giao cho người chuyên chở.
5. Người chuyên chở nhận hàng, kiểm tra. Sau đó gửi bức thông điệp tới hệ
thống Blero để yêu cầu tạo lập vận đơn đường biển điện tử. Người gửi hàng sẽ nhận
được vận đơn điện tử thông qua hệ thống Bolero.
III.NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI SỬ DỤNG VẬN ĐƠN ĐIỆN TỬ :
1. Chữ ký trong vận đơn đường biển điện tử
Vận đơn đường biển điện tử được ký bởi đại diện của người chuyên chở tại
cảng xếp hàng. Khi đó xác nhận được số lượng và tình trạng của hàng hoá xếp lên
tàu, chủ tàu hoặc đại diện của chủ tàu cũng có tư cách pháp lý để kí vận đơn. Một
vận đơn đôi khi cũng được ký hậu cho bên thứ ba trong quá trình chuyên chở. Vì
vậy khi sử dụng vận đơn điện tử, tất yếu chúng ta phải sử dụng chữ kí điện tử.
Khi sử dụng vận đơn điện tử, người gửi hàng sẽ có mã khoá kép để đảm bảo tính
bảo mật. Khi đó, người gửi hàng sử dụng mã khoá riêng (Private key) của mình để
mã hoá bức thông điệp. Chiếc chìa khoá này là duy nhất và chỉ có người gửi hàng
mới biết; sau đó người gửi hàng sẽ dùng chiếc chìa khoá chung (Public key) của
người chuyên chở để mã hoá lại bức thông điệp. Bức thông điệp này sẽ được gửi
đến người chuyên chở. Người chuyên chở chỉ có thể giải mã bức thông điệp với
chiếc chìa khoá riêng của mình. Điều này sẽ xác nhận rằng người chuyên chở sẽ
nhận được bức thông điệp gốc từ người gửi hàng. Chiếc chìa khoá chung được đăng
ký tại một bên thứ ba có uy tín (tổ chức Bolero). Tổ chức này sẽ xác nhận các thông
tin về bản thân người muốn đăng ký chữ ký điện tử. Điều này khuyến khích người
sẽ nhận bức thông điệp được mã hoá tiếp cận với chìa khoá chung. Một ưu điểm
nữa của hệ thống mã hoá kép là hệ thống này cho phép bức thông điệp này được
truy cứu lại nguồn gốc mà đối với chữ ký được qui ước thì người nhận sẽ khó có
thể xác nhận được chữ ký được ký bằng tay hay không.
Muốn đọc được chữ kí điện tử của người ký theo phương pháp này, người đọc phải
tìm đúng phần mã khoá công khai của người gửi, ngoài cách “gặp gỡ và trao đổi
trực tiếp mã khoá công khai cho nhau”, “nhờ môt bên trung gian chuyển khoá công
khai”, thì cách chủ yếu là “sử dụng các trung tâm phân phối mã khóa kép (key
distribution center)” như các trung tâm cung cấp chữ kí điện tử: Humin, SignOnline,
Interlink Electronics … Tại các trung tâm này có lưu giữ các cuốn danh bạ công
khai chủ yếu- giống như một cuốn danh bạ điện thoại, trong đó có ghi rõ tên doanh
nghiệp, tên người ký, quốc gia, thành phố đăng ký chữ ký, thời hạn hiệu lực của chữ
ký và mã khoá công khai tương ứng của chữ ký đó. Khi cần sử dụng, người dùng có
thể tải xuống phần khoá công khai cần thiết đó từ mạng Internet về máy tính của
mình và sử dụng. Ngược lại, họ cũng có thể đăng ký và gửi phần mã khoá công khai
của mình vào trung tâm này cho một hoặc nhiều người sử dụng khác nhau có thể
đọc được chữ ký của mình.
2. Một số đạo luật riêng về chữ kí điện tử của các nước:
- Khung pháp lý về CKĐT 13/12/1999 của EU;
- Luật giao dịch điện tử 2000 (Electronic Communications Act 2000) có hiệu lực
ngày 25/7/2000 của Anh;
- Luật chữ kí điện tử thương mại quốc gia và thương mại toàn cầu (Electronic
Signatures in Global and National Commerce, gọi tắt là E-sign Act) ngày 30/6/2000,
có hiệu lực từ ngày 1/10/2000
- Luật giao dịch điện tử thống nhất (UETA) của Hoa Kỳ;
- Luật CKĐT (Electronic Signature Bill) 7/1997 có hiệu lực vào năm 2000 của Đức;
- Luật bảo vệ thông tin cá nhận và tài liệu điện tử 1999 của Canada;
- Luật giao dịch điện tử (Electronic Transaction Act 1998) của Singapore; Sắc lệnh
giao dịch TMĐT (E-transaction Ordiance) có hiệu lực từ 7/1/2000 của Hồng Kông;
- Luật giao dịch điện tử 1999 của Australia; và một số nước khác như Thái Lan,
Nhật Bản cũng đã thông qua các đạo luật về thương mại điện tử.
- Việt Nam đã có dự thảo Luật giao dịch điện tử, Nghị định về chữ ký điện tử và
dịch vụ chứng thực điện tử.
3. Các quy tắc về vận đơn điện tử của Uỷ ban hàng hải quốc tế (CMI)
Cơ sở pháp lý đầu tiên điều chỉnh vận đơn điện tử là do Uỷ ban hàng hải
quốc tế (International Maritime Committee - CMI) đưa ra năm 1990. “Các quy tắc
về vận đơn điện tử” (“ Rules for Electronic Bills of Lading”) của CMI là một tập
hợp các điều khoản mà các bên có thể tự nguyện coi là một phần không tách rời của
hợp đồng mua bán (incorperate into a sales contract) trên cơ sở sự thoả thuận của
các bên. Quy tắc 1 nêu ra phạm vi áp dụng của các quy tắc này: “Các quy tắc này
được áp dụng trên cơ sở sự thoả thuận của các bên”.
Trong trường hợp hai bên quyết định chuyển vận đơn CMI thành vận đơn
giấy thì khoá bí mật (Private Key) của bản vận đơn đó sẽ trở nên vô hiệu. Tình
huống này xảy ra trong một số trường hợp, ví dụ như người cầm vận đơn mới (new
holder) không có các phương tiện điện tử cần thiết để nhận một vận đơn điện tử.
Các quy tắc của CMI đã lường trước được điều này và đưa ra một biện pháp giải
quyết linh hoạt là chuyển vận đơn điện tử thành vận đơn giấy.
Đặc trưng chính của các quy tắc này
• Mục đích chính của các quy tắc của CMI là việc tạo lập vận đơn điện tử. Do
đó, các quy tắc này không điều chỉnh việc xử lý các thông điệp dữ liệu nói
chung, và vận đơn nói riêng. Điều này được chứng minh bởi việc những
người soạn thảo ra các quy tắc này không định dùng chúng để thay thế các
nguồn luật vẫn điều chỉnh vận đơn, Trong đại đa số các trường hợp trong
thực tiễn hàng hải hiện nay, Quy tắc Hague hoặc Hague – Visby vẫn là
nguồn luật chủ yếu điều chỉnh vận đơn. Quy tắc 6 quy định: “Hợp đồng
chuyên chở sẽ chịu sự điều chỉnh của bất kỳ công ước quốc tế hoặc nguồn
luật quốc gia nào mà nếu một vận đơn trên giấy được phát hành thì vận đơn
đó bắt buộc phải chịu sự điều chỉnh của công ước quốc tế hay luật quốc gia
đó”.
• Tạo lập vận đơn điện tử theo các quy tắc của CMI
• Người gửi hàng giao hàng hoá cho người chuyên chở. Khi đó theo quy tắc số
4 người chuyên chở sẽ thông báo về việc nhận hàng cho người gửi hàng.
Việc này được thực hiện bằng một thông điệp được gửi tới địa chỉ điện tử
(electronic adress) của người gửi hàng. Thông điệp nhận hàng (“receipt
message”) phải đáp ứng một số các yêu cầu được nêu trong quy tắc 4 (b). Cụ
thể về mặt nội dung thông điệp này phải thể hiện những thông tin giống như
vận đơn truyền thống, bao gồm:
•tên người gửi hàng;
• mô tả hàng hoá;
• ngày và địa điểm nhận hàng;
• dẫn chiếu đến các điều kiện chuyên chở của người chuyên chở ; và
• khoá bí mật ( Private Key).
Điều 4(d) quy định thông điệp xác nhận nhận hàng “sẽ có hiệu lực như thể
thông điệp nhận hàng này được thể hiện trên vận đơn giấy”. Điều này cũng có nghĩa
thông điệp xác nhận nhận hàng này tương đương với một vận đơn giấy. Sau khi
nhận được thông điệp xác nhận nhận hàng, người gửi hàng phải xác nhận việc nhận
được thông điệp cho người chuyên chở. Trong thương mại truyền thống, người cầm
vận đơn có quyền sở hữu hàng hoá và có quyền ký hậu vận đơn cho một bên thứ ba
để chuyển nhượng quyền sở hữu đối với hàng hoá. Các quy tắc của CMI sử dụng
công cụ là “khoá bí mật” (“Private Key”) để thực hiện việc ký hậu và chuyển quyền
sở hữu đối với vận đơn điện tử. Khoá bí mật được định nghĩa trong Quy tắc 2 là “
bất cứ hình thức điện tử thích hợp nào… mà các bên thoả thuận để đảm bảo sự chân
thực và nguyên vẹn của một cuộc truyền tin”. Cách quy định như vậy tạo điều kiện
cho việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới đang và sẽ diễn ra trong lĩnh vực mã hoá
và giải mã các dữ liệu điện tử. Người nắm giữ khoá bí mật do đó có thể ra lệnh giao
hàng, chuyển quyền kiểm soát hàng hóa cho một bên thứ ba bất kỳ và chỉ định hoặc
thay thế người nhận hàng được chỉ định. Người nắm giữ khoá bí mật như vậy là có
đầy đủ các quyền mà người nắm giữ vận đơn giấy có được.
Khi người nắm giữ khoá bí mật đồng thời là người thực tế nắm giữ vận đơn
muốn chuyển quyền sở hữu vận đơn cho một người khác, anh ta sẽ phải thông báo
cho người chuyên chở ý định của anh ta. Khoá bí mật (mỗi người nắm giữ vận đơn
có một khoá bí mật riêng) sẽ được sử dụng để xác nhận tính chân thực của dữ liệu.
Tuy nhiên vẫn cần có những biện pháp an ninh để đảm bảo tính bí mật của việc
truyền tin. Sau đó, người chuyên chở phải xác nhận đã nhận được thông điệp của
người nắm giữ khoá bí mật và chuyển xác nhận nhận hàng (vận đơn) cho người chủ
mới của hàng hoá. Khoá bí mật lúc đó sẽ bị thu lại để chờ sự chấp thuận của người
chủ mới của hàng hóa về việc chuyển quyền sở hữu. Khi người nắm giữ vận đơn
mới đã chấp thuận việc chuyển quyền sở hữu hàng hoá, người chuyên chở sẽ cấp
cho người này một khoá bí mật mới va khoá bí mật trước đó sẽ bị huỷ bỏ. Người
chuyên chở trực tiếp thực hiện chức năng cơ quan đăng ký sở hữu và điều này sẽ
làm phát sinh một số vấn đề sẽ được đề cập dưới đây. Việc giao hàng sẽ được thực
hiện nếu người nhận hàng chứng minh được tư cách của mình với người chuyên
chở. Do đó, không cần thiết phải xuất trình vận đơn gốc để nhận được hàng.
Để ngăn ngừa các trở ngại về mặt pháp lý có thể phát sinh do luật của các
quốc gia khác nhau có các quy định khác nhau về việc chứng từ phải được lập dưới
dạng văn bản viết (“in writing”), CMI đã đưa ra Quy tắc số 11. Quy tắc này nói
rằng các bên thoả thuận rằng bất kỳ một đạo luật quốc gia hay tập quán nào yêu cầu
hợp đồng chuyên chở phải có bằng chứng dưới dạng văn bản sẽ được đáp ứng bằng
các dữ liệu điện tử được truyền tải và xác nhận (transmitted and confirmed data).
Ngoài ra, các bên thoả thuận sẽ không dùng luận điểm là hợp đồng không được lập
bằng văn bản trong trường hợp xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên, quy tắc này chưa xoá
bỏ được hoàn toàn những hoài nghi về khả các trở ngại pháp lý đối với vận đơn
điện tử.
Những vấn đề cần lưu ý
Liệu cơ chế khoá bí mật có thể thay thế được vận đơn có thể chuyển nhượng
truyền thống hay không? Bằng việc chấp nhận thông điệp xác nhận gửi hàng người
mua nhận được các quyền được pháp luật bảo hộ. Tuy nhiên, điều này được thực
hiện trên giả thiết là thông điệp xác nhận việc nhận hàng là chân thực. Nếu người
nhận nhận được một thông điệp giả mạo, rắc rối thực sự nảy sinh. Những vấn đề
này không thể khắc phục được chỉ bằng một tuyên bố rằng khoá bí mật và thông
điệp xác nhận việc nhận hàng tương đương với một vận đơn bằng giấy.
Các rắc rối cũng có thể nảy sinh từ việc người chuyên chở phải đóng vai trò của cơ
quan đăng ký sở hữu. Đây là trách nhiệm quá nặng nề đối với người chuyên chở.
Người chuyên chở phải đảm bảo bí mật cho mỗi giao dịch chuyển nhượng quyền sở
hữu. Tuy nhiên không có điều khoản nào trong bản quy tắc quy định rõ giới hạn
trách nhiệm của người chuyên chở nếu không đảm bảo được việc đó. Do đó người
chuyên chở có lẽ sẽ không tham gia vào các giao dịch mà giới hạn trách nhiệm của
mình không được quy định rõ ràng. Quy tắc không quy định rõ thời gian và địa
điểm vận đơn được ký kết. Trong trường hợp này các bên lại phải dựa vào Tư pháp
quốc tế (Private International Law) để xác định thời gian, địa điểm hình thành hợp
đồng.
Các ngân hàng cũng không mấy tin tưởng vào độ an toàn của hệ thống khoá bí
mật. Giao dịch càng phức tạp, càng có nhiều bên tham gia thì an ninh của hệ thống
càng khó đảm bảo. Các quy tắc của CMI cũng không đưa ra cơ chế chứng thực vận
đơn điện tử. Nhiều ý kiến cho rằng bên cạnh quy định về khoá bí mật, CMI phải có
các quy định về hệ thống mã số công cộng (public key system) để chứng thực vận
đơn. (“The Impact of EDI on Bills of Lading – A Global Pespective on the
Dynamics Involved” by Erik Muthow). Yêu cầu về “văn bản” (“writing” or
“document”)
Yêu cầu về việc các chứng từ phải được lập bằng văn bản là yêu cầu phổ biến của
hầu hết các luật quốc gia. Ví dụ, ở Úc, Đạo luật chuyên chở hàng hoá bằng đường
biển năm 1991 (Cwlth) định nghĩa thuật ngữ ‘hợp đồng chuyên chở’ là “hợp đồng
được thể hiện bằng một vận đơn hoặc bất ký chứng từ sở hữu nào khác…”. Và
chứng từ được liệt kê gồm:
a. Bất kỳ giấy tờ hoặc chất liệu nào có chữ viết trên đó.
b. Bất kỳ giấy tờ hoặc chất liệu nào có các ký hiệu, cac hình ảnh…có ý nghĩa mà
một người có đủ năng lực có thể hiểu được chúng; và
c. Bất kỳ đồ vật hoặc chất liệu nào phát ra hình ảnh hoặc chữ viết mà có thể tái
tạo lại được nhờ vào hoặc không cần nhờ vào sự trợ giúp của bất kỳ đồ vật hay thiết
bị nào khác. Mặc dù theo quy định trên thì rõ ràng chứng từ không chỉ được hiểu là
chứng từ dưới hình thức giấy tờ nhưng riêng đối với vận đơn đường biển, trên thực
tế, các toà án Úc cũng chỉ chấp nhận các vận đơn lập trên giấy vì vận đơn theo luật
bắt buộc phải có chữ ký.
Tại Anh đã có án lệ mà cơ sở dự liệu trên máy tính được chấp thuận là văn bản
(document). Tuy nhiên điều này có lẽ vẫn chưa thoả mãn các yêu cầu đối với “văn
bản viết” (“writing”). Luật diễn giải (Interpretation Act) năm 1978 của Anh định
nghĩa “writing” bao gồm “đánh máy, in, in thạch bản, chụp ảnh và các cách thức thể
hiện và mô phỏng các từ ngữ dưới dạng có thể nhìn thấy được”. Do đó, nếu một văn
bản phải đáp ứng yêu cầu được thể hiện dưới dạng viết, một thông điệp dự liệu sẽ
không phải là một văn bản. Tuy nhiên, do việc liên lạc bằng các phương tiện điện tử
ngày càng trở nên phổ biến thì thuật ngữ “văn bản” cũng phải được hiểu theo nghĩa
rộng hơn. Theo Luật mẫu, hiệu lực pháp lý của các dữ liệu điện tử hoàn toàn tương
đương với văn bản viết. Điều 6 của Luật mẫu quy định trường hợp pháp luật (luật
quốc gia) đòi hỏi thông tin phải thể hiện bằng văn bản viết thì một thông điệp dữ
liệu được coi là thoả mãn đòi hỏi ấy nếu thông tin hàm chứa trong đó là có thể truy
cập được để sử dụng cho mục đích tham chiếu sau này trừ một số trường hợp cụ thể
được liệt kê. Chữ ký và các phương pháp chứng thực khác:
Phương pháp chứng thực phổ biến nhất mà luật pháp quốc gia và quốc tế
thường yêu cầu đó là chữ ký bằng tay. Chữ ký có vai trò quan trọng không chỉ bởi
nó chứng thực các bên của hợp đồng mà còn là bằng chứng thể hiện ý chí của các
bên sẵn sàng chịu các trách nhiệm pháp lý. Việc chứng thực một thông điệp điện tử
bằng chữ ký là để cho người nhận thông điệp đó cũng như các bên thứ ba biết
nguồn gốc của thông điệp cũng như ý chí của bên đưa ra thông điệp đó.
Công ước Hamburg quy định việc ký có thể được thực hiện “ bằng tay, bằng fax,
đục lỗ, đóng dấu, bằng các biểu tượng hoặc bằng bất kỳ phương tiện máy móc hoặc
điện tử nào, nếu không mâu thuẫn với luật quốc gia nơi vận đơn được phát hành”.
Tuy nhiên đối với hầu hết các toà án, thuật ngữ “chữ ký” vẫn chỉ được giới
hạn ở chữ ký bằng tay. Theo quy định của Luật mẫu, các giải pháp kỹ thuật thích
hợp sẽ có hiệu lực pháp lý như chữ ký truyền thống và các bên có toàn quyền thoả
thuận giải pháp kỹ thuật cụ thể. Điều 7 của Luật mẫu quy định: “Trong trường hợp
pháp luật đòi hỏi phải có chữ ký của một người nào đó, thì một thông điệp dữ liệu
được coi là đáp ứng đòi hỏi ấy nếu: (a) có sử dụng một phương pháp nào đó để xác
minh được người ấy và chứng tỏ được sự chấp thuận của người ấy với thông tin
hàm chứa trong thông điệp dự liệu đó; và (b) phương pháp ấy là đủ tin cậy với
nghĩa là thích hợp cho mục đích mà theo đó thông điệp dữ liệu ấy đã được tạo ra và
truyền đi, tính đến tất cả các tình huống, bao gồm cả các thoả thuận bất kỳ có liên
quan”. Theo điều khoản này, Luật mẫu không quy định một phương pháp kỹ thuật
cụ thể đối với chữ ký, bất kỳ công nghệ chữ ký điện tử nào cũng có thể được ứng
dụng trong tương lai mà không cần phải sửa đổi luật. Chứng từ sở hữu và khả năng
chuyển nhượng. Chứng từ sở hữu là chức năng quan trọng nhất của vận đơn. Một
câu hỏi liên quan đến chứng từ sở hữu và khả năng chuyển nhượng trong bối cảnh
vận đơn điện tử đang từng bước thay thế vận đơn truyền thống là liệu khả năng
chuyển nhượng vận đơn và theo đó là chuyển quyền sở hữu hàng hoá có thể thực
hiện được bằng vận đơn điện tử hay không. Nhóm công tác của UNCITRAL về
EDI chưa kết thúc cuộc nghiên cứu về vấn đề này. Theo kế hoạch, UNCITRAL sẽ
phải tổ chức thêm các cuộc hội thảo về khả năng chuyển nhượng vận đơn và chuyển
quyền sở hữu đối với hàng hoá của vận đơn đường biển. Nghiên cứu này sẽ xem xét
các gợi ý và kiến nghị của nhiều quốc gia cũng như tổ chức quốc tế. Một gợi ý thú
vị thu hút được sự chú ý của nhóm công tác là gợi ý của các chuyên gia Mỹ: “Cần
phải lưu ý một điểm là cái được chuyển nhượng không phải là tờ giấy hay một
thông điệp điện tử (đó chỉ là phương tiện), mà là các quyền và/ hoặc quyền sở hữu
đối với đối tượng của giao dịch”. Kết quả của vấn đề cuối cùng và cũng là vấn đề
quan trọng nhất để vận đơn điện tử có thể đảm đương được các chức năng của vận
đơn truyền thống do đó vẫn đang ở phía trước và sẽ được đưa vào bản cuối cùng
của Luật mẫu.
IV.HỆ THỐNG BOLERO.NET:
1.Quá trình ra đời:
Bolero là viết tắt của “ Bill of Lading Electronic Registry Organization”. Dự án
Bolero được sự ủng hộ của Uỷ ban Châu Âu và được thực hiện trên cơ sở sự hợp
tác giữa Society for Worldwide Interbank Finance Transaction (SWIFT) và
Thorough Transport Mutual Insurance Association Ltd. (TT club). Ý tưởng của các
bên khi tiến hành dự án này là nếu một tổ chức chuyên thực hiện việc thanh toán
các giao dịch thương mại quốc tế và một tổ chức có chức năng giảm thiểu rủi ro cho
các nhà chuyên chở trong các giao dịch này mà hợp tác với nhau để xây dựng và
vận hành một hệ thống điện tử thì hệ thống đó dễ được thị trường chấp nhận hơn là
một hệ thống do những người chẳng có chút liên quan nào đến thương mại quốc tế
tạo lập nên. Hệ thống Bolero được chính thức đưa vào hoạt động từ ngày 27 tháng 9
năm 1999. Bolero bao gồm hai công ty riêng biệt, do đối tượng khác nhau sở hữu
nhưng có mối quan hệ hết sức mật thiết với nhau trong việc duy trì hoạt động của cả
hệ thống. Bolero Association Limited (BAL) do các thành viên của nó sở hữu. BAL
được thành lập năm 1995 và bao gồm tất cả các thành viên của Bolero.net cũng như
các tổ chức ngành nghề (cross-industry bodies) ủng hộ mục tiêu tạo ra một nền
thương mại điện tử thay thế cho nền thương mại dựa trên giấy tờ từ trước tới
nay.Bolero International Limited là một công ty liên doanh giữa SWIFT và TT Club
và là người cung cấp các dịch vụ của hệ thống Bolero.net.
(The Bills of Lading Electronic Registry Organization – The Bolero Project của
Simon Taylor/ www.elbornes.com)
2.Các mục tiêu mà Bolero hướng tới:
Đảm bảo các dịch vụ do Bolero cung cấp đáp ứng được các yêu cầu của các
thành viên; và các dịch vụ thương mại khác có liên quan được phát triển
đồng bộ với các dịch vụ trên;