§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
và nhỏ là tương đối cao. Thứ nhất là tình trạng khai giảm, khai thiếu số lao
động trong doanh nghiêp, trường hợp thứ hai là không tham gia hoàn toàn.
Tồn tại tình trạng trên một phần do sự thiếu tích cực của chủ sử dụng lao
động, một phần do sự quản lí chưa chặt của cơ quan ban ngành có liên quan.
Chưa có sự phối kết hợp cần thiết giữa các đơn vị quản lí, bên cạnh đó các
chế tài pháp luật cũng chưa có những biện pháp sử phạt nghiêm minh đối
với tình trạng này.
Các doanh nghiệp hiện nay trong việc đóng phí BHXH vẫn diễn ra
tình trạng khai giảm quỹ lương của doanh nghiệp để trốn đóng . Đặc biệt
hơn là tình trạng nợ đọng, nợ chậm đóng còn nhiều. Tình trạng trên còn tồn
tại là do cơ quan BHXH Việt Nam chưa có những biện pháp quản lí hữu
hiệu, các quy định về xử phạt là chưa thực sự nghiêm khắc.
2.2. Trong công tác chi trả BHXH Việt Nam còn nhiều hiện tượng sai sót
trong xét duyệt, tình trạng tồn đọng trong giải quyết chế độ vẫn tồn tại.
Qua việc kiểm tra các hồ sơ xét hưởng BHXH Việt Nam còn phát
hiện những trường hợp xét duyệt sai, như xét duyệt không đúng chế độ,
chính sách, tính toán sai, thiếu giấy tờ,... . Trong những năm qua BHXH Việt
Nam thông qua công tác thẩm định đã trả lại không ít hồ sơ để BHXH tỉnh
bổ xung, hoàn chỉnh lại. Có tình trạng này là do công tác đào tạo, hướng dẫn
nâng cao nghiệp vụ chưa được quan tâm đúng mức.
Tình trạng tồn đọng trong giải quyết các chế độ còn phổ biến, tức là
các đối tượng đặc biệt là các đối tượng được hưởng trợ cấp một lần sau khi
nghỉ việc đã chuyển đến nơi khác gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác chi
trả. Đây là những hạn chế do nguyên nhân khách quan, hiện nay đang được
khắc phục bằng cách đưa những thông tin đó lên các phương tiện thông tin
đại chúng của địa phương để đối tượng được hưởng chế độ được biết.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
2.3. Công tác đầu tư bảo tồn và phát triển quỹ tuy đã có thu nhưng còn
hạn chế lợi nhuận từ đầu tư còn rất nhỏ.
Vấn đề ở đây là hiệu quả đồng vốn bỏ ra là chưa cao, lí do chủ yếu
các hoạt động đầu tư còn theo chỉ định của Chính phủ. Các quy định về hạng
mục đầu tư còn hạn hẹp, hình thức đầu tư đơn điệu. Các ngân hàng được
phép vay mới chỉ bó hẹp trong các ngân hàng Nhà nước: NH Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, NH Công thương, NH Ngoại thương, NH Đầu tư và
Phát triển. Trong quản lí đầu tư BHXH Việt Nam chưa có sự phân định trách
nhiệm rõ ràng, chưa có bộ phận chuyên môn quản lí nghiệp vụ này mà chỉ
mới giao cho Ban Kế hoạch- tài chính đảm nhiệm.
Hoạt động đầu tư hiện nay vẫn hoàn toàn thụ động, chưa tiếp cận
được với những dự án lớn, lợi nhuận cao. Hiện nay lãi suất trung bình là rất
thấp, nếu cứ như hiện nay thì các biện pháp đầu tư bảo toàn và tăng trưởng
quỹ chưa đủ để khác phục sự mất cân đối lâu dài của quỹ BHXH trong
tương lai. Tình hình tài chính khu vực mới ổn định trở lại sau khủng hoảng
kinh tế khu vực năm 1997, nền kinh tế nước ta còn kém khả năng hấp thụ
vốn đầu tư. Bên cạnh đó thị trường tài chính Việt Nam chưa thực sự ổn định,
tỷ lệ lạm phát ở mức tương đối cao. Nhà nước hiện nay đang thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt, tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi thấp.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUẢN LÍ
TÀI CHÍNH BHXH VIỆT NAM
TRONG THỜI KÌ TỚI
I. Những quan điểm chủ yếu về vấn đề quản lí tài chính BHXH Việt
Nam trong giai đoạn tới.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
1. Quan điểm trong xây dựng chính sách BHXH.
Trong quá trình xây dựng chính sách BHXH phải thực sự quan tâm tới
đường lối, điều kiện kinh tế của đất nước để từ đó đưa ra được những chính
sách phù hợp. Sau đây là những quan điểm chủ yếu trong xây dựng chính
sách BHXH Việt Nam:
- Chính sách BHXH phải thể hiện được đường lối đổi mới, phát triển
của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì mới, thời kì công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
- Chính sách BHXH phải phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của nước
ta hiện nay.
- Nhà nước thống nhất quản lí và ban hành chính sách BHXH theo
hướng phát huy quyền của các bên tham gia BHXH.
- Đa dạng hoá các hình thức BHXH.
- Hoàn thiện cơ chế hoạt động và tổ chức bộ máy thực hiện chính sách
BHXH cho phù hợp với điều kiện của đất nước.
2. Những quan điểm cụ thể trong công tác quản lí tài chính BHXH Việt
Nam trong giai đoạn tới.
- Quỹ BHXH hình thành nên từ những đóng góp của các bên than gia,
trong đó gồm người lao động và cả chủ sử dụng lao động. Bên cạnh đó có sự
hỗ trợ của NSNN, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ và các
nguồn thu hợp pháp khác.
- Quỹ BHXH được quản lí tập trung, thống nhất, dân chủ và công khai
trong toàn hệ thống BHXH Việt Nam; hoạch toán theo quỹ thành phần độc
lập với NSNN và được Nhà nước bảo hộ.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Quỹ BHXH đảm bảo cho các đối tượng hưởng chế độ sau ngày
1/10/1995 (trước ngày này do NSNN đảm bảo); chi BHYT cho các đối
tượng tham gia BHYT; chi quản lí bộ máy của hệ thống BHXH Việt Nam;
chi xây dựng cơ bản và các khoản chi khác.
- BHXH có trách nhiệm dùng quỹ nhàn rỗi để đầu tư an toàn, bảo toàn
được giá trị quỹ và có hiệu quả về mặt kinh tế- xã hội.
- Quỹ BHXH được hoạch toán riêng và cân đối thu chi theo từng năm.
II. Giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hoạt động quản lí tài
chính BHXH trong gian đoạn tới.
1. Bài học kinh nghiệm từ hệ thống BHXH CHLB Đức và Trung Quốc.
Qua tìm hiểu về tổ chức quản lí và hoạt động tài chính của hai hệ
thống BHXH trên ta nhận thấy một số những ưu điểm như khắc phục được
sự ảnh hưởng từ môi trường kinh tế. Đặc biệt là hệ thống BHXH của CHLB
Đức hiện nay đang thực hiện theo phương thức hàng năm sẽ thống kê ra số
chi, trên cơ sở số liệu đó tính toán số thu hợp lí cho năm đó. Thực hiện như
vậy lạm phát không thể ảnh hưởng tới quỹ BHXH cũng như việc chi trả các
chế độ chính sách. Vì vậy, BHXH sẽ chủ động hơn trong việc quản lí tài
chính. Hiện nay dự trữ quỹ BHXH là rất nhỏ chứng tỏ quỹ BHXH đảm bảo
được khả năng chi trả một cách tương đối ổn định. Tuy vậy việc triển khai
thực hiện phương thức này đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định.
Thường là ở những nước phát triển, có tiềm năng kinh tế đủ mạnh thì mới có
thể áp dụng được phương pháp này. Việc triển khai phương thức này tại Việt
Nam là tương đối khó khăn, việc thống kê là rất khó chính xác, chi phí lớn.
Hơn nữa điều kiện kinh tế nước ta là nước đang phát triển, điều kiện kinh tế